Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Dọc mùng (tranh) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.83 KB, 7 trang )

Dọc mùng (tranh)


Phong cảnh
Thiếu nữ trong vườn
Nguyễn Gia Trí, 1939

Sơn mài, 160 cm × 400 cm cm

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam


Dọc mùng (tên gọi chính xác là Phong cảnh) là bức tranh sơn mài khổ lớn trình
bày theo kiểu bình phong của họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Bức tranh thực chất gồm hai
mặt, mặt trước là tranh Phong cảnh còn mặt sau là tranh Thiếu nữ trong vườn. Bức
tranh được giới chuyên môn cũng như giới sưu tập đánh giá là Bức tranh sơn mài
đẹp nhất Việt Nam. Hiện nay, bức tranh được đặt trang trọng tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
Mục lục
 1 Lai lịch
 2 Miêu tả bức tranh

 3 Đánh giá
 4 Chú thích
Lai lịch
Sau chiến dịch Đại thắng mùa xuân 1975, cố hoạ sĩ , nhà phê bình mỹ thuật
Nguyễn Đỗ Cung, nguyên Viện trưởng đầu tiên của Viện Mỹ thuật Việt Nam đã
chỉ thị cho người cộng sự của mình là hoạ sĩ, nhà điêu khắc Nguyễn Thiện vào Đà
Lạt tìm và đưa bức sơn mài nổi tiếng của danh họa Nguyễn Gia Trí về Hà Nội an
toàn, nguyên vẹn.
Họa sĩ Nguyễn Thiện người cộng sự năm xưa giờ đã vào tuổi 80 bồi hồi kể lại:


"Sau giải phòng miền Nam 1975, tôi khi đó là Trưởng phòng Phục chế, trang trí và
trưng bày của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam được ông Nguyễn Đỗ Cung, Viện
trưởng gọi lên giao nhiệm vụ vào Nam tìm và đem bằng được bức tranh Dọc mùng
của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí lúc đó đang được đặt tại dinh thự của Ngô Đình Diệm ở
Đà Lạt về Hà Nội. Nhận nhiệm vụ, tôi không dám hỏi lại Viện trưởng vì sao chỉ
cử một mình tôi vào tìm, đem bức tranh về, bởi tôi biết ông là một người rất cẩn
trọng. Lặng lẽ gói gém hành trang tôi lên đường với hy vọng hoàn thành nhiệm
vụ."
"Sau vài tuần vất vả đi đường, tôi cũng đến được Đà Lạt, và thật may mắn công
tác bảo vệ, giữ gìn các công trình kiến trúc của chế độ cũ được các cơ quan Trung
ương cũng như địa phương làm khá tốt sau giải phóng.
Hầu như các hiện vật là các bức tranh quý tại các dinh thự của quan lại chế độ cũ
được bảo quản khá nguyên vẹn. Bức tranh Dọc mùng được tôi tìm thấy tại dinh
thự cổ của một viên chủ đồn điền Pháp tại Đông Dương được Ngô Đình Diệm
chọn làm nơi ở mỗi khi lui về nghỉ dưỡng tại Đà Lạt.
Khi đó tôi thật sự cảm phục sự tinh tế của ông Nguyễn Đỗ Cung và hiểu vì sao
Viện trưởng lại cử mình vào tìm bức tranh.
Một vấn đề khó khăn xuất hiện sau khi tìm được bức tranh. Đó là làm sao đưa
được bức tranh trở về Hà Nội một cách an toàn và nguyên vẹn, bởi bức tranh là
bình phong khổ lớn gồm tám bức ghép có kích thước 160cmx400cm. Tôi đành
điện ra Hà Nội báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo và Viện trưởng đã cử một đoàn công
tác đặc biệt do hoạ sĩ Nguyễn Văn Y, một bậc thầy về gốm, khi đó là Phó Viện
trưởng Viện Mỹ thuật Việt Nam dẫn theo tổ công tác gồm hoạ sĩ Chu Khắc Thuật,
Lê Kim, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Bích, Hải Yến… là cán bộ của Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam vào hỗ trợ tìm cách đưa bức tranh trở về".
Ông Thiện kể tiếp: "Sau giải phóng, giao thông đi lại thật gian khó, nhưng khi
chúng tôi đề xuất với địa phương về sự quan trọng cần gìn giữ và đưa bức tranh ra
Hà Nội phải được đảm bảo an toàn tuyệt đối, nên đã được tạo điều kiện rất thuận
lợi". Và hành trình của “chuyến xe đặc biệt” vận chuyển bức tranh sơn mài đẹp
nhất Việt Nam về Sài Gòn rồi sau đó ngược ra Bắc an toàn.

[1]

Miêu tả bức tranh
Bức tranh là một bộ bình phong gồm 8 tấm gỗ ghép lại. Với sơn son, sơn then,
vàng, bạc, vỏ trứng và sơn cánh gián họa sĩ đã tạo cho Dọc mùng một vẻ đẹp lộng
lẫy, có chiều sâu bí ẩn, đưa kĩ thuật sơn mài lên đỉnh cao, khẳng định tầm quan
trọng của chất liệu hội hoạ này trong nền mỹ thuật Việt Nam, đồng thời, đánh dấu
sự khởi đầu cho khuynh hướng sáng tác đưa sơn mài vào nghệ thuật của Nguyễn
Gia Trí những năm sau này.
Mặt trước là hình ảnh cây dọc mùng với nét vẽ khoẻ khoắn, những mảng vỏ trứng,
hình cây điển hình được viền bằng những mảng mầu to rộng, nét cứng cáp gợi về
sự gần gũi chân quê của vùng nông thôn Bắc Bộ Việt Nam.


Dọc mùng (mặt trước)
Mặt sau,bức tranh Thiếu nữ trong vườn là vườn hoa muôn sắc màu, trong đó các
cô gái đang vui đùa, chạy nhảy, giá trị hiện thực toát lên từ hình khối, động tác.
Sắc vàng kim được dát trên nền trời, trên những tấm áo điểm xuyết vỏ trứng,
những vệt vàng lộng lẫy trên từng đường lượn như tôn vẻ đẹp thanh tân thiếu nữ.


Thiếu nữ trong vườn (mặt sau)
Mọi thành tựu kỹ thuật đều được phát huy hết mức, đặc biệt là thủ pháp để lộ nền
son trong những hình người khiến các nhân vật nhẹ lâng lâng như tan được. Việc
xử lý vỏ trứng ở đây có những sáng tạo mới: vỏ trứng nhoè mờ, ẩn hiện như thủy
mặc, mềm như lụa, ánh vàng kim chiếu ra từ bên trong, từ những kẽ vỏ trứng như
một ánh sáng nội tại huy hoàng, và các nét tinh tế màu đen chạy trên mặt vỏ trứng
khiến ta nhìn thấy được những đường gió cuốn tà áo dài thiếu nữ.



Cận cảnh khuôn mặt ba thiếu nữ trong tranh
Ở đây sử dụng mô-típ ba cô (Ba cô gái đứng cạnh nhau) của Botticelli nhưng có
thể thấy sự khác biệt ở vẻ mông lung hư ảo nhiều hơn, phần hồn át hẳn phần xác,
nhịp chân tíu tít, bước chân tung tẩy như không chạm đất, sự trong trắng phát sáng
từ bên trong. Các cô đã rời cõi thế lên tiên giới.
[2]

Đánh giá
Ngoài những sự công nhận giá trị của bức tranh này, nó còn làm thay đổi cả quan
niệm về sơn mài truyền thống.

"Danh từ sơn mài (laque) là một danh từ mới đặt sau này để chỉ một kỹ
thuật trước kia gọi là Sơn Ta nhưng đã biến hoá hẳn do nghệ thuật mài
sơn. Kỹ thuật Sơn Ta cũng tương tự như sơn Tàu, có từ đời nhà Hán. Sử
dụng cùng với Sơn Ta một nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn sống này, ở
nước ta, miền Phú Thọ sản xuất rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng
Nhật. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng Sơn Ta cũng như Sơn Tàu ở
Tàu và Sơn Nhật ở Nhật là phủ lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng lẫy, lên
những vật dùng thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc, đồ thờ như
hương án dài, bát đĩa, đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong
màu sắc đại để có: son, đen, nâu, cánh gián, vàng, bạc theo cổ truyền.
Nói rõ ra, Sơn Ta chỉ có công dụng trang trí, địa vị là ở trong trang trí.
Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả, nhưng chưa một nước
nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ truyền,
phiêu lưu trong nghệ thuật sơn để tìm một con đường nào tăng phẩm giá
mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó.
Song, từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài bỏ

sơn dầu để chuyển hẳn về sơn mài, Sơn Ta đã vượt được ra ngoài nơi
cầm hãm, ngang nhiên trên đường bao la của hội họa, cứ phương trời xa

lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên bức họa lồng khung quý
giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẽ đồ vật, nó trở nên một
phương tiện độc đáo diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một phương
tiện lấn át cả sơn dầu. Quên dĩ vãng Sơn Ta đổi tên nhũn nhặn là Sơn
Mài
— Tô Ngọc Vân
[3]

Năm 1946, Bác Hồ từng mượn của nhà sưu tập Đức Minh tranh Nguyễn Gia Trí
(trong đó có Dọc mùng) và các họa sĩ khác để tiếp khách quốc tế. Bác Hồ rất coi
trọng văn hóa quốc gia, cho nên Bác muốn nơi tiếp khách phải thể hiện văn hóa
quốc gia. Mỹ thuật biểu hiện điều đó nhanh nhất, rõ nét nhất.
[4]


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×