Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.75 KB, 3 trang )
Không chủ quan với bệnh huyết áp
thấp
Huyết áp được định nghĩa là áp lực của dòng máu chảy
trong lòng mạch tác động lên thành mạch máu (giống như
áp lực của nước chảy trong lòng ống tác động lên thành ống
nước). Trị số huyết áp phụ thuộc vào áp lực bơm máu của
tim, vào sức co dãn của thành mạch máu và vào lượng máu
trong cơ thể. Trị số huyết áp bình thường dao động từ 90/
50 – 139/ 89 mmHg và thay đổi thường xuyên tùy theo các
trạng thái về thời gian, hoạt động thể lực và cảm xúc.
Huyết áp thấp được định nghĩa là khi số đo huyết áp < 90/
50 mmHg, hoặc giảm nhiều hơn 20 mmHg so với trị số
huyết áp bình thường trước đó kèm theo các triệu chứng do
giảm máu đến các cơ quan như chóng mặt, mệt, tay chân tê,
lạnh, hồi hộp tim đập nhanh.
Huyết áp thấp là một trạng thái biến đổi sinh lý do hậu
quả của nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như:
- Huyết áp thấp do giảm thể tích máu: do mất máu hay mất
nước (chấn thương gây chảy máu, tiêu chảy, nôn mửa,
dùng thuốc lợi tiểu…), do cơ thể giảm tạo ra máu (suy dinh
dưỡng, bệnh của tủy xương…).
- Huyết áp thấp do giảm sức bơm của tim: các bệnh lý tim
mạch.
- Huyết áp thấp do giảm sức co của mạch máu: dùng các
loại thuốc làm dãn mạch máu, do cường thần kinh đối giao
cảm (là hệ thần kinh làm dãn mạch) hay do suy yếu thần
kinh giao cảm (là hệ thần kinh gây co mạch)…
Một số triệu chứng nổi bật:
- Mệt mỏi, lả và rất muốn được nghỉ ngơi
- Hoa mắt chóng mặt
- Khó tập trung và dễ nổi cáu