Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.32 KB, 45 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP
VỤ BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG
Đối với nền kinh tế nước ta, định hướng phát triển dịch vụ bao thanh toán
nằm trong định hướng chiến lược phát triển dịch vụ ngành ngân hàng. Với quy mô
nhỏ của luận văn, tác giả xin nêu một số định hướng phát triển dịch vụ theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu của ngành ngân hàng trong giai đoạn từ 2006 đến 2010
nằm trong chiến lược phát triển dịch vụ của ngành ngân hàng cụ thể như sau:
[3]
- Phát triển dịch vụ ngân hàng gắn liền với tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ ngân hàng trên cơ sở đổi
mới toàn diện và đồng bộ hệ thống ngân hàng (NHNN và các NHTM), đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, mở cửa thị trường tài chính trong nước và tự do hoá thương mại dịch vụ tài chính.
- Bảo đảm an toàn và hiệu quả hoạt động của từng NHTM, toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời chủ động mở rộng các dịch
vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực tài chính, quản
lý của NHTM.
- Phát triển dịch vụ ngân hàng là nội dung quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các NHTM và là mục
tiêu trong chính sách quản lý, giám sát của NHNN. Các NHTM chủ động nghiên cứu và triển khai các dịch vụ ngân
hàng theo nhu cầu thị trường, không trái với pháp luật và phù hợp với năng lực của NHTM. Liên kết và hợp tác
trong nghiên cứu và phát triển, kinh doanh dịch vụ ngân hàng, nhất là các dịch vụ ngân hàng mới là cơ sở để nâng
cao chất lượng, hiệu quả kinh tế và cải thiện năng lực cung ứng dịch vụ của hệ thống ngân hàng.
- Chính sách phát triển dịch vụ ngân hàng phải hướng tới mở rộng khả năng "cung" dịch vụ ngân hàng của hệ
thống ngân hàng, đồng thời góp phần kích "cầu" về dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế. Nâng cao năng lực cạnh
tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên cơ sở bảo đảm:
(i) Môi trường hoạt động ngân hàng thông thoáng, an toàn và hấp dẫn;
(ii) Khuôn khổ thể chế hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế;
(iii) Uy tín và thương hiệu của NHTM;
(iv) Nhân lực có trình độ cao;
(v) Công nghệ kỹ thuật hiện đại;
(vi) Quản trị ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế;
(vii) Tài chính của các NHTM lành mạnh.


Trong đó, công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thông tin là nền tảng cho phát triển dịch vụ ngân hàng
mới và khuôn khổ thể chế phải trở thành tiền đề góp phần quan trọng bảo đảm dịch vụ ngân hàng phát triển an toàn
và hiệu quả.
- Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế
trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch,
trong đó đặc biệt coi trọng dịch vụ huy động vốn, cung ứng tín dụng, dịch vụ thanh toán và kinh doanh ngoại tệ,
đồng thời tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ
cao để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hoá giá trị gia tăng cho các NHTM, khách hàng và nền
kinh tế. Đáp ứng tốt nhu cầu về dịch vụ ngân hàng cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh
tế; phát triển nông nghiệp, nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Ưu tiên cung cấp dịch
vụ ngân hàng cho các đối tượng sử dụng có hiệu quả kinh tế cao (bảo đảm cân bằng lợi nhuận và rủi ro) và có khả
năng đem lại giá trị gia tăng cao cho bản thân người sử dụng dịch vụ và cho NHTM, đồng thời góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội, tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo và thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư, sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng với trọng tâm là kiểm soát hữu hiệu chất lượng tín dụng và các rủi ro
khác trong hoạt động ngân hàng. Không hạn chế quyền tiếp cận của các tổ chức, cá nhân đến thị trường dịch vụ
ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu và đáp ứng đủ các yêu cầu về
năng lực, thủ tục, điều kiện giao dịch được tiếp cận các dịch vụ ngân hàng. Từng bước đa dạng hoá nguồn thu và cơ
cấu thu nhập của các NHTM theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng, dịch vụ tài
chính phi ngân hàng.
Tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa các NHTM, giữa các NHTM với các tổ
chức không phải là NHTM trong việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng mới, chuyển giao công nghệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo nhu
cầu thị trường. Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, gắn kết chặt chẽ với
nhau (tín dụng và phi tín dụng; giữa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính phi ngân
hàng) để khai thác có hiệu quả năng lực công nghệ, nhân lực và quản trị của các
NHTM, cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng có chất lượng theo tiêu chuẩn, thông lệ
quốc tế và với giá hợp lý, đồng thời quản lý có hiệu quả chi phí hoạt động và khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư và sử dụng có hiệu quả các tài sản. Nâng cao năng
lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng Việt Nam theo nguyên tắc thị trường, minh

bạch, hạn chế bao cấp và chống độc quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng để từng
bước phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, an
toàn hiệu quả. Từng bước tự do hoá gia nhập thị trường và khuyến khích các NHTM
cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ, uy tín, thương hiệu thay vì dựa chủ
yếu vào giá cả dịch vụ và mở rộng màng lưới.
- Từng bước nâng cao uy tín và thương hiệu của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính quốc
tế. Đến năm 2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam phấn đấu phát triển được hệ thống dịch vụ ngân hàng ngang tầm
với các nước trong khu vực ASEAN về chủng loại, chất lượng và có khả năng cạnh tranh quốc tế ở một số dịch vụ.
Bảng 3.1. Lộ trình phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010
Loại dịch vụ ...... Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
1. Nâng cao chất lượng và đa dạng
hoá dịch vụ ngân hàng truyền
thống
2. Triển khai rộng rãi các dịch vụ
ngân hàng mới/mở rộng (bao thanh
toán)
- Thẻ thanh toán, séc cá nhân và
công cụ thanh toán không dùng tiền
mặt khác
- Dịch vụ ngân hàng điện tử
- Sản phẩm phái sinh tiền tệ, lãi

suất và tỷ giá
- Quản lý tài sản, tiền mặt
- Dịch vụ bảo hiểm rủi ro hàng hoá
(kim loại, dầu lửa...)
- Dịch vụ bảo hiểm bảo hiểm
- Dịch vụ chứng khoán trong nước
- Đầu cơ chứng khoán quốc tế
- Tư vấn tài chính
- Phát hành các công cụ nợ
- Dịch vụ ngân hàng hiện đại khác
Triển khai thí điểm, thử nghiệm hoặc có chọn lọc.
Triển khai rộng rãi
(Nguồn: Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2005)
Trên cơ sở định hướng chung của toàn ngành ngân hàng, việc phát triển loại hình dịch vụ bao thanh toán phải
đảm bảo một số yếu tố sau:
 Đáp ứng những yêu cầu chuẩn mực của quốc tế, quốc gia quy định đối với phương thức bao thanh toán
 Phát triển loại hình dịch vụ này trên diện rộng: ngoài hệ thống các ngân hàng thương mại, khuyến khích các
tổ chức tín dụng khác như công ty tài chính ở Việt Nam tham gia tích cực vào loại hình dịch vụ này.
 Phát triển loại hình dịch vụ theo chiều sâu: xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm, đa
dạng hoá các loại hình bao thanh toán (bao thanh toán nội địa, bao thanh toán xuất nhập khẩu…) cho phù hợp với
từng đối tượng khách hàng
 Giảm thiểu các chi phí và rủi ro khi bao thanh toán được áp dụng.
 Khi nghiệp vụ bao thanh toán của NHTM đã đủ mạnh, có thể tiến hành thành lập công ty Factoring riêng
trực thuộc NHTM đó, việc hạch toán độc lập sẽ đem lại hiệu quả nhất định cho công ty.
 Các NHTM phấn đấu trở thành thành viên của các Hiệp hội lớn trên thế giới về bao thanh toán.
 Phương thức bao thanh toán sẽ dần thay thế phương thức tín dụng chứng từ một cách hiệu quả và tối ưu.
 Tăng trưởng doanh số bao thanh toán trong năm năm từ 2006-2010 phấn đấu đạt 8-9% GDP
Trước thềm hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, bao thanh toán đang trở thành
một phương thức đem lại hiệu quả kinh doanh lớn. Việc phát triển sản phẩm dịch vụ
này tại Việt Nam cũng được đặt ra trong mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng. Sau

đây, tác giả xin đưa ra một số kinh nghiệm phát triển bao thanh toán sau một thời gian
ngắn triển khai phương thức này tại Việt Nam.
3.2. KINH NGHIỆM
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu kinh nghiệm phát triển bao thanh toán của các nước trên thế
giới, tác giả xin quay trở lại tên tuổi một số ngân hàng đầu tiên đạt được những thành công nhất
định trong lịch sử phát triển bao thanh toán.
[23]
Sự phát triển bao thanh toán tại các ngân hàng trên thế giới bắt nguồn từ sự
hình thành và phát triển bao thanh toán của các ngân hàng Mỹ vào những năm 1930.
Ngân hàng đầu tiên tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán và đến nay vẫn duy trì
dịch vụ này đó là Ngân hàng Trust Company of Georgia (nay là Trust Company
Bank), khởi nghiệp vào năm 1939. Đặt trụ sở ở Atlanta (Mỹ), ngân hàng Trust
Company of Georgia hợp tác kinh doanh với rất nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng
dệt may ở phía Nam và ngân hàng này cũng sớm nhận thấy các doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ này chủ yếu của các đơn vị bao thanh toán, có trụ sở tại New York. Để
xây dựng ý tưởng thành lập một văn phòng hoạt động bao thanh toán và thu hút các
khách hàng, ngân hàng đã cử một nhóm chuyên gia tư vấn đến New York để tham
khảo thị trường. Ban đầu, nhóm chuyên gia tư vấn cho rằng bao thanh toán chỉ dành
cho những doanh nghiệp chuyên biệt, nó khác xa so với các hoạt động của ngân
hàng và đưa ra đề xuất rằng ngân hàng không nên cung cấp dịch vụ này.
Sau đó, với nỗ lực nghiên cứu thị trường, không chịu thua cuộc; ngân hàng
Trust Company of Georgia đã sớm trở thành đơn vị bao thanh toán thành công.
Tháng 2-1939, ngân hàng thiết lập một chi nhánh nhỏ và luôn đi cùng với các
doanh nghiệp dệt may để hỗ trợ doanh nghiệp của họ. Trong năm đầu hoạt động,
ngân hàng Trust Company of Georgia đã đạt tổng doanh số bao thanh toán là
1.830.000 đô la Mỹ và vào cuối năm đó, ngân hàng có 31 khách hàng.
Khi ngân hàng có trụ sở tại Atlanta phát triển thêm chi nhánh làm nghiệp vụ
bao thanh toán năm 1939 thì chiến tranh thế giới thứ II đang diến ra khốc liệt ở
châu Âu và các nhà máy dệt may ở Mỹ đang bị kéo vào cuộc chiến. Công việc duy
nhất mà ngân hàng phải làm đó là cung cấp tài chính cho các nhà thầu quân đội, do

đó các khoản phải thu của họ chủ yếu là thu từ chính phủ. Chức năng kiểm tra tín
dụng một trong những hoạt động trung tâm của bao thanh toán, trở nên thừa thãi do
chính quyền có hạn mức tín dụng khá cao vào thời điểm đó thâm hụt tới 200 tỉ đô.
Trong những năm ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, tốc độ tăng doanh thu
của factoring ở ngân hàng Trust Co. of Georgia chậm lại, giới hạn bởi số tiền mà
ngân hàng được cung cấp. Năm 1949, doanh thu bao thanh toán đạt một số tiền ít
ỏi là 43 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên bao thanh toán lấy lại tốc độ tăng trưởng vào
những năm sau đó. Năm 1983, doanh thu đạt 1 tỷ đô la Mỹ và vào năm 1988, ngân
hàng này đạt doanh số gần 2.5 tỷ đô la Mỹ. Tất cả những con số doanh thu trên đều
do chi nhánh đặt trụ sở tại Atlanta đạt được, tuy nhiên ngân hàng vẫn duy trì một
văn phòng nhỏ tại New York, nhưng văn phòng này chuyên thu thập các thông tin.
Ngân hàng thứ 2 tham gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán là Ngân hàng First
National Bank of Boston năm 1945. Ngân hàng có trụ sở tại Boston là một trong
những ngân hàng lâu đời nhất ở Mỹ. Ngân hàng này được thành lập năm 1784, có
tên là Ngân hàng Massachusset Bank do bang Massachusset mua lại. Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, ngân hàng này tham gia cấp vốn cho quá trình phục hồi
chiến tranh của Liên minh Anh-Pháp-Mỹ, tham gia vào hệ thống ngân hàng quốc
gia.
Năm 1945, Mỹ quy định tất cả các ngân hàng quốc gia không đuợc phép tham
gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Vì ngân hàng First Boston không hoàn toàn là
ngân hàng nhà nước nên họ vẫn được thực hiện cung cấp dịch vụ bao thanh toán.
Tuy nhiên, để tránh rủi ro luật pháp, ngân hàng làm mới các hợp đồng bao thanh
toán với khách hàng bằng cách bổ sung hạn mức được ký kết trong thoả ước tài trợ
vốn cho các khoản phải thu thay vì mua lại các khoản phải thu như các hợp đồng
bao thanh toán thông thường. Hợp đồng của ngân hàng First Boston coi các khoản
phải thu như những khoản thế chấp để cho vay. Đến 90% khoản phải thu được coi
rủi ro tín dụng đã được trả, và con số thiệt hại của ngân hàng giảm chỉ còn 1% doanh
số.
Năm 1945, Ngân hàng First Boston thành lập một văn phòng đại diện tại New
York. Văn phòng ở New York ban đầu được mở để kiểm tra khả năng tín dụng các

khách hàng bao thanh toán của ngân hàng Boston, hầu hết các khách hàng đều là
nhà sản xuất quần áo may mặc. Các nhà tư vấn đã khuyên ngân hàng Boston không
nên sử dụng từ “bao thanh toán”.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, có rất nhiều nhu cầu cấp thiết cần được đáp ứng.
Năm 1945, ngành công nghiệp dệt may thực sự khởi sắc ở New England. Trong
những năm chiến tranh, hầu hết các ngành sản xuất dệt may đều phục vụ cho chiến
tranh, do đó ngành công nghiệp này hầu như không có lãi. Ngân hàng Boston quyết
định cho các nhà bao thanh toán vay mà sau đó đến lượt họ lại cho khách hàng của
ngân hàng ở New England vay. Ở vào thời điểm đó lãi suất mà nhà bao toán áp dụng
khá cao, lãi suất cho vay cao nhất của ngân hàng là 1,5%/năm. Các nhà bao thanh
toán áp đặt mức lãi suất là 6% cho khoản tiền ứng trước. Thêm vào đó, ngân hàng
chỉ cho vay những khoản vay an toàn chứ không cho vay những khoản vay được
đánh giá là không an toàn.
Công việc kinh doanh của Boston tăng trưởng chậm nhưng vững chắc. Năm
1973, doanh số bao thanh toán của ngân hàng đạt mức cao nhất so với thời điểm
trước đó là 1 tỷ đô la Mỹ. Năm 1988 ngân hàng này đã đạt doanh số 3.7 tỷ đô la.
Cuối chiến tranh thế giới thứ hai, đến năm 1965, Trust Co. of Georgia và First
of Boston chỉ đơn thuần là những ngân hàng tham gia vào cung cấp dịch vụ bao
thanh toán. Vào năm 1963, Vụ quản lý tiền tệ đẫ thay đổi quyết định cho phép các
ngân hàng quốc doanh được phép cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Rất nhiều ngân
hàng muốn chen chân vào lĩnh vực này, nhưng rồi cuối cùng họ cũng thất bại và thị
trường dịch vụ bao thanh toán diễn ra một loạt các vụ mua lại công ty.
Tuy nhiên, có thể thấy ngay những ngân hàng đầu tiên tham gia cung cấp dịch
vụ bao thanh toán trên thế giới đã triển khai công cuộc nghiên cứu về thị trường rất
kỹ lưỡng và có những phương án linh hoạt để có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng,
đảm bảo duy trì hoạt động theo đúng quy định của chính phủ trong thời chiến, thời
bình và vẫn đạt được những thành tựu lớn lao trong lĩnh vực này.
Đối với một số khu vực và quốc gia trên thế giới, trong những năm gần đây,
hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng ở các nước châu Âu có sự cải thiện rõ rệt.
Điển hình là thị trường bao thanh toán của Ba Lan, một thị trường vốn được coi là

có xuất phát điểm rất thấp. Năm 2003, doanh số bao thanh toán của Ba Lan tăng so
với cùng kỳ năm trước tới 20% và tổng trị giá các khoản phải thu lên tới 12.2 tỷ
zloty Ba lan (xấp xỉ 3.4 tỷ đô la Mỹ). Đạt đuợc con số này một phần nhờ vào hoạt
động kinh doanh của một số công ty do các ngân hàng sở hữu, có thể kể ra đây là:
Perkao Faktoring do ngân hàng Perkao SA Bank sở hữu 100% vốn;
RaiffeisenFaktoring do ngân hàng Raifeisen Bank sở hữu 100% vốn… Hoạt động
kinh doanh bao thanh toán ở Ba Lan chủ yếu dựa trên hoạt động của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời đựa trên chính sách thoáng về luật pháp và hàng rào
về thuế và kế toán. Ba Lan có tới 3.4 triệu doanh nghiệp đăng ký kinh doanh -
chiếm con số doanh nghiệp lớn nhất khu vực Trung và Đông Âu. Tuy nhiên, 90%
trong số đó là doanh nghiệp vừa và nhỏ, và hầu hết các doanh nghiệp này đều khó
khăn về khả năng thanh khoản. Ba Lan vẫn coi là thị trường rất tiềm năng và lớn
đối với bao thanh toán.
Ở châu Á, một trong nhưng quốc gia được coi là thị trường bao thanh toán
kém nhất khu vực đó là Trung Quốc. Trong điều kiện hiện nay, sự hạn chế về luật
định và thờ ơ của nhiều ngân hàng Trung Quốc trong việc áp dụng bao thanh toán
trở thành cản trở lớn cho hoạt động này. Tuy nhiên, Hồng Kông lại giữ một vai trò
quan trọng, các doanh nghiệp ở Hồng Kông thường bán chứng thư phải thu của họ
cho các ngân hàng ở Hồng Kông. Các giấy báo thu này sau đó có thể được chuyển
nhượng sang các ngân hàng tại các tỉnh ở Trung Quốc nên Trung Quốc cũng được
lợi từ dịch vụ này.
Bảng 3.2: Doanh số bao thanh toán của các quốc gia châu Á trong FCI
(Đơn vị: triệu euro)
Các nước Châu Á 2000 2001 2002 2003 2004 2005
China 212 1.234 2.077 2.640 4.315 5.693
Hong Kong 2.400 2.690 3.029 3.250 4.800 5.920
Indonesia 3 0 1 1 0 0
India 470 690 1.290 1.615 1.625 1.857
Israel 460 429 354 190 155 132
Japan 58.473 61.566 50.380 60.550 72.535 81.347

Lebanon 0 10 22 35 41 53
Malaysia 585 842 610 718 730 805
Oman 30 36 29 10 8 9
Philippines 0 0 0 0 0 0
Saudi Arabia 0 150 100 50 0 0
Singapore 2.100 2.480 2.600 2.435 2.600 2.970
South Korea 115 85 55 38 32 20
Sri Lanka 99 115 110 102 128 162
Taiwan 3.650 4.511 7.919 16.000 23.000 26.090
Thailand 1.268 1.240 1.274 1.425 1.500 1.910
United Arab Emirates 0 0 0 37 145 0
Total Asia 69.865 76.078 69.850 89.096 111.614 126.968
(Nguồn: Factor Chain International, 2006)
Bảng thống kê doanh số hoạt động bao thanh toán ở các quốc gia châu Á là
thành viên của FCI cũng đã tham gia tích cực vào thị trường bao thanh toán toàn
thế giới trong đó phải kể đến Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore và
Đài Loan với doanh số bao thanh toán chiếm đến hơn 80% doanh số bao thanh
toán trong khu vực…Yếu tố đáng mừng này cũng là những con số đáng suy nghĩ,
trong khi Việt Nam đã đi sau rất nhiều so với các nước láng giềng.
Sau một thời gian đi vào triển khai sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới này, có
thể thấy bên cạnh những lợi thế các ngân hàng thương mại Việt Nam có được khi
bắt đầu cung cấp loại hình dịch vụ mới này, đó là một loạt những khó khăn mà các
NHTM phải đối mặt. Đây là những khó khăn chung đối với ngành ngân hàng khi
tung một sản phẩm dịch vụ mới ra thị trường. Bao thanh toán đến với Việt Nam
khá muộn, do đó quãng thời gian ngắn áp dụng loại hình dịch vụ này cũng chưa đủ
để có thể đưa ra nhiều bài học rút ra từ thực tế hoạt động. Tuy nhiên, kinh nghiệm
của các quốc gia trên thế giới cho thấy việc phát triển thành công loại hình dịch vụ
mới phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố luôn được nhắc tới đó là: con người,
công nghệ và vốn….; đó chính là những yếu tố cơ bản để các NHTM Việt Nam
học hỏi và nghiên cứu:

- Thứ nhất, xây dựng một chương trình triển khai dịch vụ bao thanh toán; quản
lý và theo dõi đánh giá chặt chẽ ngay trong giai đoạn bắt đầu, ví dụ như việc
nghiên cứu thị trường, bao gồm các vấn đề về nhu cầu khách hàng, đối tượng
khách hàng (thông thường đối với các nước châu Âu, họ tập trung vào đối tượng
khách hàng tiềm năng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Hiện nay, trên thế giới,
một số nước cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này như một phần của dịch
vụ ngân hàng thương mại, một số nước khác cho phép thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán, thông qua các công ty bao thanh toán độc lập hoặc công ty tài chính.
Về vấn đề cho phép hoạt động bao thanh toán, trên thế giới có hai phương thức:
thứ nhất, cho phép hoạt động trên cơ sở giấy phép, thứ hai, đối với các nước có
ngành tài chính, ngân hàng phát triển không yêu cầu các NHTM xin phép hoạt
động bao thanh toán mà chỉ yêu cầu đăng ký. Tại Việt Nam, nghiệp vụ này lần đầu
tiên được triển khai nên trước mắt cần quản lý hoạt động nghiệp vụ này thông qua
việc cấp phép với các điều kiện cụ thể cho các tổ chức tín dụng hoạt động lành
mạnh. Các NHTM có đủ điều kiện sẽ được NHNN cho phép thực hiện bao thanh
toán dưới hình thức văn bản là Quyết định của Thống đốc NHNN cho phép thực
hiện bao thanh toán.
- Thứ hai, khả năng đáp ứng về công nghệ trong việc kiểm soát và quản lý các
khoản phải thu; đối với các ngân hàng nước ngoài, với phần mềm công nghệ hiện
đại, họ thường xuyên kiểm soát được các khoản nợ bao thanh toán một cách hiệu
quả an toàn nhất, giảm thiểu những rủi ro tiềm tàng mà bất cứ ngân hàng nào cũng
có thể gặp phải. Đối với Việt Nam, với một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp,
việc bắt kịp về công nghệ thế giới là vô cùng khó khăn, do đó giải pháp trước mắt
để có thể đáp ứng hệ thống đối với nghiệp vụ mới này đó là tham gia các hiệp hội
bao thanh toán lớn trên; thứ nhất, học hỏi được từ các thành viên trong hiệp hội về
kinh nghiệm triển khai; thứ hai, có thể rút ngắn được quá trình tiếp cận công nghệ
hiện đại khi đã chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội đó. Hiện nay, ở Việt
Nam, ngân hàng ACB đã gia nhập FCI, đây chính là một cơ hội hợp tác lớn trong
giai đoạn ban đầu khi mới tiếp cận; hoặc trường hợp ngân hàng OCB ký thoả thuận
hợp tác với FENB trong việc áp dụng bao thanh toán cũng là một trong những

trường hợp điển hình để các NHTM Việt Nam học hỏi kinh nghiệm.
- Thứ ba, đó là vấn đề về nguồn vốn huy động để triển khai loại hình dịch vụ
mới này; huy động tối đa các nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đáp ứng nhu
cầu tín dụng của nền kinh tế, đồng thời khuyến khích các tổ chức và cá nhân tích
luỹ tài sản, đầu tư và gửi tiền vào ngân hàng bằng VND trên cơ sở bảo đảm lợi ích
kinh tế của người gửi tiền và nâng cao chất lượng của dịch vụ huy động vốn. Đa
dạng hoá các phương thức và hình thức huy động vốn bằng VND và ngoại tệ hấp
dẫn với các thủ tục và điều kiện giao dịch thuận tiện. Đẩy mạnh huy động các
nguồn tiền nhàn rỗi và các khoản tiết kiệm của công chúng hiện đang tồn tại dưới
dạng vàng và ngoại tệ thông qua các hình thức huy động hấp dẫn và các biện pháp
bảo đảm hợp lý giá trị tiền gửi của khách hàng. Trong đó, chú trọng các nguồn tiền
gửi và tiết kiệm của khách hàng; tiền gửi, tiền vay trên thị trường liên ngân hàng,
đồng thời đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá; dịch vụ tài khoản; tiếp nhận vốn uỷ
thác (trong và ngoài nước); quản lý tài sản. Đây cũng là bài học kinh nghiệm ở
Singapore, một trong những quốc gia có bao thanh toán phát triển nhất trong khu
vực Đông Nam Á.
Trên đây là một số kinh nghiệm và định hướng cho phát triển dịch vụ bao
thanh toán trong thời điểm hiện tại và cho thời gian tới. Để phấn đấu với mục tiêu
mà Nhà nước ta đề ra trong chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng trong đó bao
thanh toán chỉ là một trong số rất nhiều loại hình dịch vụ mà hệ thống ngân hàng
Việt Nam đang hướng tới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả xin đưa
ra một số giải pháp phát triển chung về dịch vụ ngân hàng và một số giải pháp để
phát triển loại hình dịch vụ bao thanh toán.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH
TOÁN TẠI VIỆT NAM
Để có thể hoàn thiện và phát triển một nghiệp vụ ngân hàng mới như bao thanh toán, cần phải có tổng hợp
một số giải pháp tổng thể: giải pháp vĩ mô và vi mô; trên cơ sở đó đánh giá những giải pháp cụ thể để phát triển
nghiệp vụ đó dưới nhiều khía cạnh
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách đối với hoạt động bao thanh toán
- Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế, chính sách và các văn bản đối với hoạt động bao thanh toán

cho phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, trước hết là thực hiện Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ; Hiệp định tự do thương mại ASEAN (AFTA), Hiệp định khung thương mại dịch vụ
ASEAN (AFAS), theo yêu cầu cải cách để gia nhập WTO và Điều lệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
o Tiến hành sửa đổi căn bản Luật NHNN và Luật Các NHTM, đồng thời hoàn thiện các
văn bản hướng dẫn, trong đó chú trọng đến một số vấn đề sau:
 Nâng cao vị trí, tính độc lập và tự chủ của NHNN trong xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ; quản lý, thanh tra và
giám sát hoạt động bao thanh toán của hệ thống ngân hàng;
 Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và đối xử bình đẳng hơn giữa các loại hình NHTM trong cung cấp loại hình
dịch vụ bao thanh toán
 Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và ứng dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong cung cấp loại hình dịch vụ bao
thanh toán
 Phạm vi hoạt động và phương thức bao thanh toán mà các loại hình tổ chức NHTM được phép tiến hành và cung
ứng cho nền kinh tế
 Nâng cao vai trò và quyền hạn của các NHTM với tư cách là các chủ nợ trong quan hệ tài chính - tiền tệ để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM.
o Hoàn thiện các qui định về quản lý ngoại hối; xây dựng Pháp lệnh ngoại hối và các văn bản hướng dẫn về vấn
đề thanh toán trong bao thanh toán xuất nhập khẩu
o Hoàn thiện các qui định về tiếp cận thị trường cung cấp dịch vụ bao thanh toán trong nước theo lộ trình tự do
hoá thương mại dịch vụ tài chính và mở cửa thị trường tài chính của các cam kết song phương và đa phương, đặc
biệt là cam kết trong WTO/GATS. Xoá bỏ các hạn chế bất hợp lý về quyền tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng
của các NHTM. Từng bước xoá bỏ các qui định phân biệt đối xử giữa NHTM trong nước và NHTM nước ngoài;
giữa các NHTM thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; giữa NHTMCP nông thôn và NHTMCP đô thị về phạm vi
hoạt động và loại hình bao thanh toán được phép cung ứng cho nền kinh tế. Sửa đổi, bổ sung các qui định về cấp
phép thành lập và hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, đặc biệt chú trọng các
tiêu chuẩn về năng lực quản trị ngân hàng, công nghệ, tài chính và an toàn hoạt động để tiến tới quản lý theo hình
thức hiện diện và phương thức cung ứng dịch vụ bao thanh toán của NHTM, tiến tới giảm bớt các loại giấy phép
"con" đối với một số nghiệp vụ bao thanh toán của ngân hàng.
o Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy chế về nghiệp vụ bao thanh toán. Hiện nay, NHNN đã quyết định bổ sung
công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 về vấn đề cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với
hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng. Theo thông lệ quốc tế về hoạt động bao thanh toán, khái niệm

hàng bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ, ngoại trừ các dịch vụ về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Quy chế đưa ra khái niệm
“hợp đồng bán hàng” chỉ đơn thuần là các hợp đồng cung cấp hàng hoá, tức là trước mắt chỉ cho phép thực hiện bao
thanh toán đối với các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá. Trong tương lai, khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của WTO, quy định này sẽ trở nên không thể bao quát hết vì cùng với quá trình hội
nhập và phát triển nhanh của ngành tài chính ngân hàng, các dịch vụ tài chính, ngân hàng tại Việt Nam sẽ đa dạng
hoá rất nhanh và kết hợp linh hoạt, khó lường.
o Cải cách hệ thống kế toán ngân hàng trong hạch toán các nghiệp vụ bâothnh toán phù hợp chuẩn mực kế toán
quốc tế. Hoàn thiện các chính sách, văn bản qui phạm pháp luật, các chuẩn mực về công nghệ ngân hàng để tạo điều
kiện cho các NHTM lựa chọn được công nghệ phù hợp và đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng.
o Rà soát hệ thống phí bao thanh toán để có sự điều chỉnh phù hợp, bảo đảm minh bạch, cạnh tranh lành mạnh,
tránh các khoản thu phí bất hợp lý của NHTM đối với khách hàng và hạn chế hiện tượng tiêu cực trong hoạt động
ngân hàng.
3.3.2. Tăng cường năng lực hoạt động và tài chính làm cơ sở để phát triển bao thanh toán của các NHTM
o Tích cực triển khai thực hiện đồng bộ định hướng và các giải pháp chiến lược phát triển các NHTM đến năm 2010,
trước hết tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP và Đề án cơ cấu lại các
NHTMNN.
o Phát triển các kênh phân phối nước ngoài qua các hình thức hiện diện thương mại (chi nhánh, pháp nhân, đơn vị trực
thuộc) của NHTM Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt ở các quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ đầu tư, thương mại lớn
và có tiềm năng phát triển với Việt Nam (Mỹ, EU và Châu Á) để từng bước thâm nhập và cạnh tranh cung cấp dịch
vụ bao thanh toán trên thị trường quốc tế. Mở rộng quan hệ đại lý quốc tế để cung cấp các dịch vụ bao thanh toán
qua biên giới.
o Tăng cường năng lực tài chính:
Xây dựng đề án tăng cường năng lực tài chính (tăng vốn tự có, xử lý các tồn đọng tài chính, chủ yếu là nợ
xấu) của các NHTMNN theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế và lộ trình cổ phần hoá các NHTMNN.
+ Tăng vốn tự có qua nhiều hình thức khác nhau (huy động từ thị trường qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu,
Nhà nước bổ sung và lợi nhuận để lại) và qui mô tài sản có trên nguyên tắc bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo
chuẩn mực quốc tế (8%); nâng cao chất lượng tài sản có (giảm, tỷ trọng tài sản có rủi ro, tăng tỷ trọng tài sản có sinh
lời trong tổng tài sản có);
+ Đẩy mạnh xử lý nợ xấu theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; Giảm nợ xấu đi đôi với xây dựng cơ chế kiểm
soát, giám sát hữu hiệu chất lượng tín dụng. Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc

tế và lập báo cáo tài chính theo tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Xây dựng và triển khai phương án xử lý
nợ xấu của các NHTM trên cơ sở chuẩn mực và thông lệ quốc tế về kế toán, phân loại tín dụng và trích lập dự phòng
rủi ro.
+ Đẩy mạnh cổ phần hoá các NHTMNN gắn liền với tăng vốn tự có, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn
mực quốc tế. Triển khai đúng tiến độ cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại Thương và Ngân hàng Nhà Đồng bằng sông
Cửu Long, tạo tiền đề triển khai cổ phần hoá đối với các NHTMNN khác vào những năm tiếp theo; xem xét, lựa
chọn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt các NHTM có tiềm lực tài chính, công nghệ và quản lý mua cổ
phần và tham gia quản trị, điều hành các NHTMNN sau cổ phần hoá. Hoàn thành cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại
thương và Ngân hàng Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (trước năm 2008). Xây dựng lộ trình cổ phần hoá các
NHTMNN.
o Nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
+ Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
+ Thành lập và đưa vào vận hành có hiệu quả các cấu phần quản trị rủi ro.
+ Bảo đảm duy trì danh mục tín dụng và tài sản có mức độ sinh lời tương xứng với mức độ rủi ro, có thể
kiểm soát được của các NHTM. Chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế; mở rộng cho vay đồng tài
trợ và cho vay thông qua bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các đối tượng vay vốn là hợp tác xã, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, chủ trang trại,... Thực hiện nguyên tắc hạn chế tập trung rủi ro tín dụng và đa dạng hoá ngành
hàng, lĩnh vực và khách hàng, đồng thời thiết lập hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hữu hiệu, hệ thống chấm điểm tín
dụng nội bộ, công cụ hạn mức tín dụng, hệ thống thông tin tín dụng đầy đủ, nhất là thông tin về khách hàng và môi
trường kinh doanh.
+ Nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định và quản lý tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế; chuẩn hoá qui
trình nghiệp vụ tín dụng và đơn giản hoá các thủ tục cấp tín dụng nhưng vẫn phải bảo đảm thực hiện đúng các qui
định của pháp luật và an toàn hoạt động;
+ Xây dựng và triển khai sổ tay vay tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế, nguyên tắc và thực hành tốt về tín
dụng ngân hàng.
- Đẩy nhanh quá trình tích tụ vốn và tài sản để hình thành được ít nhất một số tập
đoàn tài chính - ngân hàng có qui mô hoạt động lớn, trình độ công nghệ hiện đại, quản
trị, điều hành tiên tiến và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích một số
NHTM lớn có đủ điều kiện và năng lực trở thành thành viên chủ đạo, có vai trò kiến
tạo trên các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường phái sinh tiền tệ để tăng tính thanh

khoản của thị trường tiền tệ nói chung.
- Đẩy mạnh triển khai các hoạt động tín dụng trong khuôn khổ các dự án quốc tế, đồng thời tiếp tục thu hút
các nguồn vốn ODA, vay song phương, hỗ trợ tài chính của Chính phủ và các tổ chức nước ngoài để tạo nguồn tài
trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án phát triển quốc gia, phát triển nông nghiệp, nông thôn và các đối
tượng chính sách xã hội qua hệ thống ngân hàng.
- Phát triển nguồn nhân lực: Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển
nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có trình độ
giỏi thông qua xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý lao động phù hợp.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực hoạt động về baot hanh toán của ngân
hàng. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ ngân
hàng, đồng thời nâng cao năng lực quản trị chiến lược, điều hành kinh doanh của các
cấp lãnh đạo NHTM. Các NHTM xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực đến năm 2010.
- Các NHTM chủ động xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh. Xây dựng và phát triển thương hiệu,
xây dựng văn hoá kinh doanh ngân hàng văn minh - hiện đại. Đẩy mạnh các hoạt động marketing, tuyên truyền,
quảng bá dịch vụ ngân hàng một cách văn minh nhằm định vị hợp lý dịch vụ ngân hàng trên thị trường.
3.3.3. Hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng; xây dựng phần mềm
quản lý bao thanh toán
Vấn đề hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để hệ thống có thể
đáp ứng cho quá trình áp dụng và triển khai bao thanh toán không phải là công việc
đơn giản có thể thành công trong một sớm một chiều, mà nó đòi hỏi phải có một sự
đầu tư thích đáng trong cả quá trình liên tục và lâu dài. Tuy nhiên, trước hết hệ
thống các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt 5 giải pháp sau đây:
Thứ nhất, đẩy mạnh liên doanh, liên kết và hợp tác với các tổ chức trong nước
và nước ngoài về kinh doanh, nghiên cứu và phát triển công nghệ kỹ thuật ngân
hàng, sản phẩm bao thanh toán để nhanh chóng tiếp cận với các công nghệ, quản
trị và dịch vụ ngân hàng mới phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Tranh thủ
sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng và xây dựng phần mềm hay nhập khẩu công nghệ phát triển và quản lý
dịch vụ bao thanh toán

Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện công nghệ thanh toán và thông tin
ngân hàng, kiểm soát hiệu quả các khoản phải thu. Xây dựng và hoàn thiện công
nghệ thanh toán ngân hàng phát triển và hoàn thiện hệ thống thông tin ngân hàng,
tăng cường hoạt động trao đổi thông tin với khách hàng qua mạng kết nối, qua các
trang web… Hệ thống thông tin của mỗi ngân hàng phải là thông tin đa năng như:
Thông tin về nghiệp vụ ngân hàng, thông tin về khách hàng, thông tin về quản lý
ngân hàng…. Ngoài ra, củng cố và phát triển hệ thống thông tin tín dụng (CIC)
góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt
động bao thanh toán nói riêng.
Thứ ba, tích luỹ và tập trung vốn cho đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng
hiện đại.
Vốn là điều kiện tiên quyết giúp các ngân hàng đổi mới và hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng. Tuy nhiên, việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
đồng thời phải bảo đảm cho các ngân hàng mở rộng quy mô, nâng cao vị thế, tăng
khả năng cạnh tranh, tăng mức độ chịu đựng và chống đỡ rủi ro. Vì vậy, nâng cao
vốn tự có của các NHTM Việt Nam là giải pháp có tính cấp bách.
Thứ tư, tăng cường đào tạo cán bộ ngân hàng trong quản lý sử dụng hệ thống
đáp ứng cho dịch vụ bao thanh toán.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện và hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng khi tiến hành triển khai dịch vụ mới như bao thanh toán. Trong các giải
pháp nêu trên, hai giải pháp đầu có liên quan trực tiếp đến quá trình đổi mới và
hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, ba giải pháp tiếp theo là những giải pháp điều
kiện góp phần thực hiện và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ ngân hàng hiện
đại nói riêng, hiệu quả hoạt động ngân hàng nói chung.
3.3.4. Nâng cao năng lực quản trị và điều hành triển khai nghiệp vụ bao thanh
toán của các NHTM
Hệ thống các NHTM Việt Nam hoạt động với mạng lưới rộng khắp, ở nhiều
cấp bậc và mức độ khác nhau nên quản lý rất phức tạp. Các NHTM phải quản lý
sao cho vừa phát huy tính chủ động, tự chủ, sáng tạo của từng người, vừa thực hiện
chế độ tự chịu trách nhiệm theo mức độ cao, thấp, rộng, hẹp khác nhau tuỳ vào tầm

quan trọng của từng cấp quản lý. Các NHTM cần phải xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kinh doanh mới để nâng cao năng lực quản trị điều hành. Cơ chế kinh doanh
phải được hoàn thiện một cách đồng bộ, có nghĩa là các cơ chế quyết sách kinh
doanh, cơ chế kích thích, cơ chế ràng buộc bên trong ngân hàng, cơ chế cân bằng
lợi ích phải được hoàn thiện. Các cơ chế này phải được hình thành và thống nhất
quản lý trong các ngân hàng từ trung ương đến địa phương, từ các chi nhánh cấp1
đến các chi nhánh cấp 4 của các ngân hàng và trong nội bộ từng chi nhánh. Cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế quyết sách kinh doanh: trong nội bộ từng NHTM có các chi
nhánh ở các cấp khác nhau, thực hiện hạch toán độc lập một cách tương đối nên
chừng mực nào đó được độc lập trong quyết định kinh doanh để phát huy quyền tự
chủ của mình. Các NHTM vừa hoạt động trong cơ chế thị trường, vừa phải thể
hiện vai trò to lớn của mình đối với nền kinh tế. Do đó, các quyết sách kinh doanh
vừa phải thể hiện ý chí chủ đạo kinh doanh tập trung cao độ, vừa phát huy được
quyền chủ động sáng tạo và tính tự chịu trách nhiệm trong quyết sách kinh doanh
của từng cấp, đồng thời định hướng kinh doanh cho thời gian dài kết hợp với cụ
thể hóa từng thời kỳ ngắn. Các chính sách này phải được thống nhất từ trên xuống
dưới để biến thành hiện thực, chứ không phải hình thức. Quyết sách đúng đắn và
phát huy hiệu quả cao phải thể hiện sự kết hợp trí tuệ của tập thể với tính quyết
đoán của người giám đốc điều hành để thống nhất thực hiện.
Thứ hai, cơ chế kích thích: thực hiện ý chí kinh doanh và mục tiêu lợi ích
ngày càng cao, các NHTM phải xây dựng được cơ chế kích thích như: quy chế thi
đua, khen thưởng, phát huy sáng kiến, trên cơ sở hiệu quả kinh tế và mục đích kinh
doanh của từng chi nhánh để làm động lực thúc đẩy cán bộ nhân viên thực hiện tốt
định hướng kinh doanh của mình. Quy chế thi đua vừa phải khêu gợi được tính tích
cực, vừa phải thể hiện tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân, từng tập thể để đảm
bảo lợi ích chung của NHTM. Trên cơ sở quy chế, thực hiện phát động phong trào
thi đua trong từng thời kỳ. Ví dụ: theo mục tiêu kinh doanh hay chiến lược kinh
doanh, các NHTM xây dựng các quy chế kích thích cán bộ công nhân viên thực
hiện nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ cho vay, các loại dịch vụ ngân hàng trên
cơ sở lấy mục tiêu và hiệu quả làm thước đo để thực hiện việcthi đua, khen thưởng

theo từng thời kỳ và mục đích của NHTM cần đạt tới. Nếu thời kỳ cần huy động
vốn lớn thì tỉ lệ thưởng cao trên hiệu quả huy động vốn đem lại, nếu thời kỳ khác
cần cho vay nhiều thì tỉ lệ thưởng trên hiệu quả cho vay cao… Như thế cơ chế này
sẽ làm động lực cho từng cá nhân, tập thể trong chi nhánh chủ động thúc đẩy công
việc của mình trong thời gian dài, đồng thời đẩy mạnh trọng tâm trong thời gian
ngắn sẽ đưa các NHTM thực hiện được phương hướng và mục tiêu lợi nhuận ngày
càng cao.
Thứ ba, cơ chế ràng buộc: nếu kích thích là sự khởi động, tăng cường truyền
dẫn xuôi chiều thì ràng buộc là sự kìm hãm hạn chế ngược chiều. Cốt lõi của cơ
chế ràng buộc là phân định rõ ranh giới trách nhiệm đối với rủi ro, trực tiếp gắn

×