MỤC LỤC
Câu 1: Các quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học Mác - Lênin; nội dung và ý
nghĩa định nghĩa vật chất của Lê nin. Tính thống nhất vật chất của thế giới.
(trang 2)
Câu 2: Quan điểm Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của ý thức. Vai trò của ý
thức đối với vật chất (trang 6)
Câu 3: Việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sự khác biệt căn bản
giữa quan điểm trên với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong việc giải
quyết mối quan hệ trên. (trang 11)
Câu 4: Nội dung và ý nghĩa của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện
chứng duy vật (trang 13)
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa của nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy
vật (trang 16)
Câu 6: Nội dung và ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(quy luật mâu thuẫn) (trang 18)
Câu 7: Nội dung và ý nghĩa của quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại (trang 22)
Câu 8: Việc vận dụng quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam (trang 25)
Câu 9: Nội dung và ý nghĩa của cặp phạm trù: cái chung và cái riêng (trang 26)
Câu 10: Bản chất của nhận thức (trang 29)
Câu 11: Quan điểm Mác - Lênin về thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức.
Ý nghĩa phương pháp luận (trang 30)
Câu 12: Quá trình phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận dụng quan điểm trên của Đảng ta (trang 33)
Câu 13: Quy luật sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Sự vận
dụng của Đảng ta (trang 37)
Câu 14: Quan điểm triết học Mác –Lênin về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta (trang 43)
Câu 15: Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng của Nhà nước (trang 46)
Câu 16: Bản chất, chức năng và đặc điểm của Nhà nước vô sản (trang 49)
Câu 17: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH. Tính độc lập tương
đối của YTXH với TTXH (trang 50)
CÂU HỎI THI HỌC PHẦN NGÀY 18/6/2011
Câu 1: Anh (chị) hãy nêu hoàn cảnh ra đời, phân tích nội dung và ý nghĩa định nghĩa
vật chất của Lê nin?
Câu 2: Hãy trình bày quan điểm của triết học Mác - Lê nin về tính độc lập tương đối
của YTXH đối với TTXH. Ý nghĩa phương pháp luận
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày các quan niệm về vật chất trong lịch sử
triết học Mác - Lênin; nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin?
Tính thống nhất vật chất của thế giới?
1-Các quan niệm về VC trong lịch sử triết học Mác - Lênin:
a) Những quan điểm về VC trong triết học trước Mác:
*Chủ nghĩa duy tâm: là trường phái đề cao và tuyệt đối hóa ý thức, ít chú ý
VC nên ít bàn đến vật chất.
*Chủ nghĩa duy vật:
-Thời kỳ cổ đại: cả ở phương Đông và phương Tây cũng đã đề cập đến quan
niệm về VC.
+Ấn Độ: có trường phái cho rằng có VC tiềm ẩn, tinh tế gọi là “Praahti” gồm
3 yếu tố (trong sáng, đen tối và tính hoạt động, năng động), nếu như có 1 tác động
nào đó làm cho 3 yếu tố trên không cân bằng sẽ tạo ra những sự vật có hình hài mà
chúng ta có thể cảm nhận được. Hoặc có trường phái cho rằng bản thể của vũ trụ là
địa - thủy - hỏa - không - phong.
+Trung Quốc: cho rằng bản thể cuả vũ trụ là “thái cực” - là sự hỗn độn, chứa
đựng 2 mặt âm, dương; trong quá trình tác động lẫn nhau đã tách thành 2 mặt đối lập,
riêng nhau là Âm - Dương. Ngoài ra, họ còn cho rằng bản thể của mọi sự vật, hiện
tượng là “ngũ hành”.
+Hy Lạp: có rất nhiều quan niệm về VC như Talet (VC là nước), Aximen (VC
là không khí), Araximan (VC là apârôn - chất không định hình), Hêraclit (VC là lửa),
Đêmôcrit, Lơxip…(VC là nguyên tử)
=> Nhận xét:
Hợp lý: những quan niệm thời kỳ cổ đại đã đồng nhất VC với dạng cụ thể
cuả VC, hay nói cách khác là đồng nhất VC với bản thể cụ thể của vũ trụ (bản chất
của tự nhiên)
Hạn chế: quan niệm còn mang tính trực quan (đi tìm bản thể của vũ trụ
nhưng lại gán vào những sự vật mà con người có thể quan sát trực tiếp được như:
nước, lửa, không khí…)
-Thời kỳ trung đại: triết học, khoa học không phát triển nên phạm trù VC
không được đề cập đến.
-Thời kỳ cận đại: với sự phát triển của cơ học Niutơn, 1 mặt đã tiếp tục đồng
nhất VC với nguyên tử, 1 mặt đã vận dụng cơ học Niutơn vào phạm trù VC vì khối
lượng vật không đổi (định luật bảo toàn khối lượng) mà khối lượng là lượng VC
trong vật, đã đồng nhất VC với khối lượng vì cho rằng VC là thực thể bất biến, tồn
tại không bao giờ mất, xuất hiện đầu tiên.
=> Nhận xét:
2
Hợp lý: quan niệm trên đã đồng nhất VC với tư cách là bản thể của giới tự
nhiên với thuộc tính vật lý cụ thể của sự vật trong tự nhiên (khắc phục được tính trực
quan)
Hạn chế: quan niệm rơi vào siêu hình vì đã gán những thuộc tính vật lý của
sự vật vào phạm trù triết học, áp dụng 1 cách máy móc.
b) Quan điểm của C.Mác, Ăngghen:
-C.Mác, Ăngghen chưa có định nghĩa cụ thể, giáo khoa về phạm trù VC nhưng
mỗi người đều có những nhận định, quan niệm rõ ràng về VC.
-C.Mác cho rằng: “VC với tính cách là VC, là sản phẩm thuần túy của tư duy
và không có tính chất cảm tính”, VC là phạm trù triết học.
-Ăngghen gợi ý: “chúng ta có thể ăn được quả lê, quả mận, quả anh đào
nhưng không thể ăn quả. Định nghĩa VC phải khái quát những thuộc tính chung nhất
của lê, mận, anh đào thành 1 định nghĩa về quả” (có những đặc trưng, thuộc tính
chung nhất)
2-Nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin:
a) Hoàn cảnh để nêu ra định nghĩa:
-Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên nói chung và vật lý học nói
riêng với những thành tựu mới nhất vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Điển hình
như vật lý học đã bắt đầu nghiên cứu vào thế giới vi mô (từ phân tử đến nguyên tử)
Ví dụ:+Rơnghen: phát hiện tia Rơnghen (tia X)
+Beccơren: phát hiện ra hiện tượng phóng xạ
+Thompson: phát hiện điện tử electron (e-) trong nguyên tử. Với phát
minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được
chứng minh
+Kaufman: đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là
khối lượng tĩnh mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Theo V.I.Lênin, việc phát hiện ra trường hợp điện từ và các điện tử, những
thành tựu mới của vật lý học đã bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, chủ
nghĩa duy vật siêu hình về cấu tạo của thế giới, buộc phải đi đến kết luận biện chứng
là: “điện tử cũng vô cùng vô tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận”.
-Do sự lợi dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên: các nhà tư tưởng tư
sản đã có mưu đồ tấn công vào chủ nghĩa Mác bằng cách bác bỏ phạm trù vật chất
hay chủ nghĩa duy vật nói chung, tức là bác bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng của
Mác, bác bỏ cơ sở lý luận của triết học Mác và đã rêu rao, bịa đặt rằng chủ nghĩa
Mác không có sơ sở lý luận chính xác. Chính vì thế, muốn bảo vệ chủ nghĩa Mác,
các nhà triết học buộc phải định nghĩa được VC là gì và V.I.Lênin trên cơ sở phân
tích 1 cách sâu sắc cuộc khủng hoảng vật lý học và phê phán những quan niệm duy
tâm, siêu hình về VC để đưa ra 1 định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù VC, 1 định
nghĩa mà đến nay các nhà khoa học hiện đại vẫn thừa nhận.
b) Định nghĩa:
-Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăngghen, phân tích và khái
quát 1 cách sâu sắc những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX
3
- đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm; năm
1908 trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
V.I.Lênin đã nêu ra định nghĩa kinh điển về VC:
“Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ,
Mátxcơva, 1980)
c) Phân tích nội dung định nghĩa: ở định nghĩa này, Lênin đã phân biệt 2 vấn
đề quan trọng:
-Trước hết, là phân biệt VC với tư cách là phạm trù triết học với các quan
niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng,
các dạng VC khác nhau. VC với tư cách là phạm trù triết học dùng để chỉ VC nói
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng VC
khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành
cái khác.
Vì vậy, không thể quy VC nói chung về vật thể, không thể đồng nhất VC nói
chung với những dạng cụ thể của VC như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận
đại đã làm. Vì VC là phạm trù khái quát nhất, rộng lớn nên chỉ có 1 phương pháp
định nghĩa duy nhất đúng là đặt nó trong mối quan hệ và phải thông qua phạm trù đối
lập với nó là ý thức.
-Thứ hai, là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết VC
chính là “thuộc tính khách quan”. Theo V.I.Lênin, khách quan là “cái tồn tại độc
lập với loài người và với cảm giác của con người”; trong đời sống xã hội, VC “theo
ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”; về mặt
nhận thức luận thì khái niệm VC là “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức
con người và được ý thức con người phản ánh”.
Cho nên nói đến VC là nói đến tất cả những gì đã, đang và sẽ tồn tại thực, bên
ngoài ý thức con người. VC là hiện thực chứ không phải là hư vô và hiện thực này là
khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan. VC luôn biểu hiện đặc tính thực tại
khách quan của mình thông qua sự tồn tại phong phú, sinh động của các sự vật, hiện
tượng, quá trình cụ thể. Tất cả các sự vật, hiện tượng, quá trình đó khi tác động vào
các giác quan thì cho ta cảm giác.
Như vậy, định nghĩa đã phân biệt cụ thể 2 loại hiện tượng: những loại sự vật,
hiện tượng tồn tại khách quan là thuộc thế giới VC, còn các sự vật, hiện tượng là sản
phẩm ý thức của con người, không tồn tại khách quan thì thuộc thế giới tinh thần.
Đồng thời, định nghĩa chỉ rõ những hiện tượng của thế giới ý thức là sự phản ảnh thế
giới VC và có nguồn gốc từ thế giới VC. Vì thế, Lênin đã khẳng định chỉ có 1 thế
giới là thế giới VC và VC là cái có trước, tính thứ nhất, cảm giác và ý thức con người
là cái có sau, tính thứ hai và VC quyết định ý thức
-Ngoài ra, định nghĩa trên cũng đã khẳng định rằng con người có thể nhận thức
được thế giới. Vì VC có thể đem lại cho con người trong cảm giác, ý thức của con
người có thể phản ảnh được thế giới VC, “được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh”. Sự nhận thức, phản ảnh của con người là 1 quá trình đi từ chưa
4
biết đến biết, ít đến nhiều, chưa chính xác đến chính xác, chưa đầy đủ đến đầy đủ và
ngày càng phản ảnh đầy đủ, chính xác hơn về thế giới khách quan.
=>Nói tóm lại, định nghĩa VC của V.I.Lênin đã bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
-VC là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
-VC là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động
lên giác quan của con người.
-Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của VC.
d) Ý nghĩa:
-Bằng định nghĩa này, V.I.Lênin đã giải quyết triệt để cả 2 mặt của vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Qua đó vừa bác bỏ những quan
điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm (khách quan, chủ quan), của thuyết nhị nguyên
luận, bất khả tri và hoài nghi luận; vừa khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa
duy vật trước Mác về phạm trù VC.
-Định nghĩa VC của Lênin đã khắc phục được tính chất chủ quan, siêu hình,
máy móc trong quan niệm về VC của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa và phát
huy được những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về VC.
-Định nghĩa VC của V.I.Lênin đã góp phần đưa chủ nghĩa duy vật lên 1 tầm
cao mới, làm cơ sở khoa học xây dựng quan niệm duy vật biện chứng trong lĩnh vực
xã hội; đồng thời góp phần khắc phục sự khủng hoảng về mặt thế giới quan trong đội
ngũ các nhà triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Qua đó thúc đẩy họ tiếp tục đi
sâu nghiên cứu, tìm hiểu thế giới VC, củng cố thêm mối liên minh chặt chẽ giữa
khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật triết học.
3-Tính thống nhất VC của thế giới:
-Qua quan sát, chúng ta có thể nhận thấy các sự vật, hiện tượng trong thế giới
rất đa dạng, phong phú và chúng rất gắn bó mật thiết, phụ thuộc vào nhau và hoàn
toàn thống nhất với nhau.
Các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở “ý niệm tuyệt
đối” hoặc ở ý thức của con người. Các nhà duy vật trước Mác lại có khuynh hướng
chung là tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ngay trong bản thân nó. Nhưng do ảnh
hưởng của quan điểm siêu hình, máy móc nên họ cho rằng mọi hiện tượng của thế
giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với nhau,
cùng bị chi phối bởi 1 số quy luật nhất định. Quan điểm ấy không phản ánh được tính
nhiều vẻ, tính vô tận của thế giới hiện thực.
-Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: bản chất của thế giới là VC, thế
giới thống nhất ở tính VC. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
+Một là, chỉ có 1 thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới VC. Thế giới VC
tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
+Hai là, mọi bộ phận của thế giới VC đều có mối liên hệ thống nhất với nhau
(đều là những dạng cụ thể của VC, là những kết cấu VC hoặc có nguồn gốc VC, do
VC sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan)
5
+Ba là, thế giới VC tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và
không bị mất đi. Trong thế giới là những quá trình VC đang biến đổi và chuyển hóa
lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
-Tính VC của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của
con người và nó đã trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Với
những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có
cơ sở để khẳng định rõ ràng rằng: các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và thông qua tính vật chất.
-Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo VC, là cấp độ đặc biệt của tổ
chức VC. XH là 1 bộ phận của thế giới VC, có nền tảng tự nhiên, có kết cầu và quy
luật vận động khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. VC dưới dạng XH
là kết quả hoạt động của con người.
*Nói tóm lại, chúng ta thấy rằng bản chất của thê giới này là VC, hay nói cách
khác thế giới này thống nhất ở tính VC. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn,
vô tận cả bề rộng lẫn bề sâu; nó có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số
những biểu hiện muôn hình muôn vẻ.
Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày quan điểm của triết học Mác - Lênin về
nguồn gốc, bản chất của ý thức và vai trò của ý thức đối với vật chất?
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò của YT
là 1 vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật
biện, của khoa học và thực tiễn của xã hội, triết học Mác - Lênin đã góp phần làm
sáng tỏ vấn đề trên.
1-Nguồn gốc của YT:
a) Quan điểm trước Mác:
*Chủ nghĩa duy tâm khách quan: với các triết gia tiêu biểu như Platôn,
Hêghen…cho rằng nguồn gốc YT thuộc về 1 lực lượng tinh thần nào đó như là thế
giới ý niệm, ý niệm tuyệt đối, thượng đế…không những tồn tại trước, tồn tại ở bên
ngoài, độc lập với con người, với thế giới VC mà còn sản sinh ra, quyết định tất cả
các quá trình của thế giới VC.
*Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: với các triết gia tiêu biểu như Béccli, Hium,
Phíchtơ, Cantơ…lại cho rằng nguồn gốc YT mang tính chủ quan, cảm giác, YT là cái
có trước và tồn tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức, còn các sự vật bên
ngoài chỉ là phức hợp của các cảm giác ấy mà thôi.
*Chủ nghĩa duy vật siêu hình: đã phát hiện ra nguồn gốc nhận thức của YT,
chỉ ra được mối liên hệ khăng khít giữa VC và YT, thừa nhận VC có trước, YT phụ
thuộc vào VC. Họ cho rằng YT là sản phẩm của nhận thức con người, phản ánh các
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Nhìn chung, CNDV siêu hình đã nói được nguồn
gốc tự nhiên của YT nhưng do khoa học chưa phát triển và ảnh hưởng của quan điểm
siêu hình, máy móc nên họ không giải thích đúng, đầy đủ nguồn gốc và bản chất của
YT.
b) Quan điểm triết học Mác - Lênin: triết học Mác - Lênin đã khái quát YT có
2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc XH.
6
*Nguồn gốc tự nhiên:
-Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là về sinh lý học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xác định nguồn gốc tự nhiên của YT là
bộ óc người và sự tác động của hiện thực khách quan vào bộ óc con người. YT
không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải YT sản sinh ra VC mà YT là 1
thuộc tính của VC, nhưng không phải là của mọi dạng VC mà chỉ là thuộc tính của 1
dạng VC có tổ chức cao là bộ óc con người.
+Bộ óc con người: là 1 yếu tố tạo nên YT, là cơ quan VC của YT. YT là chức
năng của bộ óc con người, nó phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người nên khi bộ
óc người bị tổn thương thì hoạt động của YT sẽ không bình thường. Vì thế không thể
tách rời YT ra khỏi hoạt động của bộ óc, YT không thể diễn ra, tách rời hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Các sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính phản ánh - đó là sự tái tạo những
đặc điểm của 1 hệ thống VC này ở hệ thống VC khác trong quá trình tác động qua lại
của chúng. Trong quá trình tiến hóa của thế giới VC, các vật thể càng ở bậc thang
cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu, trình độ phản
ánh khác nhau (phản ánh vật lý, hóa học, sinh học, tính kích thích, tính cảm ứng, các
phản xạ, tâm lý). YT là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, nó chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới VC cùng với sự xuất hiện của con
người. YT là YT con người, nó nằm trong con người và không thể tách rời.
+Hiện thực khách quan: là môi trường bên ngoài, thế giới bên ngoài con người
tác động đến bộ óc con người làm nảy sinh YT. YT là sự phản ánh thế giới bên ngoài
vào đầu óc con người, nếu không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác
quan và qua đó đến bộ óc con người thì hoạt động YT không thể xảy ra.
=> Như vậy, nguồn gốc tự nhiên của YT chính là bộ óc người (là cơ quan phản
ánh về thế giới VC xung quanh) cùng với thế giới bên ngoài (hiện thực khách quan)
tác động với nhau lên bộ óc người thì mới làm nảy sinh ra YT.
-Vì thế để YT của con người ngày càng phát triển, nâng cao hơn thì đòi hỏi
chúng ta phải có 1 môi trường (hiện thực khách quan) phong phú, đa dạng như môi
trường giáo dục, môi trường công việc, môi trường sống…và mỗi con người phải
thường xuyên, tích cực hoạt động trong những môi trường ấy thì YT sẽ phát triển
hơn.
*Nguồn gốc xã hội:
-Để cho YT ra đời thì những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu nhưng vẫn chưa đầy đủ; điều kiện mang tính quyết định cho sự ra
đời của YT là những tiền đề, nguồn gốc XH. Với 3 yếu tố chính: lao động, ngôn ngữ
và những quan hệ XH.
-Lao động: là yếu tố quan trọng nhất, trực tiếp làm nảy sinh YT con người. Chỉ
có qua lao động, con người sử dụng các công cụ lao động để tác động vào giới tự
nhiên nhằm cải biến tự nhiện để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của
mình.
+Lao động là 1 quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới,
điều tiết và giám sát trong sự trao đổi VC giữa người và tự nhiên; là điều kiện đầu
tiên và chủ yếu để con người tồn tại.
7
+Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, sáng
tạo ra cả bản thân con người và nhờ có lao động mà con người tách ra khỏi động vật.
Nói cách khác, chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có YT về thế giới đó.
+Sự hình thành YT không phải là quá trình thụ nhận thụ động mà là kết quả
hoạt động chủ động của con người. Qua lao động, con người tác động vào thế giới
khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận
động của mình thành những hiện tượng nhất định và nó tác động vào bộ óc người,
hình thành những tri thức về tự nhiên và XH, làm tri thức của con người ngày càng
nhiều, phong phú hơn. Vì vậy, YT được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế
giới khách quan của con người và làm biến đổi thế giới đó.
Tóm lại, lao động tạo ra YT tư tưởng hay nói cách khác nguồn gốc cơ bản của
YT tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan và đầu óc con người trong quá trình
lao động của con người.
-Ngôn ngữ:
+Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất mà ngay từ đầu nó đã mang
tính tập thể XH của 1 cộng đồng người, 1 tập đoàn người. Vì thế, trong quá trình lao
động với những nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và trao đổi tư tưởng cho nhau đã làm
nảy sinh giao tiếp, đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
+Ngôn ngữ là do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là
hệ thống tín hiệu VC mang nội dung YT, không có ngôn ngữ thì YT không thể tồn
tại và thể hiện được.
+Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong XH, vừa là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể
tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ
khác. YT không chỉ thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là hiện tượng XH nên không
có phương tiện trao đổi XH về mặt ngôn ngữ thì YT không thể hình thành, phát triển
được.
-Ngoài ra, con người không chỉ tồn tại trong tự nhiên mà còn trong XH, tồn tại
trong các mối quan hệ với nhau trên các phương diện như chính trị, kinh tế, văn hóa,
đạo đức, tôn giáo, thẩm mỹ…
=> Như vậy, nguồn gốc trực tiếp, quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của YT là lao động, là thực tiễn XH. YT phản ánh hiện thực khách quan vào bộ
óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ XH. YT là sản phẩm XH,
là 1 hiện tượng XH. XH ngày càng phát triển bao nhiêu thì những yếu tố về lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ XH cũng phát triển theo và góp phần làm YT con người
phát triển bấy nhiêu.
2-Bản chất của YT:
a) Quan điểm trước Mác:
*Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cho rằng bản chất của YT là 1 thực thể
độc lập, là thực tại duy nhất và từ đó cường điệu tính năng động của YT đến mức coi
YT sinh ra VC chứ không phải là sự phản ảnh của VC như Platôn xem YT là sự hồi
tưởng lại của thế giới ý niệm, Hêghen cho là sự tự YT của ý niệm tuyệt đối…
8
*Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: quan niệm rằng bản chất của YT là sự quan
sát những quá trình diễn ra trong những cơ quan nhận thức của con người.
*Chủ nghĩa duy vật siêu hình: thừa nhận VC tồn tại khách quan và YT là sự
phản ánh các sự vật, hiện tượng tự nhiên đó vào bộ óc con người nhưng với quan
niệm siêu hình, máy móc nên họ chỉ coi YT là sự phản ánh sự vật 1 cách nguyên xi,
thụ động, giản đơn, máy móc mà không thấy tính năng động, sáng tạo của YT, tính
biện chứng của quá trình phản ánh.
b) Quan điểm triết học Mác - Lênin:
-Triết học Mác - Lênin đã kế thừa những quan điểm duy vật trước đó nhưng là
sự kế thừa có chọn lọc, phân tích, cải tạo và phát triển thêm để hoàn thiện quan niệm
duy vật biện chứng về bản chất của YT.
“Về bản chất YT được coi là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người 1 cách năng động, sáng tạo; YT là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”
-Thế giới khách quan là nguồn gốc của YT. Nội dung của YT do thế giới
khách quan quy định, thế giới khách quan giống như “bản chính”, còn YT giống như
“bản sao”. YT không phải là thế giới khách quan mà chỉ là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan được thể hiện trong bộ não con người. Giữa VC và YT có sự khác
nhau mang tính đối lập, YT là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn VC là cái được phản
ánh. Cái được phản ánh (tức VC) tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản
ánh (tức YT). Còn YT là hiện thực chủ quan, lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái
khách quan quy định. Vì vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời VC và YT.
-Phản ánh của YT là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì không phải
là hình ảnh vật lý, hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. YT là của con người mà con
người là 1 thực thể XH năng động, sáng tạo và YT ra đời trong quá trình con người
hoạt động cải tạo thế giới nên YT con người cũng mang tính năng động, sáng tạo lại
hiện thực theo nhu cầu thực tiễn XH.
Nghĩa là con người dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chủ động tác động vào
sự vật, hiện tượng làm cho chúng bộc lộ các thuộc tính, tính chất của mình và qua đó
con người có thêm hiểu biết về sự vật, hiện tượng hơn. Vì trong hiện thực khách
quan các sự vật, hiện tượng là muôn hình muôn vẻ và bộ óc con người chỉ phản ánh
những cái cần, những gì thực tiễn yêu cầu phải nhận thức được; vì thế đòi hỏi con
người phải luôn năng động để chọn lọc, tìm kiếm, xác định những nội dung để có thể
phản ánh, cải biến tự nhiên nhằm phát triển nhận thức. Đồng thời, sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc con người phải cần có sự sáng tạo, vì không chỉ phản ánh
hiện thực ở hiện tại mà còn ở quá khứ và tương lai, xây dựng được 1 mô hình trong
tư duy và tạo nên 1 hệ thống lý luận thể hiện hiện thực khách quan thì YT con người
mới phát triển được.
-Theo Mác, “YT chẳng qua chỉ là VC được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”, cho nên sự phản ánh của YT mang dấu ấn sâu
sắc của chủ thể phản ánh.
+Sự phản ánh của YT phụ thuộc vào trình độ, năng lực của chủ thể. Đó là tri
thức, sự hiểu biết của chủ thể về tự nhiên và XH. Trình độ của chủ thể càng cao thì
9
khả năng xác định mục đích, phương tiện và phương pháp phản ánh càng chính xác
và ngược lại.
+Sự phản ánh của YT phụ thuộc vào kinh nghiệm của chủ thể.
+Sự phản ánh của YT phụ thuộc vào lợi ích của chủ thể. Lợi ích, nhất là lợi ích
giai cấp và lợi ích cá nhân chi phối trực tiếp tình cảm, ý chí và bản lĩnh của chủ thể
phản ánh. Lợi ích có thể bị xuyên tạc, bóp méo nội dung phản ánh.
-Xem xét, đánh giá nội dung của YT cần đặt trong mối quan hệ với tình cảm, ý
chí, năng lực và lợi ích của chủ thể. Để YT ngày càng phản ánh chính xác, cụ thể hơn
hiện thực khách quan cần phải không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, kinh
nghiệm và bản lĩnh của chủ thể; luôn phải chủ động, phát huy tính năng động, sáng
tạo trong tư duy, nhận thức và trong cả hoạt động thực tiễn, biết vận dụng linh hoạt
các phương pháp của nhận thức. Tránh tách rời nội dung của YT với chủ thể phản
ánh.
*Nói tóm lại, YT là 1 hiện tượng XH. Sự ra đời, tồn tại của YT gắn liền với
hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là
của quy luật XH do nhu cầu giao tiếp XH và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của
con người quy định. YT mang bản chất XH.
3-Vai trò của YT đối với VC:
-Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định trong mối quan hệ giữa VC và
YT thì “VC có trước, YT có sau, VC là nguồn gốc của YT, quyết định YT; song YT có
thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người”. Vì vậy con
người phải luôn tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo
chủ quan của mình.
-YT có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn thì con người
phải phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan.
+Do có tính năng động, sáng tạo và độc lập tương đối so với VC nên YT có
vai trò, định hướng và chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua
những hoạt động thực tiễn đó, YT có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận
động, biến đổi và phát triển các điều kiện VC, góp phần cải biến thế giới khách quan.
Nếu YT phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan thì sẽ giúp con người
hoạt động đúng và thành công trong việc cải tạo có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển
của hiện thực khách quan.
Ngược lại, YT phản ánh không đúng sẽ làm cho hoạt động của con người kém
hiệu quả, thậm chí phản tác dụng, gây kìm hãm, nguy hại cho chính bản thân con
người và hiện thực khách quan.
+Khả năng của YT tác động trở lại VC không chỉ phụ thuộc vào năng lực phản
ánh của YT, tình cảm, ý chí, bản lĩnh, kinh nghiệm…của chủ thể mà còn phụ thuộc
rất lớn vào điều kiện khách quan.
=> Tóm lại, để hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, con
người phải xuất phát từ thực tế khách quan, biết tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan; đồng thời phát huy cao nhất vai trò của nhân tố chủ quan. Bên cạnh đó,
phải phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động của YT và đề cao sự vận dụng
những học thuyết về khoa học, XH; phát huy vai trò nhân tố con người; phát huy
10
những yếu tố tinh thần, truyền thống, coi trọng ý chí, niềm tin của con người trong
việc vận dụng, áp dụng trong hoạt động thực tiễn để để tác động và cải tạo hiện thực
khách quan nhằm phục vụ những nhu cầu cuộc sống của con người. Ngoài ra, cũng
cần phải chống chủ nghĩa khách quan, định mệnh, khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ,
thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, trông chờ điều kiện khách quan và chống thái độ chủ
quan, duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của YT, tinh thần.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ những kinh nghiệm thực tiễn có
cả thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm có ý nghĩa và quan trọng là “mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Vì
thế trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH nước ta hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI đã khẳng định: “toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, triệu người như một,
năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội”
Câu 3: Anh (chị) hãy trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Điểm
khác biệt căn bản giữa quan điểm trên với quan điểm của chủ nghĩa duy
vật trước Mác (chủ nghĩa duy vật siêu hình) trong việc giải quyết mối quan
hệ đó?
1-Mối quan hệ giữa VC và YT:
a) Định nghĩa phạm trù VC:
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăngghen, phân tích và khái
quát 1 cách sâu sắc những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm; năm
1908 trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
V.I.Lênin đã nêu ra định nghĩa kinh điển về VC như sau:
“Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ,
Mátxcơva, 1980)
b) Định nghĩa phạm trù YT:
-Triết học Mác - Lênin đã kế thừa những quan điểm duy vật trước đó nhưng là
sự kế thừa có chọn lọc, phân tích, cải tạo và phát triển thêm để hoàn thiện quan niệm
duy vật biện chứng về bản chất của YT.
“Về bản chất YT được coi là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người 1 cách năng động, sáng tạo; YT là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”
-Hay theo Mác “YT chẳng qua chỉ là VC được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó”.
c) Mối quan hệ giữa VC và YT:
11
-Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định trong mối quan hệ giữa VC và
YT thì “VC có trước, YT có sau, VC là nguồn gốc của YT, quyết định YT; song YT có
thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người”. Vì vậy con
người phải luôn tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo
chủ quan của mình.
*VC quyết định YT:
-VC quyết định YT về nguồn gốc, nội dung, bản chất và sự vận động, phát
triển. VC tồn tại khách quan, độc lập với YT, VC có trước YT và là nguồn gốc sinh
ra YT.
-Thế giới khách quan là nguồn gốc của YT, quyết định nội dung và sự vận
động, phát triển của YT. Tính chất năng động, sáng tạo, có mục đích của YT bắt
nguồn trực tiếp từ hoạt động VC - hoạt động thực tiễn của con người, nhưng suy cho
cùng cũng là do thế giới khách quan quy định
*YT có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn thì con
người phải phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan.
-Do có tính năng động, sáng tạo và độc lập tương đối so với VC nên YT có vai
trò, định hướng và chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua những
hoạt động thực tiễn đó, YT có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động, biến
đổi và phát triển các điều kiện VC, góp phần cải biến thế giới khách quan.
+Nếu YT phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan thì sẽ giúp con
người hoạt động đúng và thành công trong việc cải tạo có hiệu quả, thúc đẩy sự phát
triển của hiện thực khách quan.
+Ngược lại, YT phản ánh không đúng sẽ làm cho hoạt động của con người
kém hiệu quả, thậm chí phản tác dụng, gây kìm hãm, nguy hại cho chính bản thân
con người và hiện thực khách quan.
-Khả năng của YT tác động trở lại VC không chỉ phụ thuộc vào năng lực phản
ánh của YT, tình cảm, ý chí, bản lĩnh, kinh nghiệm…của chủ thể mà còn phụ thuộc
rất lớn vào điều kiện khách quan.
=> C.Mác đã khẳng định rằng: “Vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê
phán bằng vũ khí, 1 lực lượng VC chỉ có thể bị đánh đổ bởi 1 lực lượng VC nhưng lý
luận 1 khi đã xâm nhập vào quần chúng cũng trở thành VC”.
d) Ý nghĩa phương pháp luận:
-Để hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, con người phải
xuất phát từ thực tế khách quan, biết tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan; đồng thời phát huy cao nhất vai trò của nhân tố chủ quan. Bên cạnh đó, phải
phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động của YT và đề cao sự vận dụng những
học thuyết về khoa học, XH; phát huy vai trò nhân tố con người; phát huy những yếu
tố tinh thần, truyền thống, coi trọng ý chí, niềm tin của con người trong việc vận
dụng, áp dụng trong hoạt động thực tiễn để để tác động và cải tạo hiện thực khách
quan nhằm phục vụ những nhu cầu cuộc sống của con người. Ngoài ra, cũng cần phải
chống chủ nghĩa khách quan, định mệnh, khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu
cực, thụ động, ỷ lại, trông chờ điều kiện khách quan và chống thái độ chủ quan, duy
ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của YT, tinh thần.
12
-Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ những kinh nghiệm thực tiễn có
cả thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm có ý nghĩa và quan trọng là “mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Vì
thế trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH nước ta hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI đã khẳng định: “toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, triệu người như một,
năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
2-Sự khác biệt căn bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật trước Mác trong giải quyết mối quan hệ của VC và YT:
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định trong mối
quan hệ giữa VC và YT thì “VC có trước, YT có sau, VC là nguồn gốc của YT, quyết
định YT; song YT có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con
người”.
Tuy nhiên, đối với chủ nghĩa duy vật trước Mác trong giải quyết mối quan hệ
của VC và YT thì họ chỉ nhận thấy VC có trước, YT có sau và VC là nguồn gốc của
YT, quyết định YT mà không nhận thấy sự tác động trở lại của YT đối với VC thông
qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ngoài ra, theo C.Mác và Ăngghen nhận
định đối với những quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình trước Mác thì: “chỉ
nhìn thấy những vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những
vật ấy, chỉ nhìn thất sự tồn tại của những vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của phép biện chứng duy vật?
Phép biện chứng duy vật được xây dựng dựa trên cơ sở 1 hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó thì nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là 2 nguyên lý khái quát, cơ bản nhất. Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép
biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của XH loài người và của tư duy”.
1-Nội dung của nguyên lý:
a) Quan điểm trước Mác:
*Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận có những mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng nhưng khi giải thích về nguồn gốc của mối liên hệ lại mắc sai lầm vì
cho rằng nguồn gốc mối liên hệ thuộc về 1 lực lượng tinh thần nào đó tồn tại khách
quan ở bên ngoài, bên trên thế giới các sự vật, hiện tượng. (Ví dụ: Platôn cho rằng
mối liên hệ các sự vật, hiện tượng có tồn tại nhưng có nguồn gốc từ thế giới ý niệm,
thế giới các sự vật, hiện tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được chỉ là hình bóng
phản ánh của thế giới ý niệm)
13
*Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận các sự vật, hiện tượng có mối liên
hệ nhưng cho rằng mối liên hệ đó không phải do các sự vật, hiện tượng tạo ra mà mối
liên hệ đó là do thói quen của con người khi nhìn nhận các sự vật, hiện tượng; khi
xem xét các sự vật, hiện tượng con người có thói quen sắp xếp các sự vật với nhau để
xem xét, so sánh và đối chiếu sự vật này với sự vật khác.
*Chủ nghĩa duy vật siêu hình: nhìn chung là không thừa nhận mối liên hệ vì
theo quan điểm siêu hình, máy móc chỉ nhìn nhận sự vật, hiện tượng tồn tại 1 cách cô
lập, riêng lẻ, chết cứng, tách rời nhau, không có mối liên hệ và cái này tồn tại bên
cạnh cái kia. Tuy nhiên cũng có 1 số nhà suy vật siêu hình thừa nhận rằng các sự vật,
hiện tượng có mối liên hệ và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú nhưng mối liên hệ
đó chỉ là bề ngoài, là sự ngẫu nhiên, không có vai trò gì đối với sự tồn tại, phát triển
của sự vật, hiện tượng và các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển
hóa lẫn nhau nói chung là sự thừa nhận này cũng không có giá trị gì hết.
b) Quan điểm triết học Mác - Lênin:
*Định nghĩa mối liên hệ:
-Các nhà duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất VC của thế giới là cơ
sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế
giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu nhưng chúng đều chỉ là
những dạng khách nhau của 1 thế giới duy nhất là thế giới VC. Nhờ có tính thống
nhất đó mà các sự vật, hiện tượng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại
trong sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
-Quan điểm duy vật biện chứng đã khẳng định:“Mối liên hệ là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự quy định lẫn nhau, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của 1 sự vật, của 1 hiện tượng trong
thế giới”.
*Tính chất của mối liên hệ:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có 3 tính chất cơ bản sau: tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
-Tính khách quan: các mối liên hệ là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó
có chung 1 nguồn gốc VC chứ không phụ thuộc vào ý thức của con người, không
phải do 1 lực lượng nào đó tác động như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan,
chủ nghĩa duy tâm khách quan.
-Tính phổ biến : bất kỳ ở 1 sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và
ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay
trong cùng 1 sự vật, hiện tượng thì bất kỳ 1 thành phần nào, 1 yếu tố nào cũng có mối
liên hệ với những thành phần, yếu tố khác.
-Tính đa dạng, phong phú: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện cũng khác nhau. Có
thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: MLH bên trong, MLH bên ngoài, MLH
trực tiếp, MLH gián tiếp, MLH chủ yếu, MLH thứ yếu…Các MLH này có vị trí, vai
trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng. (Ví dụ: MLH cơ
bản, bên trong, trực tiếp, bản chất, chủ yếu và tất nhiên có vai trò, ý nghĩa quan trọng
và mang tính quyết định đối với sự vật, hiện tượng; còn MLH không cơ bản, bên
14
ngoài, gián tiếp, không bản chất, thứ yếu, ngẫu nhiên thì cũng có vai trò, ý nghĩa đối
với sự vật, hiện tượng nhưng không mang tính quyết định)
2-Ý nghĩa phương pháp luận:
-Vì các MLH là sự tác động qua lại, chuyển hóa và quy định lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng và các MLH mang tính khách quan, tính phổ biến nên trong hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, chúng ta phải luôn tôn trọng quan
điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
+Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải nhận thức về sự vật trong MLH
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự vật đó và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác (cả trong MLH trực tiếp và gián tiếp), qua
những cơ sở đó thì mới có thể nhận thức đúng đắn, chính xác về sự vật.
+Đồng thời, đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng MLH, biết chú ý đến
MLH bên trong, bản chất, chủ yếu, tất nhiên và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
MLH để hiểu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng và có những phương pháp tác động
thích hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của cá nhân.
+Ngoài ra, trong hoạt động thực tiễn khi tác động vào sự vật không chỉ chú ý
đến những MLH nội tại của nó mà còn chú ý đến những MLH của sự vật đó với sự
vật khác; biết sử dụng đồng bộ, sáng tạo và linh hoạt những biện pháp, phương tiện
khác nhau để tác động vào sự vật đem lại hiệu quả cao nhất.
Ví dụ: đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã xác định muốn “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” thì
Việt Nam phải biết vừa phát huy nội lực của đất nước, vừa biết tranh thủ thời cơ,
vượt qua thách thức do xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực đời
sống kinh tế - xã hội đem lại với phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế…”
-Vì các MLH có tính đa dang, phong phú với các sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau thì các MLH biểu hiện cũng khác nhau nên trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người phải biết tôn trọng quan điểm lịch sử
- cụ thể.
+Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật, hiện
tượng và tác động vào các sự vật thì phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể, môi trường cụ thể sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
+Đồng thời, chúng ta phải chống thái độ chiết trung, ngụy biện…làm nhận
thức sai lệch về các sự vật, hiện tượng và gây nên những tác động nguy hiểm, sai lầm
vào sự vật
Ví dụ: đối với Việt Nam để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai
đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng, Nhà nước ta
luôn phân tích cụ thể tình hình của đất nước ta, bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong
từng giai đoạn, từng thời kỳ đó và trong quá trình thực hiện, quán triệt, vận dụng
15
đường lối, chủ trương vào hoạt động thực tiễn, Đảng ta cũng thường xuyên bổ sung,
điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
Câu 5: Anh (chị) hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật?
Phép biện chứng duy vật được xây dựng dựa trên cơ sở 1 hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó thì nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là 2 nguyên lý khái quát, cơ bản nhất. Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép
biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của XH loài người và của tư duy”.
1-Nội dung của nguyên lý:
a) Quan điểm trước Mác:
*Chủ nghĩa duy tâm khách quan: nhìn chung họ thừa nhận có sự phát triển
nhưng khi xác định, giải thích về nguồn gốc của sự phát triển thì họ lại mắc sai lầm.
Vì các nhà duy tâm khách quan cho rằng nguồn gốc sự phát triển của sự vật thuộc về
1 lực lượng tinh thần siêu nhiên nào đó, tồn tại khách quan bên ngoài các sự vật, hiện
tượng tạo nên sự phát triển. Như Platôn cho rằng thế giới ý niệm có chứa đựng sự
phát triển nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng là hình bóng của thế giới ý niệm;
Hêghen lại khẳng định có sự phát triển nhưng nó có nguồn gốc từ ý niệm tuyệt đối.
*Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: quan niệm rằng các sự vật, hiện tượng có sự
phát triển nhưng sự phát triển đó đều do thói quen, những quan niệm của con người
tạo nên; khi con người quan niệm có sự phát triển thì các sự vật, hiện tượng mới có
phát triển.
*Chủ nghĩa duy vật siêu hình: có rất nhiều quan điểm khác nhau
-Quan niệm cực đoan: không thừa nhận có sự phát triển; các sự vật, hiện tượng
sinh ra như thế nào thì mãi mãi là như thế ấy, không thay đổi.
-Một số khác lại cho rằng: thừa nhận có sự phát triển nhưng đó chỉ là sự tăng
lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, chứ không có sự thay đổi gì về chất, không
có sự phát triển từ sự vật này sang sự vật khác ở 1 trình độ cao hơn.
-Các nhà duy vật siêu hình khác lại xác định có sự phát triển, đó là sự tăng lên
hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng và có sự thay đổi nhất định về mặt chất nhưng
sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo 1 vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra
cái mới với những chất mới hay cho rằng sự vật mới ra đời không có liên quan gì đến
sự vật cũ, không kế thừa sự vật cũ. Vì vậy, những người theo quan điểm siêu hình,
máy móc xem sự phát triển như là 1 quá trình tiến lên liên tục, là sự đơn giản, phát
triển theo đường thẳng chứ không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp,
cho rằng ngày hôm nay hơn ngày hôm qua và ngày hôm sau hơn ngày hôm nay mới
gọi là phát triển.
b) Quan điểm triết học Mác - Lênin:
*Định nghĩa sự phát triển:
-Các nhà chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định sự phát triển là 1 quá
trình tiến lên từ thấp đến cao; nó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát
16
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp,
thậm chí có thể có những bước thụt lùi tạm thời.
-Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất; là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp
lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở 1 cấp độ cao hơn.
-Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là
do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định nên; quá trình giải quyết liên tục những
mâu thuẫn trong bản thân sự vật cũng chính là quá trình tự thân phát triển của mọi sự
vật.
-Quan điểm duy vật biện chứng đã khẳng định: “Phát triển là 1 phạm trù triết
học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng”. Sự phát triển là 1
hình thức vận động đặc thù.
-Muốn xác định sự vật, hiện tượng phát triển như thế nào thì phải xét trên cả 2
phương diện:
+Cấu trúc: sự vật ngày càng được hoàn thiện, phát triển thì cấu trúc ngày càng
đầy đủ, phức tạp, có tất cả các bộ phận và nó liên quan chặt chẽ với nhau hơn; vai
trò, chức năng vủa từng bộ phận được xác định, quy định rõ ràng, cụ thể, chính xác
hơn.
+Chức năng: là phương diện quan trọng nhất; nếu chức năng ngày càng đầy đủ
thì sự vật ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn, thể hiện được trình độ cao của sự
vật mới.
*Tính chất của sự phát triển:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự phát triển có 3 tính chất
cơ bản như sau: tính tất yếu khách quan, tính phổ biến và tính biện chứng, đa dạng,
phong phú.
-Tính tất yếu khách quan: sự vật phát triển là 1 quy trình tất yếu của sự vận
động vũ trụ và nó bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì nguồn gốc của sự phát
triển nằm trong chính bản thân sự vật; phát triển là cái vốn có của sự vật, hiện tượng
và nó thuộc về các sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó mà sự vật phát triển.
Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con
người.
-Tính phổ biến: sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, XH, tư duy; ở
bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Kể cả các khai niệm, các
phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ
trên cơ sở phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm, các phạm trù
mới có thể phản ánh đúng đắn, chính xác hiện thực luôn vận động, phát triển.
-Tính biện chứng, đa dạng, phong phú:
+Sự phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng; song mỗi
sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Lĩnh vực khác nhau
thì sự phát triển khác nhau; sự phát triển của sự vật này không bao giờ hoàn toàn
17
giống với sự phát triển của sự vật khác; sự phát triển của sự vật tồn tại trong không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì sự phát triển cũng khác nhau.
+Tính biện chứng của sự phát triển: phát triển là quá trình biện chứng, thể hiện
ở chỗ quá trình phát triển luôn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, chính nhờ có những mâu
thuẫn đó làm cơ sở, động lực cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự phát triển là
quá trình thống nhất giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất; quá trình phát
triển là quá trình diễn ra sự phủ định biện chứng, trong đó sự phát triển bao giờ cũng
chứa đựng sự kế thừa những yếu tố, những mặt tích cực ở sự vật cũ nhưng vẫn còn
tác dụng ở sự vật mới, giai đoạn mới và sự kế thừa đó là kế thừa có chọn lọc, cải tạo.
+Ngoài ra, sự phát triển còn là 1 quá trình phức tạp, quanh co. Trong quá trình
phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của
rất nhiều các yếu tố và điều kiện khác nhau. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của
sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi
Ví dụ: trẻ em ngày nay phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ
em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện
thuận lợi mà xã hội mang lại như môi trường giáo dục, thức ăn dinh dưỡng, sữa, điều
kiện y tế…
2-Ý nghĩa phương pháp luận:
-Qua nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho
chúng ta thấy được trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn thì con người phải
biết tôn trọng quan điểm phát triển. Phải thiết lập cách nhìn sự vật, hiện tượng bằng
con mắt phát triển (tìm hiểu, nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong thời gian, không
gian cụ thể, rõ ràng, không được tách rời riêng lẻ); khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ
và định kiến.
-Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhận thức, khi giải quyết 1 vấn đề
nào đó phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát
triển. Đồng thời, đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật mà
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, thấy được những
biến đổi đi lên và những biến đổi có tính chất thụt lùi. Nói chung là phải biết khái
quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
-Ngoài ra khi xem xét sự vật còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự
vật ấy thành những giai đoạn để có thể tìm ra phương pháp nhận thức, cách tác động
phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của
nó (tùy theo sự phát triển đó có lợi hay hại đối với đời sống con người).
-Trong quá trình nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết sử sụng
những tài liệu mới nhất, những phương tiện, phương pháp hiện đại để nghiên cứu sự
phát triển của sự vật đạt hiệu quả cao hơn. Quá trình đánh giá sự phát triển của sự vật
phải quán triệt nguyên tắc biện chứng trong sự phát triển và kết hợp hài hòa, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo 2 nguyên lý của phép duy vật biện chứng (nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển) trong lịch sử cụ thể để việc đánh giá,
nhận xét được chính xác hơn.
Câu 6: Anh (chị) hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)?
18
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là 1
trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của các
sự vật, hiện tượng.
V.I.Lênin đã viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về
sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và 1 sự phát triển thêm”.
1-Định nghĩa:
*Mặt đối lập: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Ví dụ: trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có quá trình đồng
hóa và dị hóa, trong thị trường có cung và cầu…
*Mâu thuẫn biện chứng: các mặt đối lập nằm trong sự liện hệ và tác động
qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Nó tồn tại khách quan và phổ biến
trong tự nhiên, XH và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu
thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
*Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa vào nhau, không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
*Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau.
2-Nội dung của quy luật:
a) Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển:
-Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Vì vậy, mâu thuẫn biện chứng bao
hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập.
-Sự thống nhất của các mặt đối lập:
+Là tính không thể tách rời, ràng buộc, quy định lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại
cho nhau, đòi hỏi có nhau, không có mặt này thì không có mặt kia và ngược lại.
+Là sự phù hợp, tác động ngang nhau giữa các mặt đối lập; chúng chưa bài
trừ, phủ định được nhau. Đây là trạng thái vận động trong cân bằng của mâu thuẫn
trong những điều kiện nhất định, làm sự vật, hiện tượng còn là nó mà chưa chuyển
thành cái khác.
+Sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt
đó. Vì giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất”
với nhau. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn đến 1 lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
+Sự thống nhất của 2 mặt đối lập luôn tác động qua lại và đấu tranh với nhau;
trong sự thống nhất đã bao hàm đấu tranh. Vì vậy, thống nhất của các mặt đối lập gắn
19
liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật; là tạm thời, thoáng qua nhưng là
điều kiện để sự vật tồn tại và làm tiền đề cho sự đấu tranh.
-Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn, là nguồn gốc, động lực
bên trong của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.
+Đấu tranh giữa các mặt đối lập là 1 quá trình diễn ra từ thấp đến cao, qua các
giai đoạn phát triển khác nhau của mâu thuẫn. Từ sự đồng nhất, sự khác biệt phát
triển thành sự đối lập, sự xung đột và cuối cùng là sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
+Chỉ khi nào đấu tranh đạt đến sự chuyển hóa các mặt đối lập (các mặt đối lập
cũ được thay thế bằng các mặt đối lập mới khác hẳn về chất) thì mâu thuẫn mới được
giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời.
+Mâu thuẫn rất đa dạng, phong phú nên hình thức đấu tranh giữa các mặt đối
lập, hình thức chuyển hóa giữa chúng cũng không giống nhau. Hình thức đó tùy
thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại, lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập và điều
kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự bài trừ, phủ định và tiêu
diệt lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là 1 trong những hình thức đấu tranh của chúng.
+Mâu thuẫn tồn tại ở mọi giai đoạn, mọi quá trình phát triển; các mặt đối lập
lúc nào cũng đấu tranh với nhau. Vì thế, đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự
vận động và phát triển, đấu tranh phá vỡ sự thống nhất cũ, thiết lập sự thống nhất
mới cao hơn. Trong quá trình đó, trong sự thống nhất mới lại xuất hiện mâu thuẫn
mới và lại tiếp tục đấu tranh làm cho sự vật, hiện tượng luôn vận động và phát triển.
*Nói tóm lại, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách
rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tình ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do
đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển; trong đó sự đấu
tranh của các mặt đối lập là yếu tố trực tiếp gây nên sự biến đổi, vận động, phát triển
của sự vật.
b) Những giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Sự vật mới ra đời lúc đầu đã xuất hiện mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn lúc đầu thể
hiện chỉ là sự khác nhau cơ bản của các mặt. Trong quá trình vận động của các sự vật
thì mâu thuẫn phát triển đến trình độ thể hiện sự đối lập của các mặt đối lập đó; sau
đó mâu thuẫn tiếp tục phát triển đến giai đoạn mâu thuẫn chín muồi, cũng chính là sự
đối lập của các mặt đối lập được biểu hiện thật sự gay gắt nên yêu cầu bức thiết đòi
hỏi phải giải quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn được giải quyết, kết thúc sự vật cũ, sản
sinh ra sự vật mới và có những mâu thuẫn mới.
c) Phân loại mâu thuẫn:
-Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như trong tất cả các
giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức đa dạng, phong phú và tính phong
phú, đa dạng đó lại được quy định khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi
điều kiện tác động qua lại của chính và bởi trình độ tổ chức của sự vật mà trong đó
mâu thuẫn tồn tại.
-Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, ta có thể phân biệt thành 2
loại mâu thuẫn:
20
*Mâu thuẫn bên trong: là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng 1 sự vật. Là mâu thuẫn có vai trò quyết định trực tiếp đối với
quá trình vận động và phát triển của sự vật.
*Mâu thuẫn bên ngoài: là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật
đó với sự vật khác.
Cả 2 mâu thuẫn trên không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết
mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc
giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. (Ví
dụ: trong thực tiễn cách mạng Việ Nam việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước
không bao giờ tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn của nước ta với nước khác).
-Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, ta có thể chia
thành 2 loại mâu thuẫn sau:
*Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của
các sự vật; khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về
chất.
*Mâu thuẫn không cơ bản: là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho 1 phương diện
nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó có nảy sinh
hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
-Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật
trong 1 giai đoạn nhất định, ta có thể chia thành 2 loại mâu thuẫn sau:
*Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở 1 giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai
đoạn phát triển mới.
*Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong 1 giai đoạn
phát triển nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn
chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu.
-Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, ta có thể chia thành 2 loại mâu
thuẫn sau:
*Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
*Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những lực lượng XH có lợi
ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ,
tạm thời.
=> Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta có thể rút ra nội dung cơ bản của
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) của phép
biện chứng duy vật như sau: mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng
biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của 2 mặt đối lập
tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hóa lẫn nhau,
làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế
cái cũ.
21
3-Ý nghĩa phương pháp luận: Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người.
-Chúng ta muốn hiểu bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp
đúng đắn cho hoạt động thực tiễn thì cần phải đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện
ra những mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra những mâu thuẫn đó thì phải tìm
ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm
ra những mặt đối lập, những mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt
đối lập đó.V.I.Lênin đã viết: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các
bộ phận của nó, đó là thực chất của phép biện chứng”.
-Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải
xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác
động qua lại, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau của chúng. Từ đó mới có thể hiểu đúng
về xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
-Muốn thúc đẩy sự vật phát triển thì phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải
phù hợp với trình độ phát triển mâu thuẫn; phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo tìm ra
các phương thức, phương tiện và lực lượng hợp lý để giải quyết mâu thuẫn khi điều
kiện đã chín muồi.
-Tuy nhiên, việc phát hiện kịp thời, chính xác và giải quyết đúng mâu thuẫn là
nhiệm vụ trung tâm, khó khăn nhất trong quá trình xem xét, cải tạo sự vật, hiện
tượng. Vì thế, chúng ta cần phải chống thái độ chủ quan, nóng vội, chống quan điểm
phủ nhận, ngại phát hiện, né tránh, không dám thừa nhận mâu thuẫn, thừa nhận đấu
tranh hoặc nhận thức, giải quyết không đúng mâu thuẫn, làm suy giảm, triệt tiêu
động lực phát triển của sự vật hiện tượng. Mặt khác, chúng ta phải chú ý giải quyết
từng mâu thuẫn chủ yếu bên trong sự vật của mọi giai đoạn phát triển của sự vật thì
chúng ta đã giải quyết toàn bộ mâu thuẫn cơ bản của sự vật để sự vật phát triển thành
sự vật mới.
Câu 7: Anh (chị) hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại?
Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên cách
thức của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
1-Định nghĩa các phạm trù:
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm 2 mặt chất và lượng; 2 mặt này
luôn thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
*Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không
phải là cái khác.
-Thuộc tính của sự vật là những tính chất, trạng thái, yếu tố cấu thành nên sự
vật…;là cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra, hình thành trong sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng và nó chỉ bộc lộ ra thông qua sự tác động qua
lại với các sự vật, hiện tượng khác.
22
-Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện 1 chất của sự
vật nên mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không
tách rời nhau.
-Trong các thuộc tính đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản;
những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại thành chất của sự vật. Chính chúng quy
định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất
đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối
liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
-Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, tức là kết cấu của
sự vật vì trong thực tế các sự vật tạo thành bởi các yếu tố như nhau nhưng chất lại
khác nhau.
Ví dụ: kim cương, than chì đều có chung thành phần hóa học là Cacbon (C)
nhưng về kết cấu C lại khác nhau nên kim cương rất cứng và than chì lại mềm.
*Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác
về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển.
-Lượng là cá vốn có của sự vật nhưng nó chưa làm cho sự vật là nó, chưa làm
cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng
mang tính khách quan như chất của sự vật.
-Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…Trong thực tế
lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể (như vận
tốc ánh sáng là 300.000/s…); ngoài ra có những lượng chỉ biểu thị dưới dạng trừu
tượng, khái quát (như tri thức khoa học của 1 người, ý thức trách nhiệm…); có lượng
biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật (như số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hóa học…); có lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật
(chiều dài, rộng, cao của sự vật…)
*Tóm lại, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối.
Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, nhưng trong mối
quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
2-Nội dung của quy luật:
a) Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất:
-Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa 2 mặt
chất và lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
-Lượng bao giờ cũng là của 1 chất xác định, luôn biến đổi (mặt động). Chất
bao giờ cũng là của 1 sự vật, hiện tượng cụ thể, là mặt ổn định, ít biến đổi để xác
định sự vật là cái gì. Sự thống nhất giữa lượng và chất thể hiện ở chỗ chất nào thì
lượng ấy và lượng nào cũng là lượng của 1 chất nhất định.
-Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động, phát
triển của sự vật nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Sự
23
thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất của nó và sự thay
đổi về chất của sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó.
-Lúc đầu sự vật mới ra đời thì lượng biến đổi nhưng chất vẫn chưa thay đổi
căn bản. Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định (khoảng giới
hạn đó gọi là “độ”) thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ, chất mới ấy tương
ứng với lượng mới tích lũy được.
*Độ: là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về
lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật đó.
-Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái
khác. Tại điểm giới hạn mà sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự
vật được gọi là điểm nút. (Ví dụ: điểm nút của các trạng thái nước như 0
oC
, 100
oC
)
*Điểm nút: là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
-Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút và sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra
đời.
*Bước nhảy: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc 1 giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu
của 1 giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát
triển liên tục của sự vật.
-Như vậy, sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động
của những điều kiện khách quan, chủ quan quy định.
b) Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng:
-Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy
được thể hiện ở chỗ: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: khi chất lỏng chuyển sang chất hơi làm cho vận tốc của các phân tử
nước cao hơn, thể tích hơi nước lớn hơn và độ hòa tan khác với trước…
-Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng của sự vật, hiện
tượng.
c) Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
-Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật, có thể chia thành
2 loại bước nhảy sau:
*Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong 1 thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
*Bước nhảy dần dần: là bước nhảy thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích
lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi
24
-Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật, ta có thể chia thành 2 loại
bước nhảy sau đây:
*Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
*Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.
=> Tóm lại, từ những sự phân tích nêu trên, chúng ta có thể rút ra nội dung cơ
bản của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại như sau: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự
thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật
thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại, sự thay đổi của lượng mới lại
có chất mới cao hơn…Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không
ngừng biến đổi.
3-Ý nghĩa phương pháp luận: Việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
-Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải luôn biết
kiên trì, từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Đồng thời
phải kiên quyết chống tư tưởng “tả khuynh”, chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt
chát giai đoạn”, muốn thực hiện những bước nhảy liên tục, muốn tiến hành và kết
thúc hành động khi chưa có sự chuẩn bị chu đáo về lượng.
-Quy luật tự nhiên và quy luật XH đều có tính khách quan; trong đó quy luật tự
nhiên diễn ra 1 cách tự phát, quy luật XH chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có
ý thức của con người. Vì vậy, khi chúng ta đã tích lũy đủ về lượng, khi có điều kiện
thích hợp thì phải kịp thời chớp lấy thời cơ, kiên quyết thực hiện bước nhảy, kịp thời
chuyển hóa những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay
đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng để giành
thắng lợi. Chỉ như vậy ta mới khắc phục được tư tưởng “hữu khuynh”, bảo thủ, trì
trệ, không quyết đoán, chần chừ do dự và không dám thực hiện bước nhảy khi thời
cơ đã chín muồi.
-Ngoài ra, trong hoạt động con người còn phải biết chủ động vận dụng linh
hoạt, sáng tạo các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân
tích đúng đắn những điều kiện khách quan, những nhân tố chủ quan; tùy thuộc theo
từng trường hợp, điều kiện hay quan hệ cụ thể. Đồng thời, sự thay đổi về chất của sự
vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự
vật. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, trong nhận thức và tư duy, con người phải biết
cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở đã
hiểu rõ bản chất, quy luật và kết cấu của sự vật.
Câu 8: Việc vận dụng quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam?
-Trong cách mạng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã nắm được
quy luật của sự biến đổi, vận dụng lý luận quy luật từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Chúng ta phải xây dựng lực lượng cách mạng dần dần, từ nhỏ đến lớn, từ những trận
25