Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT TÀI CHÍNH doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 200 trang )

1
CÁC CH TIÊU
GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
2
CÁC CH TIÊU GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
Báo cáo nghiên cu RS - 03
Bản quyền © 2012 thuộc về Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.
Mọi sự sao chép và lưu hành không được sự đồng ý của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
và UNDP là vi phạm bản quyền.
3
CÁC CH TIÊU
GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
4
5
LI GII THIU
Trong những thập niên gần đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc
khủng hoảng tài chính với phạm vi ngày càng lớn, mức độ tác động
và tần suất ngày càng gia tăng. Một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các bất ổn đó là hoạt động giám sát tài chính còn yếu
kém, không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các định chế tài
chính và các công cụ tài chính.
Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai
thập kỷ cải cách tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn
tại nhiều rủi ro không thể xem thường trong khi công tác giám sát vĩ
mô thị trường tài chính hiện còn không ít bất cập. Trên thực tế, việc
giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ phục vụ cho
giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính chưa hoàn thiện, nhất là
giám sát dựa trên rủi ro. Giám sát rủi ro chéo với các thị trường tài
sản như bất động sản, chứng khoán còn lỏng lẻo do thiếu sự phối
hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ thị trường tài chính giữa các
cơ quan giám sát chuyên ngành. Do đó, việc củng cố và hoàn thiện


hệ thống giám sát tài chính hợp nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp
thiết, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là cần xây dựng một bộ chỉ tiêu
phục vụ cho việc giám sát hợp nhất thị trường tài chính dựa trên các
tiêu chí giám sát tài chính hiện đại đang được nhiều nước trên thế
giới áp dụng.
6
Chúng tôi hy vọng nghiên cứu này sẽ là tiền đề quan trọng để
các cơ quan giám sát an toàn tài chính ở nước ta, đặc biệt là cơ quan
giám sát hợp nhất, có thể tiến tới triển khai vận hành hệ thống giám
sát và cảnh báo an toàn tài chính có hiệu quả trong thời gian tới.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị.
BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN
7
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao
năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách Kinh tế vĩ mô” do
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, với sự tài trợ của Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP).
Trưởng Ban chỉ đạo:
Nguyn Văn Giàu
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Giám đốc:
Nguyn Văn Phúc
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Phó Giám đốc:
Nguyn Minh Sơn
Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội
Quản đốc:
Nguyn Trí Dũng
Nhóm tác giả:
Võ Trí Thành

Lê Xuân Sang
Đinh Hin Minh
Nguyn Anh Dương
8
9
MỤC LỤC
DANH MC CÁC CH VIT TT 11
LI NÓI ĐU 13
CHƯƠNG 1: CƠ sở lý luâN và tHựC tiễN CHo việC xây
dựNG Hệ tHốNG CáC CHỉ tiêu Giám sát tài CHíNH
CÁC TÁC NHÂN GÂY BT N VÀ KHNG HONG TÀI CHÍNH 19
Các ri ro c hu ca th trưng tài chính 19
Mt s ri ro thưng gp trong quá trình hot đng ca các đnh
ch tài chính 19
Các nguyên nhân gây nên các khng hong tài chính 21
Các vn đ bt cp, ri ro có th phát sinh t bn thân mô hình
giám sát tài chính 27
Ri ro t s phát trin mnh m các tp đoàn tài chính 30
CÁCH TIP CN VÀ KHUÔN KH PHÂN TÍCH H THNG CÁC CH TIÊU GIÁM SÁT TÀI
CHÍNH QUC GIA 34
Giám sát an toàn vĩ mô và an toàn vi mô 37
Các mô hình đnh lưng phc v giám sát th trưng tài chính 78
CHƯƠNG 2: KiNH NGHiệm quốC tế troNG áp dụNG
CáC CHỉ tiêu Giám sát tài CHíNH và KHuyếN NGHị áp
dụNG tại việt Nam
THÔNG L V CÁC NGƯNG, CHUN MC THAM CHIU CA CÁC CH TIÊU GIÁM SÁT TRÊN
TH GII
124
Nguyên tc, điu kin áp dng 124
Mt s ngưng, chun mc tham chiu trên th gii 125

10
Tính hu dng ca các ch tiêu giám sát trên th gii 136
Các vn đ s dng và xây dng các ch tiêu giám sát an toàn vĩ mô 137
MT S KHUYN NGH CHÍNH SÁCH CHO VIT NAM 146
Tóm lưc h thng giám sát tài chính  Vit Nam 146
Công tác giám sát, thanh tra TTTC 149
Mt s khuyn ngh áp dng các ch tiêu giám sát tài chính  Vit Nam 164
TÀI LIU THAM KHO 179
PH LC 191
11
DANH MC CÁC CH VIT TT
BDS Bất động sản
CtyCK Công ty chứng khoán
GDP Tổng sản phẩm trong nước
IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế
TCTK Tổng cục Thống kê
TĐTC Tập đoàn tài chính
TTCK Thị trường chứng khoán
TTTC Thị trường tài chính
UBCKNN Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
UBGSTCQG Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
USD Đô la Mỹ
WB Ngân hàng thế giới
12
13
LI NÓI ĐU
Trong hai thập niên lại đây, nhiều nước trên thế giới đã phải
trải qua nhiều bất ổn tài chính và các cuộc khủng hoảng tài chính,
với phạm vi, mức độ tác động ngày càng lớn và tần suất ngày càng
tăng. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra từ cuối năm 2007

ở Hoa Kỳ và cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đến nay vẫn
chưa chấm dứt đã để lại nhiều hậu quả rất nghiêm trọng. Một nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến các bất ổn và khủng hoảng tài chính chính là
sự giám sát tài chính yếu kém, thường không theo kịp sự phát triển
nhanh chóng, đa dạng của các định chế tài chính và các công cụ tài
chính. Các cuộc khủng hoảng cũng cho thấy, các chuẩn mực, thông
lệ tốt về giám sát an toàn vĩ mô
1
, giám sát dựa trên rủi ro
2
đã bị coi
nhẹ; đặc biệt, các bài học đắt giá về việc quên lãng các chuẩn mực
giám sát an toàn vi mô, trong đó có giám sát chất lượng tín dụng (nợ
xấu) đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Việt Nam đã có hơn một thập niên cải cách hệ thống tài chính
và đã đạt được một số thành tựu ban đầu. Rõ nét nhất chính là sự
phát triển về lượng (theo chiều rộng) tương đối nhanh của hệ thống
Ngân hàng Thương mại, giúp khu vực này đóng vai trò trung gian
tài chính nổi trội trong huy động và phân bổ các nguồn vốn trong
nền kinh tế nếu so sánh với nhiều nước đang phát triển và chuyển
đổi khác. Tuy vậy, xét tổng thể, hệ thống tài chính Việt Nam vẫn còn
1
Thuật ngữ tiếng Anh: Macro-prudential supervision and Micro-prudential supervision (còn được dịch là
giám sát thận trọng vĩ mô và vi mô).
2
Thuật ngữ tiếng Anh: Risk-based supervision.
14
kém phát triển, chứa đựng nhiều rủi ro, thể hiện trên nhiều phương
diện cả trong lĩnh vực giám sát tài chính.
Trước hết, việc thực hiện giám sát tài chính vẫn chủ yếu thiên

về giám sát tuân thủ, thiếu khuyết các công cụ hữu hiệu phục vụ cho
giám sát an toàn vĩ mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các
mô hình phân tích định lượng, cảnh báo, kiểm định rủi ro (như mô
hình cảnh báo sớm (EWS)
3
, Mô hình kiểm tra sức chịu đựng các cú
sốc tài chính tiền tệ của các định chế tài chính (ST)
4
, và Mô hình xác
định giá trị rủi ro bị tổn thất (VaR)
5
) cho cả hệ thống tài chính và cho
từng định chế tài chính còn ít được phát triển và ứng dụng.
Hơn nữa, giám sát các rủi ro chéo còn yếu kém do thiếu sự phối
hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ thị trường tài chính (TTTC)
xuất phát từ việc các cơ quan giám sát hoạt động một cách độc lập
(hệ thống giám sát hiện nay ở Việt Nam là giám sát theo chuyên
ngành hay theo định chế). Đặc biệt, hiện vẫn chưa có một cơ quan
giám sát tài chính vĩ mô có đủ thẩm quyền và năng lực bộ máy để
có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của hệ
thống tài chính. Bản thân vị thế pháp lý thấp của Ủy ban Giám sát
tài chính quốc gia (UBGSTC) cũng là một tác nhân gây nên sự phối
kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát và hiệu quả
thấp trong giám sát hệ thống tài chính. Ngoài ra, các lỗ hổng pháp
lý trong giám sát hoạt động tài chính (vốn ngày càng gia tăng, đan
xen lẫn nhau của các định chế tài chính, nhất là của các tập đoàn tài
chính) cũng có xu hướng tăng và chưa được xử lý hữu hiệu.
Thách thức lại càng lớn trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày
càng sâu rộng vào hệ thống kinh tế - tài chính khu vưc và toàn cầu.
Giám sát tài chính ngày càng trở nên khó khăn do sự gia tăng các

công cụ tài chính (nhất là phái sinh), sự cải tiến không ngừng công
3
Thuật ngữ tiếng Anh: Early warning system (EWS).
4
Thuật ngữ tiếng Anh: Stress test (ST).
5
Thuật ngữ tiếng Anh: Value at risks (VaR).
15
nghệ thông tin - truyền thông, và quá trình tự do hóa kinh tế - tài
chính. Các bộ phận của TTTC ngày càng đan xen nhau; ranh giới
giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán (TTCK) truyền
thống trong một nước hay giữa thị trường vốn nội địa với thị trường
vốn quốc tế đang “mờ” dần; các định chế tài chính ngày càng trở nên
đa năng, đa quốc gia. Những điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát
phải có tầm nhìn vĩ mô, toàn cầu và sự phối hợp chặt chẽ trong việc
vừa quản lý một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận
TTTC phát triển.
Trong bối cảnh hệ thống giám sát tài chính còn nhiều yếu kém
và thách thức ngày càng gia tăng đối với một TTTC đang trong quá
trình tự do hóa, việc củng cố, hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính
Việt Nam là rất cấp thiết. Trong đó, một nỗ lực rất quan trọng là xây
dựng một hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính cho Việt Nam dựa trên
các chủ thuyết giám sát hiện đại, kinh nghiệm quốc tế và điều kiện
cụ thể ở Việt Nam.
Mục tiêu của nghiên cứu này là trên cơ sở xem xét một cách hệ
thống cả lý luận và thực tiễn để bước đầu hình thành ở Việt Nam: (i)
bộ chỉ tiêu giám sát tài chính an toàn vĩ mô và vi mô; (ii) mô hình định
lượng phục vụ giám sát an toàn tài chính vĩ mô và vi mô; (iii) các quy
chuẩn và chỉ tiêu giám sát tập đoàn tài chính; và (iv) mô hình giám sát
toàn hệ thống tài chính trong giai đoạn 2012-2020, tầm nhìn 2030.

Cách tiếp cận của nghiên cứu chủ yếu dựa trên các nguyên nhân
gây bất ổn và khủng hoảng tài chính (các biến kinh tế, tài chính); các
chủ thuyết giám sát tài chính hiện đại; các thông lệ, chuẩn mực quốc
tế tốt trong giám sát tài chính (nhất là ngân hàng), đặc biệt bộ các
chỉ tiêu giám sát tài chính được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ
chức quốc tế khác khuyến dụng. Qua đó, nhóm nghiên cứu chọn lọc
một cách khái lược nhất cho Việt Nam bộ chỉ tiêu giám sát tài chính,
mô hình định lượng/mô hình kiểm định cảnh báo rủi ro tài chính, các
16
quy chuẩn, chỉ tiêu giám sát tập đoàn tài chính, và đề xuất việc hoàn
thiện tổ chức, chức năng của cơ quan giám sát toàn hệ thống tài chính
(được mặc định là có thẩm quyền cao như trong hệ thống giám sát
tài chính hợp nhất).
Các phân tích, đánh giá chỉ tiêu giám sát tài chính được nhìn
nhận cả dưới góc độ giám sát an toàn vi mô và vĩ mô, từ bản thân
rủi ro trong hoạt động của các tập đoàn tài chính đa năng và từ các
mô hình định lượng EWS. Tuy nhiên, để đảm bảo tính đồng bộ, đa
phương diện của giám sát tài chính, nhóm nghiên cứu cũng bổ sung
thêm các chỉ tiêu giám sát tài chính đối với thị trường bất động sản
và đặc biệt là phương pháp ST và VaR.
Nghiên cứu này bao gồm hai chương lớn. Chương 1 xem xét cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các bộ chỉ tiêu giám sát tài
chính, mô hình định lượng và các quy chuẩn để giám sát an toàn tài
chính vĩ mô và vi mô, giám sát các tập đoàn tài chính và hoàn thiện
tổ chức của cơ quan giám sát tài chính hợp nhất. Chương 2 cung cấp
kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng xây dựng các bộ chỉ tiêu giám
sát tài chính, mô hình định lượng và các quy chuẩn để giám sát an
toàn tài chính vĩ mô và vi mô, giám sát các định chế tài chính, tập
đoàn tài chính. Đặc biệt, chương 2 còn đưa ra các ngưỡng, chuẩn
mực tham chiếu, thông lệ quốc tế để phục vụ cho công tác giám sát,

cảnh báo rủi ro. Bên cạnh đó, những vấn đề trong xây dựng, áp dụng
các chỉ tiêu giám sát trên thế giới cũng được phân tích. Dựa trên
những nền tảng này và thực tiễn giám sát ở Việt Nam, nhóm nghiên
cứu đưa ra các đề xuất ban đầu về bộ chỉ tiêu giám sát tài chính, các
mô hình định lượng, quy chế giám sát tập đoàn tài chính, và mô hình
giám sát toàn hệ thống tài chính của Việt Nam.


17
CHƯƠNG 1
CƠ sở lý luẬN và tHựC tiễN CHo
việC xây dựNG Hệ tHốNG CáC
CHỉ tiêu Giám sát tài CHíNH
Giám sát tài chính được hiểu là việc giám sát của Chính phủ đối
với hoạt động của các định chế tài chính. Mục tiêu giám sát tài chính
là phát hiện, ngăn ngừa và xử lý việc vi phạm các quy định hiện hành
đối với khu vực tài chính và cuối cùng là duy trì ổn định trên TTTC.
6

Các TTTC ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao gồm thị trường
tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán (thị
trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu (Chính phủ, công ty).
Các chỉ tiêu giám sát tài chính được hiểu là bộ các chỉ tiêu kinh
tế - tài chính phản ánh mức độ ổn định của TTTC cũng như các các
nhân tố có liên quan và thể hiện sự ổn định kinh tế - tài chính (kể
cả cảnh báo bất ổn, khủng hoảng tài chính) với các mục tiêu định
lượng (ngưỡng cảnh báo, tham chiếu) cụ thể. Chính vì vậy, theo cách
tiếp cận sẽ được nêu dưới đây, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (như
tăng trưởng GDP, thâm hụt cán cân vãng lai) và một số chỉ số dẫn
báo (leading indicators) với các ngưỡng cụ thể báo trước tình hình

bất ổn kinh tế vĩ mô (bất cân đối vĩ mô) cũng có thể được coi là chỉ
tiêu giám sát tài chính. Trong trường hợp không có ngụ ý rõ ràng về
ngưỡng tham chiếu hay tiêu chí định lượng xác định, nghiên cứu này
sử dụng thuật ngữ “chỉ số”. Lưu ý là trong một số trường hợp, hai
thuật ngữ “chỉ tiêu” và “chỉ số” có thể được hiểu như nhau.
6
Từ điển đầu tư (URL: />18
Việc xây dựng các chỉ tiêu giám sát tài chính có ý nghĩa quan
trọng trong điều hành, giám sát hệ thống tài chính, nhất là trong việc
phát hiện những yếu tố dễ bị tổn thương bên trong hệ thống tài chính
- điều đến lượt có thể gây bất ổn cho hệ thống tài chính. Bên cạnh
đó, các chỉ tiêu còn giúp phát hiện các nhân tố bất ổn bên ngoài hệ
thống tài chính. Đặc biệt, các mô hình định lượng, với đầu vào hầu
hết là các chỉ tiêu giám sát tài chính, giúp có thể cảnh báo sớm được
các bất ổn, rủi ro tài chính trong tương lai. Quan trọng hơn, mô hình
định lượng còn còn giúp dự báo điểm uốn (ngoặt) của khả năng dễ bị
tổn thương của hệ thống tài chính (trong một số trường hợp là điểm
“phát nổ” khủng hoảng). Như vậy, các chỉ tiêu giám sát tài chính
giúp các nhà quản lý phát hiện các nhân tố gây bất ổn, khủng hoảng
tài chính, qua đó, cảnh báo và có các biện pháp ngăn ngừa, chống đỡ
hữu hiệu và giảm nhẹ các thiệt hại có thể do chúng gây ra.
Trong nghiên cứu này, các nội dung giám sát và cơ sở để xây
dựng các chỉ tiêu giám sát tài chính chủ yếu dựa trên những khía
cạnh yếu kém, dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính - những tác
nhân (“tội đồ”) trực tiếp và gián tiếp gây bất ổn và khủng hoảng tài
chính- cụ thể là: (i) các rủi ro cố hữu của hệ thống tài chính; (ii) một
số rủi ro thường gặp trong hoạt động của các định chế tài chính; (iii)
các nguyên nhân vĩ mô và vi mô gây nên các bất ổn và khủng hoảng
tài chính (bao gồm khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng nợ, khủng
hoảng tiền tệ); và (iv) các nhân tố rủi ro xuất phát từ bản chất mô hình

giám sát tài chính cũng như từ hoạt động của tập đoàn tài chính.
Dưới đây lần lượt xem xét nội dung, cơ chế tác động theo các
khía cạnh này. Chi tiết về cơ chế tác động, nguyên nhân trực tiếp và
gián tiếp gây bất ổn tài chính, khủng hoảng tài chính sẽ được xem xét
một phần trong quá trình giới thiệu các chỉ tiêu giám sát và các mô
hình định lượng riêng biệt.
19
CÁC TÁC NHÂN GÂY BT N VÀ KHNG HONG TÀI CHÍNH
Các ri ro c hu ca th trưng tài chính
Hệ thống tài chính (HTTC) của các nước có trình độ phát triển
khác nhau đều có những vấn đề cố hữu và rủi ro thường trực như
thông tin bất đối xứng, sự bất ổn định và rủi ro mang tính hệ thống.
Các rủi ro này luôn thường trực trong hệ thống tài chính, có thể gây
nên bất ổn tài chính và thậm chí khủng hoảng tài chính khi một hay
một số yếu kém, rủi ro không được phát hiện, hoặc bị kích hoạt bởi
các yếu kém, nhân tố rủi ro khác nếu không được ngăn chặn, xử lý
kịp thời.
Một đặc tính cơ bản của TTTC so với với các thị trường khác là
sự bất ổn định mang tính hệ thống hay rủi ro hệ thống. Như đã đề cập,
các thị trường cấu thành của TTTC gắn bó chặt chẽ với nhau. Một tác
động từ bên trong lẫn bên ngoài có thể gây nên những phản ứng dây
chuyền trên toàn hệ thống TTTC. Rõ ràng TTTC càng phát triển ở
trình độ cao thì tính nhạy cảm mang tính hệ thống càng cao. Hơn nữa,
khủng hoảng tài chính thường kéo theo các cuộc khủng hoảng kinh tế,
thậm chí cả khủng hoảng chính trị - xã hội. Trong bối cảnh tự do hoá
tài chính, tính bất ổn định mang tính hệ thống của TTTC có thể lan
truyền nhanh chóng ra khỏi biên giới của một quốc gia và có thể kéo
theo hàng loạt bất ổn, thậm chí khủng hoảng tài chính ở một số nước
khác trong khu vực và thế giới. Khủng hoảng tài chính tại các nước
châu Á năm 1997 –1998, và đặc biệt là khủng hoảng tài chính ở Hoa

Kỳ trong 2 năm gần đây cho thấy rõ đặc tính này của TTTC.
Mt s ri ro thưng gp trong quá trình hot đng ca các đnh ch tài
chính
Hệ thống tài chính thường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro và
mức độ “phơi nhiễm tài chính”
7
là khác nhau với các loại rủi ro khác
7
Thuật ngữ tiếng Anh : exposure.
20
nhau, phụ thuộc vào các đặc điểm của danh mục đầu tư của từng định
chế tài chính, nhất là ngân hàng, tầm quan trọng của từng ngân hàng
trong hệ thống, mối liên kết với các định chế và thị trường khác,
cũng như mức độ và bản chất của các rủi ro.
Một danh mục đầu tư có thể bị tổn thương dưới tác động của
các cú sốc rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường (bao
gồm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá cổ phiếu và giá hàng hóa). Các cú sốc
rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng có thể tác động lên danh mục đầu
tư của các định chế tài chính hoặc trực tiếp qua sự thay đổi giá trị tài
sản tài chính (theo giá thị trường) hoặc gián tiếp thông qua sự thay
đổi tình hình tài chính của con nợ - điều làm giảm chất lượng tín
dụng. Các cú sốc đối với lòng tin của những người gửi tiền hay các
nhà đầu tư có thể gây ra các vấn đề về thanh khoản - điều còn ảnh
hưởng tới bảng kết toán tài sản của các định chế tài chính. Cuối cùng,
những cú sốc này tác động tới khả năng lợi nhuận và an toàn vốn của
các định chế tài chính. Mức độ dẽ bị tổn thương của HTTC gia tăng
khi các cú sốc tác động mạnh vào các tài sản không có tính thanh
khoản, không được phòng vệ
8
hay đa dạng hóa ở mức cần thiết, và

khi thiếu các nguồn vốn cần thiết để hấp thu các cú sốc.
IMF (2000) tổng kết một loạt nghiên cứu và cho thấy, rủi ro
thị trường, rủi ro tín dụng, sự tập trung danh mục đầu tư và sự chênh
lệch giữa tài sản có và tài sản nợ là những nhân tố rủi ro chủ yếu.
Trong khi đó, tại nhiều nước, chất lượng tín dụng thấp lại là căn
nguyên quan trọng của sự dễ bị tổn thương, rủi ro bất ổn tài chính và
thậm chí khủng hoảng. Vì vậy, kênh chính mà qua đó các cú sốc tác
động lên các rủi ro của các định chế ngân hàng là sự sụp đổ lòng tin/
sự tín nhiệm về khả năng trả nợ của những người đi vay, nhất là tại
những hệ thống tài chính chưa phát triển.
8
Thuật ngữ tiếng Anh: hedging.
21
Các nguyên nhân gây nên các khng hong tài chính
Dựa trên đặc điểm và tính chất các lọai hình khủng hoảng tài
chính đã nổ ra, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các biến/chỉ tiêu tài
chính thể hiện các dấu hiệu, và là nguyên nhân, gây khủng hoảng tài
chính (khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng và nợ).
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất:
Ở một số nước châu Mỹ La tinh vào cuối những năm 1970 - đầu
những năm 1980 và trong những năm 1990, chủ yếu đặc trưng cho
các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định
bị các hoạt động đầu cơ tiền tệ tấn công. Khi những nền tảng kinh tế
vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt trầm trọng, cung tiền tăng
quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách)
khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán cân vãng lai bị
thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá, Chính
phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường
để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm thấp, các
cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra. Nguồn dự trữ ngoại

hối trở nên cạn kiệt, Chính phủ buộc phải đi vay nợ nước ngoài và/
hoặc kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế (như IMF). Những
điều này cùng với sự gia tăng căng thẳng chính trị - xã hội buộc Chính
phủ đến một thời điểm nào đó phải thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ
bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Như vậy, trong mô
hình khủng hoảng này, các chỉ tiêu kinh tế - tài chính cảnh báo, phản
ánh khủng hoảng bao gồm lạm phát, cán cân vãng lai, thâm hụt ngân
sách, dự trữ ngọai hối đều tồi đi trong bối cảnh tỷ giá cố định.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai:
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld phát triển
những năm 1994-1995 lý giải hiện tượng khủng hoảng tự phát sinh
9
.
9
Thuật ngữ tiếng Anh: Self-fullling crisis.
22
Khủng hoảng dạng này thậm chí có thể xảy ra ở những nước có mức
độ yếu kém tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế
độ tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ
tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn, do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy
lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm).
Trước tín hiệu đó, các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để
mua ngoại tệ và Chính phủ không có cách nào khác là buộc phải từ
bỏ chế độ tỷ giá cố định, dẫn đến khủng hoảng. Phiên bản khác của
mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai tính đến tình trạng không hoàn
hảo và mất đối xứng về thông tin tạo ra hành vi bầy đàn, có thể gây
hoảng loạn và khủng hoảng tài chính. Mô hình khủng hoảng thế hệ
thứ hai có thể thấy trong cuộc khủng hoảng Hệ thống tiền tệ châu Âu
(European Monetary System) năm 1992-1993. Như vậy, trong mô
hình này, nhân tố rủi ro mang tính cố hữu hệ thống tài tính là một

nguyên nhân quan trọng gây khủng hoảng.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba:
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất khó có thể giải thích một
cách thỏa đáng cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998. Lý do là
các nước chịu khủng hoảng về cơ bản vốn có nền tảng kinh tế vĩ mô
tương đối tốt như ngân sách không thâm hụt đáng kể, thậm chí có
thặng dư, tiết kiệm nội địa cao, tỷ lệ lạm phát thấp v.v… Áp lực phải
từ bỏ chính sách tỷ giá cố định chưa lớn. Hơn nữa, hành vi bầy đàn
cũng có liên quan đến khủng hoảng châu Á song không thể giải thích
được mức độ trầm trọng của nó. Chính vì vậy, mô hình khủng hoảng
thế hệ thứ hai cũng chưa thể xem là một khung khổ thật tốt để giải
thích cuộc khủng hoảng châu Á.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno
xây dựng năm 1999 đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản
vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản vốn
thường dẫn đến khủng hoảng kép, khủng hoảng tiền tệ và khủng
23
hoảng ngân hàng. Cơ chế gây nên khủng hoảng đươc thể hiện trong
Sơ đồ 1.1. Việc tự do hóa tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp
đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép: (i) luồng
vốn đổ vào ồ ạt vượt quá nhiều mức thâm hụt cán cân vãng lai; và (ii)
vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn.
Một yếu tố mấu chốt đã “dung dưỡng” cho cuộc khủng hoảng
kép là vấn đề rủi ro đạo đức được biểu hiện dưới dạng quan hệ "cánh
hẩu", bảo lãnh ngầm và công khai của các Chính phủ. Nhờ đó, các
nền kinh tế đã thu hút một lượng lớn vốn vay ngoại tệ ngắn hạn kém
được kiểm định đổ vào nền kinh tế và gây nên tình trạng bùng nổ tín
dụng, đầu tư quá mức và thiếu hiệu quả, nhất là đầu tư vào lĩnh vực
bất động sản và tạo nên nền kinh tế “bong bóng”. Bong bóng phình
ngày một lớn và phải đến lúc vỡ. Một quá trình ngược lại bắt đầu xảy

ra. Mọi người bán tài sản vì suy đoán rằng giá tài sản sẽ giảm; lượng
cung tài sản vì thế gia tăng và làm cho giá tài sản giảm xuống. Các
ngân hàng nhận thấy giá trị tài sản thế chấp giảm xuống nên không
cho vay nữa và đòi hoàn trả những khoản cho vay cũ về. Các nhà đầu
tư, do phải hoàn trả vay nợ, nên càng phải bán tháo tài sản khiến giá
lao dốc và thường giảm xuống dưới cả mức cân bằng ban đầu.
24
Sơ đ 1.1: Khng hong tài khon vn
Nguồn: Theo Yoshitomi and Shirai (2000).
Cuộc khủng hoảng ngân hàng - tiền tệ ở châu Á năm 1997
-1998 được coi là một ví dụ điển hình của Mô hình khủng hoảng thế
hệ thứ ba.
Điều đáng lưu ý là IMF (2000) cũng đã tổng hợp được khá
nhiều bằng chứng nghiên cứu khác nhau, chỉ ra nhiều chỉ tiêu an toàn
vĩ mô và vi mô có dấu hiệu biến động mạnh trước và trong khủng
hoảng (Bảng 1.1).
25
Bng 1.1: Các ch tiêu an toàn vĩ mô và vi mô có du hiu bin đng mnh trưc khng hong 1997-1998
Tác giả
Năm xuất bản
B: Khủng hoảng NH
C: Khủng hoảng tiền tệ
C-K
1996
B
F-R
1996
C
S-T-V
1996 C

H
1997
B
GH-
P-B
1997
B
B-G
199
C
B-P
1999
C
E-L
1998
C
E-R
1998
B
F
1998
C
H-P
1998
B
K
1999
B&C
K-L-R
1998

C
R-S
1998
C
DK-D
1998
B
Ch tiêu an toàn vĩ mô
Tăng mạnh cho vay (ví dụ: Cho vay/GDP) Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Tăng mạnh giá tài sản Có Có Có Có Có Có Có Có
Tác động lây nhiễm Có
Thâm hụt CCTT Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Tăng trưởng GDP Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Biến động của lãi suất và tỷ giá Có Có Có Có Có
Hệ số Giá XK/Giá NK Có Có Có Có Có Có
Mức lãi suất trong nước Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Chênh lệch tỷ giá Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
CP cho vay các NHTM Có Có
Biện động lạm phát Có Có
Ch tiêu an toàn vi mô
Rủi ro phơi nhiễm hối đoái Có Có Có Có Có Có Có
Tập trung tín dụng theo ngành Có Có
Nợ xấu Có
Tín dụng NHTW cho các ĐCTC Có Có
Hệ số Tiền gửi/M2 hay GDP Có Có Có Có Có
Giá chứng khoán Có Có Có Có Có
Ghi chú: Caprio và Clingebiell (C-K), Franiel và Rose (F-R), Sachs, Tomell và Valesco (S-T-V), Honchan (H), Gonzalez-Hermosilo, Parabasilo và Bellings (GH-
P-B), Baig và GoldFajn (B-G), Berg và Parilo (B-P), Essquivel và Larren (E-L), Eichenreen và Rose (E-R), Fratzscher (F), Hardy và (Parazbalio (H-P), Kaminsky (K),
Kaminsky, Lizondo và Reinhart (K-L-R), Radeller và Sachs (R-S), Deminguc-Kunt và Deraghiche (DK-D).
Nguồn: Tổng kết của IMF (2000).

×