Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Luận văn: XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.16 KB, 36 trang )

Luận văn
XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

1


LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỉ hai mốt mở ra một kỷ nguyên mới cho nền kinh tế toàn cầu với xu
hướng đa phương hố và quốc tế hố. Cùng với cơng cuộc xây dựng đất nước
theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã và đang
hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên nhiều phương diện và bằng nhiều con
đường khác nhau, trong đó xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế là một con
đường thiết yếu, đem lại nguồn ngoại tệ chủ lực cho việc nhập khẩu và phát triển
nền kinh tế nước nhà.
Trong mười năm trở lại đây, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tăng trưởng
mạnh, liên tục đạt tốc độ tăng trưởng bình quân từ 15%-18%/ năm, trở thành một
trong ba ngành hàng thu về nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Nếu năm 1991 thu
được 278,8 triệu USD thì năm 2000 lên 1,4 tỉ USD, tăng gấp 5 lần năm 1991, và
năm 2001 đạt 1,75 tỉ USD, tăng gấp 6,3 lần năm 1991. Năm 2001, hàng thuỷ sản
của Việt Nam đã có mặt trên 60 nước, được FAQ xếp vị trí thứ 18 về sản lượng
thuỷ sản, thứ 26 về XK thuỷ sản. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tiễn xuất khẩu
thuỷ sản trên thế giới hiện nay và những bài học kinh nghiệm sàng lọc được trong
thời gian qua thì việc khẳng định vị trí của ngành thuỷ sản Việt Nam trên trường
quốc tế là việc không hề đơn giản. Ngoài những mặt hạn chế về vốn, về cơ sở hạ
tầng, về công nghệ, nguồn lực… trong nước, vấn đề sống còn đặt ra cho ngành
thuỷ sản Việt Nam là thị trường, chất lượng sản phẩm và tiêu chuẩn vệ sinh cơng
nghiệp. Mỗi thị trường xuất đó tuy có những tương đồng về chất lượng sản phẩm,
vệ sinh cơng nghiệp nhưng lại có những nét đặc thù riêng, đòi hỏi các nhà xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam phải đi sâu nghiên cứu và tìm ra một hướng đi thích hợp.
Bên cạnh việc thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường


tiềm năng, ngành thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam phải không ngừng củng cố và gia
tăng mối quan hệ làm ăn với các thị trường nhập khẩu thuỷ sản truyền thống, mà
tiêu biểu là thị trường Nhật Bản. Với những đặc điểm về kinh tế, về văn hoá tiêu
dùng và thực trạng nhập khẩu thuỷ sản trên thế giới, Nhật Bản hiện là một trong
những bạn hàng lớn nhất và quan trọng nhất của nước ta. Việc đi sâu nghiên cứu

2


thị trường Nhật Bản để thâm nhập và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu
hiện là một nhu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam.
Trong giới hạn của đề án, em xin nêu ra thực tiễn của hoạt động xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản, giải pháp thâm nhập và đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu vào thị trường này.

3


LÍ LUẬN CHUNG
1. Đặc điểm về thị trường thuỷ sản Việt Nam và thị trường Nhật
Bản
1.1. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ven biển ở Đông Nam Á. Trong suốt sự nghiệp hình
thành, bảo vệ và xây dựng đất nước, biển đã, đang và sẽ đóng vai trị hết sức to
lớn. Chính vì vậy, phát triển, khai thác hợp lí một cách bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên đồng thời với bảo vệ môi trường biển đã trở thành mục tiêu
chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cùng với việc khai thác các nguồn lợi cá và hải sản biển, Việt Nam cịn có
một tiềm năng phong phú về các nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt và nước lợ, cùng

với những điều kiện tự nhiên thuận lợi để đẩy mạnh nuôi trồng các đối tượng
thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước biển, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời
sông dân cư.

1.1.1. Tiềm năng khai thác hải sản
a. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam có 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ
8023’ bắc đến 21039’ bắc. Diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải của Việt Nam rộng
226.000 km 2 và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện
tích đất liền.
Vùng biển Việt Nam có trên 4.000 hịn đảo lớn, nhỏ, có nhiều vịnh, vùng,
đầm, phá, cửa sông và trên 400.000 ha rừng ngập mặn, là những khu vực đày
tiềm năng cho phát triển giao thông, du lịch, đồng thời cũng rất thuận lợi cho phát
triển nuôi, trồng thuỷ sản và tạo nơi trú đậu cho tàu thuyền đánh cá.
Về mặt kỉ thuật trong lĩnh vực khai thác hải sản, người ta thường chia vùng
biển nước ta thành 3 vùng nhỏ, đó là vùng biển Bắc Bộ, vùng biển miền Trung và

4


vùng Đông – Tây Nam Bộ. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng mà
mỗi vùng biển có những nét đặc thù khác nhau qui định chủng loại và trữ lượng
khai thác khác nhau.
b. Đặc điểm nguồn lợi hải sản
Biển Việt Nam có trên 2.000 lồi cá, trong đó khoảng 130 lồi cá có giá trị
kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong tồn vùng biển là
4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm
850.000 cá đáy, 700.000 tấn cá nổi nhỏ, 120.000 tấn cá nổi đại dương.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác,
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị kinh tế cao là tôm

biển, tôm hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm,
trong đó có y nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc(cho phép khai thác 60 70 nghìn tấn/ năm)…Bên cạnh đó cịn rất nhiều lồi đặc sản q như bào ngư, đồi
mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai…
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta có
thành phần lồi đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Phân
bố trữ lượng và khả năng khai thác cá đáy tập trung chủ yếu ở vùng bờ biển có độ
sâu dưới 50 m(56,2%), tiếp đó là vùng sâu từ 51- 100 m (23,4%). Theo số liệu
thống kê, khả năng cho phép khai thác cá biển Việt Nam bao gồm cả cá nổi và cá
đáy ở khu vực gần bờ có thể duy trì ở mức 600.000 tấn. Theo vùng và theo độ
sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Đông Nam Bộ cho khả năng khai
thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác cả nước, tiếp đó là
Vịnh Bắc Bộ (16,0%), miền Trung (14,3%), Tây Nam Bộ (11,9%), các gò nổi
(0,15%), cá nổi đại dương (7,1%)
c . Lao động đánh bắt hải sản
Đến năm 1997, tồn ngành thuỷ sản có 423.583 lao động đánh bắt hải sản,
trong đó hoạt động gần bờ 309.171 người, hoạt động xa bờ 114.412 người.
Ngành thuỷ sản đang tích cực nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ lao động

5


nghề cá để họ tiến kịp với sự phát triển về ứng dụng khoa học, công nghệ và
trang bị cua đội tàu xa bờ.

1.1.2. Tiềm năng phát triển và nuôi trồng thuỷ sản
a. Điều kiện tự nhiên
Với 3260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông, hàng ngàn
đảo lớn, nhỏ, cộng với một hệ thống sơng ngịi chằng chịt. Việt Nam được đánh
giá là một trong những quốc gia có tiềm năng mặt nước cho nuôi trồng thuỷ sản
vào loại lớn nhất thế giới với khoảng 1.700.000 ha mặt nước có khả năng ni

trồng, trong đó riêng vùng triều là 660.000 ha, ruộng 580.000 ha, hồ chứa và mặt
nước lớn 340.000 ha…
b. Nguồn lợi giống lồi thuỷ sản
Chế độ khí hậu và các điều kiện tự nhiên đa dạng là một điều kiện tương đối
thuận lợi để phát triển nuôi trồng thuỷ sản đa dạng, nhiều loại hình.Thống kê của
các nhà nghiên cứu biển cho thấy, Việt Nam có tới 544 lồi cá nước ngọt, 186
lồi cá nước lợ và nước mặn, 16 lồi tơm, 90 lồi rong to và nhiều loại nhuyễn
thể có giá trị kinh tế cao và có khả năng đưa vào nuôi trồng nhân tạo…
c. Nguồn lực lao động
Với trên 4 triệu dân sống ở vùng triều và khoảng 1 triệu người dân sống ở
đầm phá tuyến đảo của 714 xã, phường thuộc 28 tỉnh, thành phố có biển và hàng
chục triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra lực lượng lao động nuôi trồng thuỷ
sản đáng kể chiếm tỉ trọng quan trọng trong sản xuất nghề cá, chưa kể 1 bộ phận
khá đông ngư dân làm nghề đánh cá nhưng không đủ phương tiện để hành nghề
khai thác cũng chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản và lực lượng lao động vừa sản
xuất nông nghiệp, vừa nuôi trồng thuỷ sản, đa phần đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm vê thuỷ hải sản và nghề ni trồng.
Bảng 1: Tình hình sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam năm 1998
Chỉ tiêu

So với kế hoạch (%) Tăng so với năm trước(%)

Tổng

6


Tổng sản lượng(tấn)

1.668.530 105,93


5,04

Khai thác Thuỷ Sản(tấn)

1.130.660 10,72

4,82

Nuôi trồng Thuỷ Sản(tấn) 537.870

100,54

5,5

Xuất Khẩu(triệu USD)

101,01

10,58

858,6

Theo số liệu trong năm 98 của Bộ thuỷ sản, số thị trường xuất thuỷ sản đã tăng
lên 50 thị trường. Xuất khẩu sang EU và Mỹ tăng mạnh. Mỹ tăng 115,31% , EU
tăng 80,42%.
Với những dặc điểm trên, Việt Nam đã và đang có những thuận lợi về nhiều
mặt trong việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Chính vì vậy chúng ta có tiềm
năng to lớn trong việc sản xuất, chế biến xuất khẩu thuỷ hải sản sang thị trường
nước ngoài. Trong mười năm trở lại đây, XK thuỷ sản Việt Nam tăng trưởng

mạnh, liên tục và đạt bình quân 15-18%/năm, là một trong ba ngành hàng mang
lại nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Nếu năm 1991 thu được 278.8 triệu USD thì
năm 2000 lên 1,4 tỉ USD (tăng gấp 5 lần), năm 2001 đạt 1,75 tỉ USD, tăng gấp
6,3 lần năm 1991. Hàng thuỷ sản của Việt Nam đã có mặt trên 60 nước, được
FAQ xếp vị trí 18 về sản lượng thuỷ sản. thứ 26 về XK thuỷ sản.

1.2. Đặc điểm thị trường Nhật Bản
Là một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới, với qui mô GDP hàng năm
là 6900 USD/người, Nhật Bản hiện là một trong những thị trường nhập khẩu
hàng hoá hấp dẫn và lớn hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, việc thâm nhập vào thị
trường này không hề dễ dàng. Độ mở cửa của Nhật Bản thấp, chỉ số XNK/GDP
xấp xỉ 20%. Như vậy, khả năng thâm nhập của hàng ngoại vào thị trường Nhật
Bản là tương đối khó. Thơng qua việc cho vay và các chính sách hỗ trợ làm cơ sở
cho các dự án đầu tư và hợp tác với các quốc gia khác, Nhật Bản có vị trí cao
nhất về kinh tế và chính trị trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và vị thế cao
trên trường Quốc tế.
a. Nhật Bản – thị trường nhập khẩu hải sản hấp dẫn
Dù Nhật Bản là một trong những nước sản xuất hải sản hàng đầu thế giới ,
song vẫn phải lệ thuộc khoảng 33% mỗi năm vào hải sản nhập khẩu (NK). Có

7


nhiều yếu tố đưa đến sự lệ thuộc này: sản xuất nội địa sụt giảm và không đủ cung
cấp cho thị trường trong nước; những ưu điểm của của hải sản NK so với hải sản
trong nước như nguồn cung ứng ổn định và phẩm chất thuần nhất; phù hợp với
các dây chuyền siêu thị và các công ty chế biến hải sản vì họ mua số lượng lớn
hải sản, hải sản NK không đắt bằng hải sản trong nước… Các nhà phân phối
hàng chính của Nhật ngày càng nhập nhiều nguyên liệu từ nước ngoài, số nước
XK gia tăng đang tích cực đẩy mạnh việc mua bán hải sản ở Nhật. Qui mô hàng

hàng hải sản ở Nhật được ước tính khoảng 3 ngàn tỉ yên. Theo báo cáo của uỷ
ban dinh dưỡng quốc gia, Bộ y tế và phúc lợi Nhật, lượng tiêu thụ đạm trong
khẩu phần ăn của ngươi Nhật duy trì sự ổn định trong một thời gian dài. Lượng
đạm tiêu thụ tính theo đầu người mỗi ngày dừng ở mức 79,7 g, trong đó khoảng
45% được cung cấp bởi hải sản (19 g). Về các loại cá , cá ngừ tươi, cá hồi và cá
ngừ đốm chiếm 8,9 g lượng đạm hàng ngày; mực, bạch tuộc, cua chiếm 3,2 g.
Nhu cầu về hải sản luôn được ưa chuộng vì chúng vừa khơng chứa các loại mỡ
có hại, vừa giúp ngăn ngừa nhiều chứng bệnh ảnh hưởng đến con người mai sau.
Ngồi ra, hải sản cịn được đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng và đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng (bao gồm sự quan tâm đến sức khoẻ, an
toàn thực phẩm và độ tươi của thực phẩm. Kết qua một cuộc khảo sát nhằm đánh
giá thái độ của người tiêu dùng giữa cá và thịt cho thấy cá được chuộng hơn thịt
vì 4 lí do sau đây: tốt cho sức khoẻ, giàu chất dinh dưỡng như DHA và EDA,
mùa nào có cá đó và đa dạng chủng loại. Đặc biệt, hải sản còn được chế biến theo
nhiều cách khác nhau khiến việc nấu nướng hàng ngày trở thành niềm vui. Đó là
lí do tại sao hải sản ln giữ vai trò quan trọng trong khẩu phần ăn của người
Nhật.
Bảng 2 : Thị phần nhập khẩu tôm của Nhật Bản (đơn vị : Tấn)

Tôm

1996

1997

1998

1999

2000


SL trong nước

31.996

30.367

28.436

28.307

28.589

8


Nhập khẩu

304.300

281.389

251.031

259.062

259.565

Tổng cộng


336.296

331.453

279.063

287.369

288.104

90,3%

89,8%

90,1%

90,1%

Thị phần nhập khẩu 90,5%

Nguồn: Viện ngiên cứu hải sản
Làm trịn số : trung tâm thơng tin KHKT và Kinh tế thuỷ sản

b. Chữ tín đi đầu trong kinh doanh
Theo nhận định chung của nhiều chuyên gia kinh tế, Nhật Bản là một thị
trường đặc biệt “khó tính”, nhưng khi đã gây được lòng tin với khách hàng thì rất
thuận lợi trong kinh doanh. Nhìn chung, người Nhật Bản trọng uy tín, sự trung
thực và thường theo đuổi kế hoạch làm ăn lâu dài. DN XK cần đảm bảo thời gian
giao hàng đúng thời điểm, đồng thời duy trì chất lượng sản phẩm ổn định. Bởi,
nếu DN Nhật phát hiện ra đối tác nào đang lừa dối họ thì mọi sự hợp tác làm ăn

sẽ chấm dứt ngay. Các DN nên theo sát diễn biến tình hình thị trường, thị hiếu,
sức mua của người tiêu dùng để kịp thời cải tiến sản phẩmcho phù hợp. Khi lơ
hàng có sai sóthay hư hỏng bị phía đối tác khiếu nại, nhà XK nên thành thật nhận
sai sót và thậm chí chịu bồi thường thiệt hại để tạo sự tin cậy của khách hàng. Có
như vậy mới tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài.
c. Hàng nhập khẩu phải đạt tiêu chuẩn chất lượng
Thị trường Nhật tiêu thụ hàng hoá từ rất nhiều nguồn. Do đó tính độc đáo và
chất lượng là những yếu tố mang tính quyết định. Chính vì thế hnàg hố XK sang
Nhật phải thể hiện được những đặc trưng khác so với những sản phẩm cùng loại,
có mẫu mã bao bì, độc đáo, hay sử dụng những ngun liệu mới; nếu khơng thì
phải cạnh tranh bằng giá cả. Tại thị trường Nhật Bản, trước khi mua hàng, người
tiêu dùng thường muốn biết rõ những chi tiết về hàng hố chứ khơng chỉ gọi tên
chung chung. Thật ra, thị trường Nhật có nhu cầu rất lớn về sản phẩm giá rẻ chứ
không đơn thuần là các sản phẩm cao cấp, song các sản phẩm giá rẻ đó vẫn phải
nằm trong chuẩn mực tiêu chuẩn chất lượng. Có thể khẳng định, thị trường Nhật

9


rất chuộng các sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá nhưng điểm khác
biệt ở đây là là phải đạt theo tiêu chuẩn Nhật. Cũng như Mỹ và EU, hệ thống tiêu
chuẩn hàng hố ở Nhật địi hỏi rất cao. Các tiêu chuẩn này được các cơ quan
Nhật chuẩn hoá bằng những chứng nhận chất lượng nên DN nào muốn vào thị
trường Nhật dễ dàng cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn trên. Cụ thể ở đây là DN
cần xin dấu chứng nhận chất lượng JIS áp dụng cho hàng nông sản, thực phẩm,
hàng công nghiệp, dấu Ecomark áp dụng cho các tiêu chuẩn về mơi
trường…Ngồi ra, người Nhật rất quan tâm đến Luật trách nhiệm sản phẩm. Luật
này qui định trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường do liên quan đến các sản phẩm
có khuyết tật gây ra thương tích cho người sử dụng hay gây thiệt hại về của cải.
Luật vệ sinh về thực phẩm thì qui định cho tất cả các đồ uống tiêu dùng trên thị

trường Nhật, các loại hàng hoá, sản phẩm này khi đưa vào tiêu dùng trên thị
trường Nhật phải có giấy phép của Bộ y tế và phúc lợi Nhật.
d. Mạng lưới phân phối phức tạp
Hệ thống các kênh phân phối của Nhật Bản là một hệ thống cực kì phức tạp ,
mang đậm dấu ấn văn hoá, xã hội Nhật. Hệ thống kênh phân phối này bắt đầu từ
nhà sản xuất đến nhà bán buôn chuyên nghiệp, đến nhà bán buôn cấp hai, đến nhà
bán buôn khu vực, đến nhà bán lẻ, cuối cùng đến người tiêu dùng. Dưới những
nhà bán bn chun nghiệp (speciality seller) cịn có các cửa hàng tự phục vụ.
Đây là hệ thống được xây dựng trên nền tảng xã hội Nhật Bản thể hiện sự liên kết
giữa các thành viên trong kênh và là một chức năng xã hội quan trọng mang lại
lợi ích cho người Nhật. Sự phức tạp của kênh phân phối là do giữa người sản
xuất, trung gian và người tiêu dùng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong phân
phối hàng hố, người Nhật ln có tiêu chí “just in time”, có nghĩa là: giao đúng
mặt hàng, đúng chất lượng, đúng thời điểm. Chính vì vậy, hệ thống phân phối
của Nhật Bản phục vụ rất tốt cho khách hàng, và mặc dù phức tạp hơn hệ thống
phân phối của Tây Âu nhưng lại đồng bộ hơn. Tuy nhiên, theo thống kê sơ bộ do
hàng hoá khi đến tay người tiêu dùng phải trải qua nhiều khâu lưu thông và phân
phối nên đã làm cho giá cả tăng lên đáng kể, bao gồm 3 loại. Một là từ nhà NK

10


đến nhà bán buôn, người bán lẻ và người tiêu dùng. Giá bán lẻ thường cao gấp 3
hay 4 lần. Thứ hai là từ người NK đến người bán lẻ và người tiêu dùng (siêu thị,
cửa hàng bách hoá…). Giá bán lẻ thường gấp 2-2,5 lần giá FOB. Thứ là từ người
Nk đến người tiêu dùng (đặt hàng qua thư) và giá bán lẻ có thể gấp đơi giá FOB.
Vì thế DN cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất, đồng thời
cần đưa hàng hoá vào các mạng lưới lưu thông và phân phối của thị trường Nhật
mới dễ được tiêu thụ. Hiện nay trên thị trường Nhật Bản, phần lớn hải sản NK bỏ
qua các chợ sỉ. Ngày càng có nhiều trường hợp các nhà chế biến thực phẩm buôn

bán sỉ, lẻ thực phẩm và các nhà hàng nhập hàng trực tiếp nhằm rút ngắn q trình
phân phối. Bên cạnh đó, tận dụng cuộc cách mạng công nghệ thông tin, một số
nhà bán lẻ đang cung cấp thông tin về các loại hải sản qua hệ thống máy vi tính.
Ngồi ra, các nhà bán lẻ địa phương đang bán đặc sản của họ khắp nước nhờ
internet. Một số nhà bán lẻ cá sống có qui mô nhỏ hơn không địch lại các siêu thị
lớn về số lượng và chủng loại thì lại chuyển qua cung cấp theo từng ‘gu’ của
khách hàng. Khi có một loại hải sản một khách hàng nào đó ưa thích, những
người bán lẻ này sẽ điện thoại thông báo cho khách hàng và chuyển đến tận nơi
nếu khách hàng đặt mua. DN Việt Nam XK thuỷ sản sang Nhật cần lưu y những
thông tin này để thiết lập một mạng lưới kinh doanh, phân phối có hiệu quả cao
tại Nhật.
e. Cẩn thận trong việc chọn đối tác
Về thanh tốn, có hai hình thức thanh tốn thơng dụng ở thị trường Nhật Bản,
đó là thanh tốn bằng chuyển tiền (TTR) và thanh tốn qua thư tín dụng (L/C).
Với hai hình thức này, các DN Nhật Bản có thể kiểm tra kĩ lưỡng số hàng được
giao về số lượng, chất lượng yêu cầu, độ đồng đều về hàng hố trước khi có
quyết định thanh tốn. Lơ hàng đầu tiên, các DN Nhật Bản thường đặt với số
lượng nhỏ để thăm dò khả năng hợp tác, kinh doanh với đối tác. Khi soạn thảo
hợp đồng, họ thường trả giá rất chi li. Kinh nghiệm của các DN đi trước cho thấy,
khi chào hàng, bên chào hàng chỉ nên đưa ra một vài mặt hàng chủ chốt, độc đáo,

11


dễ nhớ, dễ gây ấn tượng nhất. Tóm lại, xây dựng quan hệ làm ăn với Nhật Bản
cần phải bài bản, kiên trì và tạo uy tín.
f. Qui dịnh nhập khẩu chặt chẽ
Cũng như các quốc gia khác, Nhật Bản duy trì chế độ kiểm tra hải quan đối
với hàng NK. Tuy nhiên, đối với hàng thuỷ sản, trước khi làm thủ tục hải quan,
các mặt hàng này phải được kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh thực phẩm. Tuỳ thuộc

vào việc thuỷ sản XK có đạt yêu cầu về kiểm dịch và về vệ sinh thực phẩm hay
không mà DN có thể được làm thủ tục hải quan tiếp tục hay phải dừng lại (xuất
trả lại người gửi, huỷ đi, tái chế cho đến khi đạt yêu cầu…). Các mặt hàng thuỷ
sản NK để tham dự hội chợ thì tuỳ vào số lượng và chủng loại sản phẩm, cơ quan
hải quan có thể yêu cầu người NK chứng minh là hàng hố ấy chỉ dùng để trưng
bày mà thơi (và khơng được phát miễn phí tại hội chợ). Nếu DN dự tính là sẽ
phát miễn phí cho khách hàng tham dự triển lãm thì cần phải tuân thủ qui trình
NK thuỷ sản theo Luật vệ sinh thực phẩm đã nói ở trên.
Đây chỉ là một số nét phác thảo về đặc điểm tiêu dùng và NK thuỷ sản của thị
trường Nhật Bản. Các DN thuỷ sản Việt Nam nếu muốn thâm nhập vào thị
trường này cần phải nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn nữa thì mới có thể thành công.

2.Thực tiễn hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản.
2.1. Tình hình thực tiễn của thuỷ sản Việt Nam năm 2004
Đầu năm 2004, ngành thuỷ sản về cơ bản vẫn tăng trưởng so với cùng kì
2003 trên các chỉ tiêu về ni trồng, khai thác, chế biến và XK. Tuy vậy, tốc độ
tăng trưởng đã chậm lại so với những năm trước đây. Trong 6 tháng đầu năm
2004, giá trị kim ngạch XK ước đạt 972 triệu USD, bằng 37,38% so với cùng kì
2003. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 1.262.465 tấn, bằng 47,64% so với kế
hoạch và tăng 2,27% so với cùng kì năm 2003. Sản lượng khai thác đạt 750.280
tấn, bằng 51,74% so với kế hoạch và nuôi trồng đạt 512.185 tấn, bằng 42,68% so
với kế hoạch, tăng tương ứng 0,45% và 5,06% so với cùng kì 2003.

12


a. Về khai thác bảo vệ nguồn lợi
Số lượng tàu đánh cá khai thác ở các vùng nước xa bờ tiếp tục tăng, trong đó
một số phát huy được hiệu quả, đặc biệt ở các tỉnh phía nam với nghề lưới kéo,

nghề câu cá ngừ đại dương, nghề vây, nghề lưới rê. Các tháng đầu năm được mùa
nhưng sản lượng mực, bạch tuộc lại giảm đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bức
xúc trong lĩnh vực khai thác hải sản liên quan đến an toàn đi biển và xây dựng,
triển khai thực hiện các qui định về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là các
vùng biển ven bờ. Hiểu biết về nguồn lợi hải sản chưa đủ cơ sở để hướng dẫn tổ
chức khai thác xa bờ cho ngư dân. Giá trị XK làm ra từ sản phẩm khai thác cịn
q thấp do mất mùa một số lồi cá kinh tế trong 6 tháng đầu năm và thực trạng
manh mún của nghề cá ngừ đại dương.
b. Về nuôi trồng thuỷ sản
Trong 6 tháng đầu năm, diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản đạt
35.300 ha, bằng 70,6% kế hoạch năm, đưa diện tích ni thuỷ sản của cả nước
lên 1.050.300 ha, bằng 98,6% kế hoạch năm. Trên phạm vi cả nước, việc giải
quyết nguồn tôm bố mẹ năm nay thuận lợi hơn 2003, về cơ bản đáp ứng nhu cầu
ni tơm giống. Tuy nhiên, việc quản lí vùng ni trồng thuỷ sản vẫn cịn yếu
kém. Tình trạng tự phát, thiếu tổ chức thực hiện qui hoạch khá phổ biến. Giải
quyết thuỷ lợi chưa theo kịp với mở rộng diện tích. Tại một số vùng ni tập
trung dịch bệnh phát sinh lan rộng với tốc độ khá nhanh có thể do yếu tố mơi
trường nước.
c. Về chế biến thuỷ sản
Về nguyên liệu chế biến, tôm vẫn là nguyên liệu chủ yếu. Nguồn nguyên liệu
từ 6 tháng đầu năm nuôi trồng đạt thấp. Giá tôm nguyên liệu lúc khan hiếm quá
cao, trong thời gian từ 6 tháng đầu năm đến nay, khi nguyên liệu dồi dào thì lại
giảm trầm trọng ảnh hưởng tới lợi ích người ni. Việc quản lí chất lượng
nguyên liệu chưa tốt, trang thiết bị kiểm nghiệm và năng lực phân tích chất lượng
nguyên liệu thiếu và yếu. Việc bơm tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản gây ra

13


giảm sút chất lượng và uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam, song việc xử lí chưa triệt

để.
d. Về năng lực chế biến
Các DN chế biến thuỷ sản tiếp tục đầu tư đổi mới cơng nghệ, thiết bị. Tuy
nhiên, tình trạng tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở chế biến trong khi chưa có qui
hoạch hoặc có qui hoạch song chưa kĩ.
e. Về thị trường và giá XK
Do ảnh hưởng vụ kiện phá giá tôm của Mỹ, giá trị kim ngạch XK vào Mỹ quí
I/2004 giảm 16,5% so với cùng kì. Thị trường Nhật Bản có khả quan hơn, giá trị
kim ngạch XK vào Nhật tăng 32,5%, đưa tỉ trọng XK sang Nhật lên 26,2%. Tuy
nhiên, việc XK sang Nhật đang tiềm ẩn khó khăn do địi hỏi truy xuất nguồn gốc
và cạnh tranh từ các nguồn cung cấp khác. 6 tháng đầu năm giá trị XK vào EU
tăng 36,8%, đưa tỉ trọng XK vào thị trường này đạt 7,8% (tăng 1,9% so với cùng
kì). Trong khi đó, khối lượng XK vào các thị trường khác giảm mạnh như Trung
Quốc(-51%), Đài Loan-(14,4%), Hàn Quốc (-11,15%). Nhìn chung, giá bình
quân XK thuỷ sản các tháng đầu năm thấp so với cùng kì năm ngối. Vì thế, các
nhà NK tìm cách ép giá tôm của ta, chờ vào vụ để ép giá thấp hơn nữa. Thị
trường nội địa tăng lên rõ rệt trong những tháng đầu năm với giá cả được cảỉ
thiện nhiều.
Tuy tốc độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm không cao như từ năm 2003 về
trước nhưng giá trị XK và các chỉ tiêu kinh tế xã hội cơ bản của ngành vẫn tiếp
tục tăng. Sự gia tăng giá trị kim ngạch XK thuỷ sản gắn liền với việc thực hiện
cơng nghiệp hố, hiện đại hố và chuyển dịch cơ cấu trong nơng nghiệp, nơng
thơn. Để hồn thành các chỉ tiêu kế hoạch 2004, nhất là chỉ tiêu kim ngạch XK
thuỷ sản, ngành thuỷ sản phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong quản lí và
trong sản xuất.

2.2.Thực tiễn xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản trong những năm qua

14



Là một trong 7 thị trường XK thuỷ sản chính, gồm có: Mỹ, EU, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc và Hồng Kơng, Asean, Đài Loan, Nhật Bản có thể coi là
một bạn hàng truyền thống của Việt Nam. Bên cạnh mặt hàng thuỷ sản, Nhật Bản
còn NK các mặt hàng khác như dầu thô, cà fê, giày dép, đồ thủ công mỹ
nghệ…Tuy nhiên, khối lượng hàng XK của ta mới chiếm một tỉ trọng rất nhỏ so
với nhu cầu của thị trường này. Năm 2002, thị phần XK thuỷ sản Việt Nam vào
thị trường Nhật Bản chiếm 4,15%, trong đó con tôm là mặt hàng được ưa chuộng
nhất, chiếm 16,68% thị phần, đứng thứ hai sau Indonesia.Sở dĩ hàng XK của ta
vào thị trường Nhật Bản chiếm tỉ trọng nhỏ phần lớn là do các DN XK chưa tìm
kĩ thị hiếu người tiêu dùng Nhật Bản, chưa nắm rõ những luật lệ cũng như các
tiêu chuẩn của thị trường, nhất là chưa đưa được hàng hoá vào hệ thống phân
phối ở thị trường Nhật Bản. Hơn nữa, đến nay, hai nước còn chưa đạt được thoả
thuận về việc dành cho nhau qui chế MFN trong buôn bán. Tuy Nhật Bản đã
dành cho Việt Nam qui chế ưu đãi GSP nhưng những mặt hàng có lợi cho Việt
Nam chưa nhiều.
Mặc dù đất nước Nhật có biển bao bọc, trữ lượng ni trồng, khai thác rất
lớn nhưng hàng năm xứ sở hoa anh đào cũng phải NK khoảng 13 tỉ USD các sản
phẩm thuỷ sản mới đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng của hơn 125 triệu dân
trong nước. Mỗi năm, Nhật Bản NK trên 55% thuỷ sản từ các nước Châu Á,
trong đó Trung Quốc là nước đứng đầu về cung cấp thuỷ hải sản cho Nhật, với
thị phần năm 2002 là 17,99%, tiếp đến là Thái Lan với 7,83%, Việt Nam chỉ
chiếm 4,15%. Ngồi ra Nhật Bản cịn nhập 9,92% thuỷ sản từ Mỹ và các nước
SNG 6,77%.
Với quan niệm: “giàu thì ăn tơm, nghèo thì ăn cá, ăn ghẹ”, người Nhật rất
thích ăn các loại hải sản tươi sống, trong đó tơm là mặt hàng dược tiêu thụ rất
mạnh. Hàng năm, Nhật Bản đánh bắt được 7.000 tấn tơm các loại, nhưng vẫn cịn
thiếu nhiều. Vì thế, Nhật phải NK khoảng 90% lượng tôm hùm để thoả mãn được
nhu cầu trong nước. Tỷ lệ này tính trên lượng tơm bóc bỏ đầu, nếu tính số lượng

số lượng nhập ngun con thì thị phần này có thể lên đến 98%. Tại Nhật Bản,

15


mỗi năm tiêu thụ khoảng 300- 400 nghìn tấn tơm sú và tôm hùm cả khai thác
trong nước và NK. Tôm hùm đen chiếm phần lớn trong sản lượng tôm NK.
Trong số này phần lớn được dùng phục vụ cho các qn ăn và tại các gia đình, số
nhỏ cịn lại dùng trong cơng nghệ chế biến mì ăn liền. Trước đây, 70-80% tôm
các loại dùng cho các cửa hàng bán thức ăn, nhưng do ngày càng phát triển hình
thức phân phối đến tận nhà nên tỉ lệ này hiện nay là 50/50. Tuy nhiên, tại các nhà
hàng ăn uống thường sử dụng các loại tôm hùm to và tôm hồng cỡ vừa, các gia
đình lại hay mua tơm sú đơng lạnh và tơm hồng cỡ nhỏ. Cịn đối với các nhà chế
biến thực phẩm thì thích dùng các loại tơm sú nhỏ hơn. Người dân địa phương
thích dùng tơm vào các dịp lễ hội như tuần lễ vàng, lễ hội mùa hè và mừng năm
mới. Do đó vào những ngày này thị trường tại đây thường xảy ra tình trạng khan
hiếm và giá tôm tăng lên rất cao. Tại khu vực Osaka- tokyo người dân thường
dùng tôm như là thức ăn chính trong bữa cơm hàng ngày và dùng nhiều tôm
quanh năm hơn so với các vùng khác của Nhật. Năm 2002, Nhật Bản NK
248.900 tấn tôm. Con tôm Việt Nam đến thị trường này ngày càng tăng. Việt
Nam đã vượt qua Ấn Độ để thành nước cung cấp tôm lớn thứ hai cho thị trường
Nhật Bản (chỉ sau Indonesia). Người dân Nhật cũng thích cá khơng kém gì tôm.
Tuy nhiên, họ chỉ nhập một vài loại cá mà tại thị trường nội địa không đủ để cung
ứng cho người tiêu dùng. Cũng do một điều khá tế nhị là ăn tôm tuy ngon nhưng
lại khá đắt tiền, cho nên nhiều người dùng cá vừa bổ, vừa phù hợp với kinh tế của
gia đình. Trong năm 2002, Việt Nam đã XK vào thị trường Nhật Bản 1.537 tấn
cá ngừ. Các loại cá ngừ của Việt Nam chỉ chiếm một lệ rất nhỏ trong tổng lượng
cá ngừ NK của Nhật Bản nhưng vẫn còn rất nhiều khả năng để tăng XK vào Nhật
trong những năm tới. Cũng trong năm 2002, Nhật Bản đã NK từ Việt Nam tổng
cộng 13.122 tấn mực và bạch tuộc đông lạnh, với trị giá 6,55 tỉ yên, tăng 7,94%

về lượng và tăng 8,32% về trị giá so với năm 2001. Mực nang XK của Việt Nam
đã giành được vị trí thứ hai tại thị trường Nhật, sau Thái Lan với tỉ trọng chiếm
15,37% trong tổng lượng NK của Nhật Bản. Nhật cũng NK khoảng 8.000 tấn ghẹ

16


đông lạnh mỗi năm. đến nay, tuy Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc nhưng
khoảng cách còn rất lớn.
Biểu đồ 1 : Tỷ trọng thị trường xuất khẩu thuỷ sản (theo giá trị) 1998-2001
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0

Nhat Ban
My
TQ & HK
ASEAN
Cac nuoc khac
1998

1999


2000

2001

Cơ cấu thị trường có sự thay đổi lớn từ năm 1998 đến năm 2001. Thị trường
Nhật tuy vẫn tăng về giá trị nhưng về tỉ trọng đã giảm dần, từ 42,3% năm 1998
xuống còn 26,14% năm 2001, và từ tháng 8-2001 đã xuống vị trí thứ hai sau Mỹ.
Bên cạnh đó, thị trường Trung Quốc và Hồng Kơng cũng đã vươn lên chiếm vị trí
thứ ba trong cơ cấu thị trường thuỷ sản Việt Nam.
Năm 2003, sản lượng tôm của Việt Nam xuất sang Nhật Bản đã đạt 47.626
tấn, tăng 14,7% so với năm 2002, chiếm tới hơn 60% trong tổng kim ngạch XK
thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh mặt hàng tôm, Nhật Bản
đang là thị trường tiêu thụ mực và bạch tuộc lớn của Việt Nam, chiếm 37% tổng
giá trị XK mặt hàng này của Việt Nam. Thêm vào đó, thị trường này cũng rất ưa
chuộng và đang tăng cường NK sản phẩm tôm Nobashi PTO. Thành quả trên có
được là do có sự giúp đỡ của chính phủ và nhiều nhà DN Nhật Bản. Chính phủ
Nhật Bản đã viện trợ qua các dự án như cảng cá Cát Lở, dự án đánh giá nguồn lợi
ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dự án xây dựng Trung
tâm nghiên cứu và phát triển nuôi biển Nha Trang và những dự án hiện đang
được nghiên cứu. Năm 2003, để tăng lượng hàng thuỷ sản XK sang Nhật Bản,
một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà XK thuỷ sản Việt Nam là

17


đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ vững và củng cố uy tín khi XK sang thị
trường này.
Năm 2004, thống kê chính thức của hải quan cho thấy, so với cùng kì năm
ngối, giá trị XK thuỷ sản chính ngạch tháng 7 của cả nước đạt 234,708 triệu
USD, tăng 1,1%, nâng tổng kim ngạch 7 tháng đầu năm lên 1,214 tỉ USD, tăng

2,1%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của việc Bộ thương mại Mỹ áp đặt mức thuế cao
trong vụ kiện bán phá giá tôm đã làm giảm kim ngạch XK mặt hàng này sang
Mỹ, xuống con 202,374 triệu USD, giảm 23% so với cùng kì. Trong 7 thị trường
XK chính của Vịêt Nam thì có 5 thị trường có giá trị sản lượng tăng đáng kể, đặc
biệt là EU.
Vasep (Hiệp hội chế biến và XK thuỷ sản Việt Nam) cho biết, XK thuỷ sản
sang EU đã tăng 84% so với cùng kì năm ngối, đạt 123,778 triệu USD.Kim
ngạch vào thị trường này dự kiến còn tăng trong những tháng cuối năm do EU đã
chính thức cơng nhận thêm 53 DN Việt Nam được phép XK thuỷ sản vào thị
trường này, nâng tổng số DN được cấp phép lên 153 DN. Mới đây, Hàn Quốc đã
chấp nhận thêm 25 DN Việt Nam đủ tiêu chuẩn XK. Như vậy, tổng số đơn vị
được cấp phép XK vào Hàn Quốc là 222 DN. XK thuỷ sản sang Hàn Quốc 7
tháng đầu năm tăng 31,5% so với cùng kì năm ngối, đạt 76,920 triệu USD. Một
số thị trường khác cũng có tốc độ tăng trưởng khá là ASEAN tăng78%, Nhật Bản
tăng 28,3%, Đài Loan tăng 35,6% so với cùng kì năm ngối. Riêng thị trường
Trung Quốc và Hồng Kơng lại giảm 20,4% so với cùng kì. Tính đến nay, tổng số
DN Việt Nam được phép XK vào Trung Quốc đã lên tới 222, và 61 DN được
tạm cấp mã số trong vòng một năm. Trong số các mặt hàng XK chủ lực, mực và
bạch tuộc tăng cao nhất, gần 30%, đạt 82,408 triệu USD. Đây là tín hiệu khả
quan vì vài năm trước mặt hàng này bị mất mùa và các DN thường xuyên rơi vào
tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất. Đứng đầu về kim ngạch XK 7 tháng đầu
năm là thị trường Nhật Bản với 378 triệu USD. Hiện nay, Nhật Bản chiếm 31,1%
thị phần XK thuỷ sản của Việt Nam trong khi Mỹ chỉ chiếm 24,9%.

18


Một trong những nguyên nhân làm cho kim ngạch vượt mốc 1 tỉ USD chính
là sự phát triển mạnh mẽ của mặt hàng ca tra, basa và kể cả đợt tăng giá tôm sau
phán quyết vụ kiện chống bán phá giá. Có một điều nghịch lí mà những ngươi đi

kiện bán phá giá khơng ngờ tới đó là sau vụ kiện, con cá Việt Nam lại được nhiều
nước biết tới hơn. Nhiều nhà NK và phân phối của Châu Âu đã biết đến cá tra,
basa, giúp tăng lượng XK vào thị trường này lên2,5 lần. XK vào Châu Á tăng
70% và đặc biệt là Châu đại dương tăng 3,5 lần so với cùng kì năm ngối. Thị
trường cá tra, basa hiện đã mở được thêm 8 thị trường mới, nâng tổng số lên 40
nước và khu vực. Một năm sau vụ kiện cá tra, cá basa, thị trường Mỹ giờ đây chỉ
là một trong nhiều điểm đến của cá da trơn Việt Nam. Trước vụ kiện, các DN
Việt Nam XK chủ yếu các sản phẩm philê cá đông lạnh sang Mỹ và vài thị
trường khác. Đến nay, ngoài sản phẩm philê đông lạnh, các DN đã XK được
nhiều sản phẩm khác chế biến từ cá tra, basa sang các thị trường Châu Âu,
Mehico, Canada, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin, Đài
Loan…, trong đó XK sang thị trường EU là tăng trưởng nhiều nhất. Cịn với vụ
kiện tơm, ngay sau phán quyết sơ bộ của Bộ thương mại Mỹ, nhiều nhà NK Nhật
Bản bắt đầu chào mua. Dù giá chào cao hơn trước, họ vẫn có động thái muốn
mua. Hiện giá tôm loại 16-20 con/kg là 11USD/kg, tăng 0,8-09 kg so với tháng
trước. Ngay cả một số khách hàng Mỹ cũng muốn mua với khối lượng lớn.Các
chuyên gia dự đốn, diễn biến khả quan trên đây có thể tạo điều kiện cho ngành
thuỷ sản đạt được mục tiêu đã đề ra cho năm 2004 là 2,6 tỉ USD.

3. Các giải pháp thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản
3.1. Các giải pháp hỗ trợ của chính phủ trong những năm qua
Trong chiến lược hướng về XK của Đảng và Nhà nước ta, thuỷ sản được xác
định là một trong những mặt hàng XK chủ lực. Trong số các thị trường hiện đang
NK thuỷ sản của nước ta, Nhật Bản là một thị trường truyền thống. Năm 2000,
kim ngạch XK thuỷ sản đạt 1,475 tỉ USD, trong đó kim ngạch XK sang Nhật

19



chiếm khoảng 35%. Vì vậy, trong cơng tác thị trường, bên cạnh nỗ lực đa dạng
hoá thị trường như cố gắng thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU…, Nhật Bản vẫn
được xác định là một trong những thị trường quan trọng nhất. Hiện nay, các mặt
hàng thuỷ sản XK sang Nhật có thể chia thành các nhóm sản phẩm cơ bản sau:
sản phẩm tôm, sản phẩm cá, sản phẩm nhuyễn thể và thực phẩm phối chế, đồ hộp
thuỷ sản và các loại thuỷ sản khác. Để có thể nâng cao năng suất, chất lượng, từ
đó đẩy mạnh XK thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản nói riêng cũng như các thị
trường khác nói chung, chính phủ ta đã đưa ra các chính sách, các chương trình
hỗ trợ cho ngành thuỷ sản như chính sách miễn thuế XK thuỷ sản, chương trình
phát triển ni trồng thuỷ sản đến năm 2010, chương trình phát triển XK thuỷ
sản đến năm 2005…
a. Miễn thuế XK thuỷ sản
Ngày 11/12/19998, Bộ tài chính ra quyết định số 1802/1998/QĐ/BTC ban
hành biểu thuế XK, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Trong biểu thuế này thì
hàng thuỷ hải sản bao gồm tất cả các loại đều có thuế suất bằng 0%, nghĩa là
khơng có thuế khi XK hàng thuỷ hải sản. Do vậy, khơng cần phải có điều kiện gì
để xin được miễn thuế XK và khơng phải có loại thuế nào phải nộp khi XK hàng
thuỷ hải sản. Ngoài ra, hàng thuỷ sản XK (bao gồm hàng gia cơng XK, XK ra
nước ngồi, XK vào khu chế xuất) nếu có đủ căn cứ là hàng hố XK thì được áp
dụng thuế suất bằng 0% cho thuế GTGT, nghĩa là không phải nộp cả thuế GTGT.
b. Các giải pháp trong chương trình phát triển XK thuỷ sản đến năm 2005
1) Về giống
Đầu tư và sắp xếp lại các cơ sở sản xuất giống tôm, cá. Mở rộng việc nhập
giống và các công nghệ sản xuất giống hiện đại, qui mơ cơng nghiệp. Thực hiện
chính sách khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư sản xuất giống cá biển tại
Việt Nam. Đầu tư hoàn thiện các trung tâm nghiên cứu giống hải sản ở một số
vùng trọng điểm. Xây dựng, nâng cấp các trại sản xuất giống phục vụ nuôi XK ở
các địa phương. Nghiên cứu xây dựng đề án ni dưỡng bảo tồn giống lồi thuỷ
sản bố mẹ.


20


2) Về thức ăn cho thuỷ sản
Xây dựng các cơ sở sản xuất thức ăn cho thuỷ sản theo công nghệ mới nhằm
tăng cường chất lượng thức ăn và hạ giá thành, đảm bảo vệ sinh và phòng chống
dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu về thức ăn công nghiệp cho ni thuỷ sản.
3) Về thị trường
Bộ thuỷ sản chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ thương mại, Ngoại giao trong
công tác xúc tiến thương mại và tăng cường công tác thông tin thị trường, tăng
cường đào tạo cán bộ thị trường và tiếp thị chuyên nghiệp ở các DN, để giữ vững
và ổn định thị trường truyền thống, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, đồng thời mở
rộng hơn nữa để xuất ra các thị trường lớn như: EU, Mỹ, Trung Quốc…, giảm tỉ
trọng các thị trường trung gian, tăng tỉ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp. Đối
với thị trường Nhật Bản cần tăng tỉ trọng hàng thuỷ sản tinh chế và phối chế đóng
gói nhỏ cho siêu thị, tôm sống, cá ngừ tươi và đông và các đặc sản khác, đưa tỉ
trọng thuỷ sản XK chiếm từ 38 - 40% trong tổng sản phẩm XK và giá trị kim
ngạch XK đạt từ 760 – 800 triệu USD vào năm 2005.
4) Về khoa học, công nghệ
Bộ thuỷ sản chủ trì, phối hợp với Bộ khoa học, Cơng nghệ và Mơi trường và
các Bộ ngành có liên quan trong việc tập trung nghiên cứu công nghệ cao về di
truyền, chọn giống, nhân giống, công nghệ sinh học, xử lí mơi trường, chuẩn
đốn phịng trừ dịch bệnh, cơng nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Khuyến
khích các DN NK các bí quyết cơng nghệ, cơng nghệ cao từ các nước phát triển;
đâu tư nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới về nuôi trồng, khai thác và chế
biến XK.
5) Về đổi mới quan hệ sản xuất và đào tạo cán bộ
Sắp xếp và đổi mới các DN nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần
hố.Khuyến khích các thành phần kinh tế, các hộ gia đình, cá nhân đâu tư vào
phát triển thuỷ sản, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong việc chế biến


21


thức ăn, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản XK. Tăng cường và mở rộng
đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lí và kĩ thuật,
cơng nhân kĩ thuật…
6) Chính sách đầu tư
Vốn ngân sách nhà nước đầu tư vào: xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật gồm đê
bao, kênh cấp thoát nước cấp 1, cống và trạm bơm lớn, hệ thống cảng cá, chợ cá
quốc gia; xây dựng hệ thống trại giống quốc gia; xây dựng, nghiên cứu, phát triển
và NK các trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho nuôi trồng, khai thác và chế biến
XK, phục vụ việc kiểm dịch và kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản. Đào tạo
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ phục vụ chương trình phát triển XK thuỷ sản.
Vốn tín dụng ưu đãi đầu tư theo kế hoạch nhà nước tập trung vào: xây dựng
trại giống cấp cơ sở, kênh cấp và thoát nước cấp 2, cơ sở sản xuất thức ăn cho
thuỷ sản, phương tiện khai thác, thiết bị kĩ thuật, nhà máy nước đá cho bảo quản
và chế biến thuỷ sản XK; xây dựng, cải tạo, nâng cấp các cơ sở chế biến thuỷ sản
XK và chợ cá địa phương.
7) Chính sách thuế
Các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia thực hiện
Chương trình phát triển XK thuỷ sản được hưởng các ưu đãi về thuế theo qui
định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và các qui định hiện hành.
8) Về hợp tác đầu tư nước ngồi
Khuyến khích liên doanh với các nhà đầu tư nước ngồi để đầu tư ni trồng
thuỷ sản, sản xuất thức ăn và phát triển nuôi trồng, đổi mới công nghệ nuôi, khai
thác và chế biến XK. Bộ Thuỷ sản phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư và các
Bộ, ngành có liên quan trong việc tranh thủ nguồn tài trợ của các nước và các tổ
chức quốc tế để có thêm nguồn vốn cho Chương trình phát triển Xk thuỷ sản,
trước mắt ưu tiên cho các dự án nuôi trồng thuỷ sản cung cấp nguyên liệu cho

XK.
c. Các giải pháp khác

22


Ngồi các giải pháp về tài chính tín dụng, các chương trình phát triển ni
trồng và XK thuỷ sản, chính phủ còn đưa ra các giải pháp thiết thực khác như thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án phát triển ngành thuỷ sản, giúp các DN
Việt Nam thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu thông qua đại diện phòng thương
mại ở Nhật Bản. Nắm được thực tế là các mặt hàng thuỷ sản của ta có chất lượng
khác biệt so với sản phẩm của các nước khác NK vào Nhật Bản nhưng sự khác
biệt này lại không được các bạn hàng người Nhật biết đến bởi sản phẩm của ta
chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này, chưa xây dựng được một địa chỉ
tin cậy cũng như một thương hiệu rõ ràng (ta thấy không chỉ có thuỷ sản mà hầu
hết các sản phẩm XK của Việt Nam đều khơng có đăng kí bảo vệ bản quyền và
xây dựng thương hiệu. Mặt trái là nhiều sản phẩm có chất lượng của ta bị làm
nhái_ ví dụ như nước mắm Phú Quốc bị làm giả ở Thái Lan_làm cho giá trị XK
bị giảm sút. Nhà nước ta đã phát động cuộc thi “hãy xây dựng thương hiệu cho
sản phẩm Việt Nam” và tổ chức nhiều cuộc hội chợ triển lãm nhằm giới thiệu,
quảng bá thương hiệu Việt ngay tại nước Nhật. Mặt khác, việc viếng thăm của
quan chức hai bên đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp
xúc với các bạn hàng Nhật Bản từ đó thúc đẩy hơn nữa việc buôn bán giao
thương giữa hai nước. Chiều 9/3/2004, hội thảo xúc tiến buôn bán thuỷ sản ViệtNhật do cơ quan thương mại Việt Nam tại Nhật Bản cùng VASEP phối hợp tổ
chức đã diễn ra tại Chiba (Nhật Bản) với sự tham dự của gần 60 DN hai nước.
Nhiều DN Nhật Bản cũng mong muốn sẽ có thêm cơ hội hợp tác kinh doang
trong tương lai. Nhân dịp này, một số DN thuộc VASEP đã giới thiệu những mặt
hàng có thế mạnh trên thị trường trong và ngồi nước tại Hội chợ triển lãm thực
phẩm FOODEX-2004 tổ chức tại tỉnh Chiba từ 9-21/3/2004. Đây cũng là cơ hội
cho các nhà XK thuỷ sản Việt Nam tăng kim ngạch XK thuỷ sản sang thị trường

này trong thời gian tới. Trong năm 2004, Bộ thuỷ sản đang tập trung triển khai
thực hiện các giải pháp như nâng cao năng lực xúc tiến thương mại cho các DN,
xây dựng thương hiệu thuỷ sản cho một số sản phẩm chính như tơm, cá basa,

23


đồng thời tăng cường tổ chức các cuộc hôi thảo, tham gia hội chợ Quốc tế nhằm
mở rộng thị trường XK.

3.2. Các giải pháp thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang
thị trường Nhật Bản
3.2.1. Giải pháp của doanh nghiệp
a. Giải pháp thâm nhập thị trường Nhật Bản
Mặc dù nhu cầu NK thuỷ sản của Nhật Bản là rất lớn nhưng hiện nay
thị trường thuỷ sản của Nhật Bản đã chật chội với các đại lí, các cơng ty
XK thuỷ sản của Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ..., kể cả các DN
thuỷ sản Nhật. Mỗi DN đó đều có một lợi thế cạnh tranh riêng về giá, sản
phẩm, chất lượng hay uy tín, dịch vụ sau bán. Ngồi ra, để có thể thâm
nhập vào một thị trường khó tính như Nhật Bản thì DN cịn phải vượt qua
những rào cản về tài chính, luật pháp, ngơn ngữ, văn hố… Vì vậy, việc
tìm ra các giải pháp để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản trong thời
gian hiện nay đối với các DN là rất khó khăn. Bên cạnh sự hỗ trợ của
chính phủ, các hiệp hội thuỷ sản Việt Nam và kinh nghiệm của các DN
XK thuỷ sản đi trước, các DN cần phải tìm cho mình cho mình một
hướng đi thích hợp để thâm nhập vào thị trường này.
1) Tìm hiểu kĩ đặc điểm thị trường
Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường là bước đầu tiên khi một DN thực hiện
kế hoạch thâm nhâp. Các DN cần hiểu rõ các qui định về NK. Trước hết
cần kiểm tra xem mặt hàng có được phép NK tại Nhật hay khơng. Cần

xem xét luật ngăn ngừa cạnh tranh khơng bình đẳng, đạo luật về thương
hiệu, đạo luật về bằng sáng chế. Các DN cần lưu tâm yếu tố về giá(như
đã nói ở trên, giá cả khi đến tay người tiêu dùng cao gấp 2-3 lần). Ban
đầu, giá cả có thể là yếu tố quyết định cơ hội làm ăn. Tuy nhiên, cái mà
người tiêu dùng Nhật cần còn là chất lượng tốt. Thị trường Nhật Bản rất

24


nhạy cảm với các sản phẩm mới, vì thế người tiêu dùng ln tìm kiếm sự
mới mẻ. Tuy nhiên, DN phải đo lường kĩ nhi cầu của thị trường, bán
những gì người Nhật muốn mua.
Tại Nhật, khi người ta khơng nhận được câu trả lời trong vòng 3 ngày,
họ sẽ nghĩ là DN không quan tâm đến chào hay hỏi hàng. Nếu muốn bán
sản phẩm chỉ nói tên sản phẩm là chưa đủ. Cần nói kĩ về chủng loại sản
phẩm dành cho đối tượng nào với các chi tiết kèm theo. Việc nêu khung
giá rất cần thiết. Khi có khung giá có thể quyết định nên bán các sản
phẩm đó tới các cửa hàng chất lượng cao hay cửa hàng bách hố trên thị
trường bình dân tuỳ theo loại khung giá.
2) Từng bước đặt chân vào thị trường
Các hãng Nhật thường không tin và không muốn mở mở tài khoản với
các hãng nước ngồi khi thiết lập bn bán với cơ sở sản xuất tận gốc vì
điều này có thể dẫn đến khả năng họ giới thiệu hàng mẫu với các hãng
khác của Nhật. Trừ khi các DN phải dấu hàng mẫu như là những mặt
hàng bí mật, cịn cách làm nêu trên sẽ làm DN trở nên thiếu tin cậy tại
Nhật Bản. Ưu thế của sản phẩm rất quan trọng. DN cần phải nêu rõ
những đặc điểm về sản phẩm: rẻ hay đắt, chất lượng, ngun liệu có tốt
khơng, mùi vị có mới lạ khơng và giá trị gia tăng có được nhờ những
điểm khác biệt này khơng. Cần chỉ rõ đặc điểm nhận dạng sản phẩm vì
khách hàng Nhật rất cần những yếu tố này. Khi giải thích về sản phẩm,

doanh nghiệp không nên sử dụng các thuật ngữ hay chữ viết tắt chỉ sử
dụng trong DN. Cần phải giải thích rõ bằng các từ ngữ. DN cũng cần phải
giữ lời hứa và nhạy cảm với các vấn đề như thời gian hứa giao hàng, thời
gian giao hàng, giao hàng đúng như hàng mẫu.
3) Tiếp thị và xúc tiến thị trường
Như đã nói ở trên, sản phẩm XK không những phải đạt tiêu chuẩn chất
lượng mà quan trọng là phải đạt tiêu chuẩn chất lượng và các điều luật
liên quan của Nhật Bản. Tất cả các DN XK thuỷ sản phải nắm rõ những

25


×