Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Luận văn:Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.47 KB, 36 trang )



1


Luận văn
Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt
nam sang thị trường Mỹ



2
LỜI MỞ ĐẦU
Cho đến nay , Việt nam đã ký hiệp định thương mại với trên 100 quốc gia
và vùng lãnh thổ , nhưng việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13-7-2000
tại thủ đô Washington được đánh giá là có ý nghĩa quan trọng đặc biệt , đánh dấu
một bước tiến mới trên con đường hội nhập của Việt nam .
Với dân số chỉ khoảng 265 triệu dân, nhưng do thu nhập quốc dân cao nên
Mỹ hiện là thị trường có sức mua lớn nhất trên thế giới . Hầu hết các loại hàng hoá
của toàn bộ các quốc gia trên thế giới đều được xuất khẩu vào thị trường Mỹ . Khả
năng xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ đã lên trên 1000 tỷ USD mỗi năm , chiếm 1/4 khả
năng xuất nhập khẩu của toàn cầu và chiếm khoảng 18% tổng thương mại thế giới .
Đây là một thị trường khổng lồ tuy luật lệ phức tạp và có nhiều loại luật khác nhau
nhưng nhìn chung là khá thông thoáng và hấp dẫn ( trừ một số mặt hàng có hạn
ngạch và quy định về tiêu chuẩn vệ sinh , môi trường ). Chỉ cần được người tiêu
dùng chấp nhận là họ có thể sẽ nhận được những đơn đặt hàng lớn , lâu dài với mức
lợi nhuận tương đối hấp dẫn.
Bên cạnh đó , Mỹ còn có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu , hoạt
động của nhiều tổ chức quốc tế như WTO, IMF, WB, ADB…đều có vai trò quan
trọng của Mỹ.
Kinh nghiệm của một số quốc gia đang phát triển như Thái lan, Mêhicô,


Trung quốc cho thấy việc mở rộng quan hệ thương mại với Mỹ không những sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ,
tăng kim ngạch xuất khẩu, nhanh chóng tiếp cận được với một thị trường rộng lớn,
đa dạng, có tiềm lực khoa học công nghệ mà còn giúp nền kinh tế Việt nam hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nhanh chóng hơn và hiêụ quả hơn.
Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp Việt nam (DNVN) có thể thâm nhập
vào thị trường Mỹ? Đó là câu hỏi đang được rất nhiều người quan tâm, đặc biệt là


3
sau khi hiệp định TM có hiệu lực. Trong một chừng mực nào đó bài viết này sẽ góp
phần giải quyết có hiệu quả vấn đề trên.
Nội dung của bài viết bao gồm hai phần lớn:
*Giới thiệu về thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang
thị trường Mỹ.
*Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị
trường Mỹ của các DNVN.








CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA
VIỆT NAM SANG MỸ.
1. Giới thiệu khái quát về thị trường Mỹ.
1.1.Văn hoá kinh doanh và thị hiếu của người Hoa kỳ.



4
Để có thể thành công trong quan hệ làm ăn với Mỹ, các DNVN phải có được
một cái nhìn tổng thể về thị trường Mỹ đồng thời phải cố gắng nắm bắt những điểm
cơ bản trong văn hoá kinh doanh, thị hiếu của họ để thích nghi.
Trước hết, là vài nét về văn hoá kinh doanh của người Mỹ: thói quen của
người Mỹ là luật pháp, hợp đồng được ký kết phải chặt chẽ, rõ ràng , các DNVN
phải tìm mọi cách để chứng minh vị trí pháp lý ổn định của mình: chẳng hạn DN Mỹ
yêu cầu đối tác đưa ra bản báo cáo tài chính hàng năm, đó được coi là văn bản tạo
nên sự tin cậy đối với bạn hàng (trong khi đó các DNVN thường dấu, ít khi công bố
điều này). Người Hoa kỳ thường bộc trực thẳng thắn , chúng ta khi đi đàm phán với
họ ký kết hợp đồng nên đưa ra những phương án rõ ràng, tránh nói vòng vo, kéo dài
dễ gây tâm lý không tin cậy.
Người Mỹ thích kiểu ký kết hợp đồng trực tiếp ngay sau khi đàm phán. Thông
thường trước khi đàm phán, người Mỹ soạn hợp đồng trước theo hướng có lợi cho
họ và những điều kiện bất lợi cho đối tác. Đàm phán xong, yêu cầu đối tác ký hợp
đồng luôn tức thì. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác, xem xét kỹ lưỡng và yêu
cầu họ chỉnh sửa lại cho phù hợp sau đó mới ký. Điều này không đồng nghĩa với
việc rườm rà, kéo dài thời gian mà phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi bước vào
đàm phán.
Trong quan hệ thư tín TM, khi doanh nhân Mỹ phát đi một bức Fax, Email thì
đòi hỏi đối tác hồi âm càng sớm càng tốt (khoảng 3 ngày là thích hợp). Còn chúng
ta đôi khi ngại tốn kém hoặc phải hỏi ý kiến cấp này cấp nọ, qua nhiều tầng nấc nên
không đáp ứng lòng mong đợi của họ trong giao dịch TM. Cũng tương tự như vậy ,
nếu doanh nghiệp Mỹ Fax, Email sang hỏi về một mặt hàng mà DNVN không có
cũng nên Fax, Email lại cho họ nói rõ (DN chỉ cần trả lời khoảng 20 chữ trở lại là
vừa lòng họ). Rất không nên lờ đi vì rất có thể họ sẽ liên hệ lại tìm hiểu khả năng
cung cấp , làm gia công những mặt hàng mà DN có thế mạnh.
Một vấn đề nữa là trong đàm phán, nếu người kinh doanh đi thương lượng

hợp đồng mà phải thông qua phiên dịch thì khó gây cho họ một thiện cảm , tín


5
nhiệm để làm ăn lâu dài. Vì vậy, biết tiếng Anh là một yêu cầu bức xúc khi làm ăn
với doanh nhân Mỹ.
Trên đây là một vài nét cơ bản trong văn hoá kinh doanh của người Mỹ mà
trong thời gian qua các DNVN rất hay vấp phải. Những việc tưởng chừng như nhỏ
nhặt vậy nhưng đôi khi lại gây ra những thiệt hại rất lớn không chỉ về lợi nhuận mà
còn về vấn đề uy tín làm ăn về sau. Chú ý nắm bắt rút kinh nghiệm sẽ giúp các
DNVN có chỗ đứng vững hơn trong mắt các đối tác Mỹ.
Vấn đề thứ hai, cũng rất quan trọng, đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế đó là
nắm bắt thị hiếu của khách hàng. Trước hết phải thấy rằng Mỹ là một dân tộc chuộng
mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm nhiều càng kích thích sản xuất
và dịch vụ tăng trưởng, do đó nền kinh tế sẽ phát triển. Ngày nay , tâm lý này không
chỉ của riêng nền kinh tế Mỹ mà còn có tác động sâu rộng đến các nhà xuất khẩu trên
toàn thế giới.
Hàng hoá dù chất lượng cao hay vừa đều có thể được bán trên thị trường Hoa
kỳ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hoá. Các nước đang
phát triển và Việt nam khi xuất hàng vào thị trường Hoa kỳ cần phải lấy yếu tố giá
cả làm trọng, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ nhưng phải đa dạng và hợp thị hiếu.
Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường
người tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Tài nguyên phong phú, không bị
ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới cộng với chiến lược phát triển
kinh tế lâu dài đã tạo cho Hoa kỳ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao
cho người dân. Với thu nhập đó, việc mua sắm đã trở thành nét văn hoá không thể
thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Cửa hàng là nơi họ đến mua hàng, dạo
chơi, gặp nhau, trò chuyện và mở rộng giao tiếp xã hội. Qua thời gian, người tiêu
dùng Hoa kỳ gần như tin tưởng tuỵêt đối vào các cửa hàng đại lý bán lẻ của mình,
họ có sự bảo đảm về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác.

Điều này cũng làm cho họ có ấn tượng rất mạnh với lần tiếp xúc đầu tiên đối với các
mặt hàng mới. Nếu ấn tượng này là xấu, hàng hoá đó sẽ khó có cơ hội trở lại. Vì vậy


6
sự xâm nhập của các nhà xuất khẩu đơn lẻ thường không mấy khi đe doạ được sự
hiện diện TM của người đến trước.
Đối với những đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép nói chung
người Mỹ thích sự giản tiện nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc
đáo thì càng được họ ưa thích và mua nhiều.
Hoa kỳ không có các lề ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở
các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá tôn giáo của mình
và theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau tạo sự khác biệt trong thói quen tiêu
dùng ở Hoa kỳ so với người tiêu dùng ở các nước Châu âu. Cùng một số đồ vật
nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của
người tiêu dùng các nước khác.
Với sự thay đổi luôn như vậy giá cả lại trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này
giải thích tại sao hàng hoá tiêu dùng từ một số nước đang phát triển chất lượng kém
hơn nhưng vẫn có chỗ đứng ở Hoa kỳ vì giá bán thực sự cạnh tranh (trong khi điều
này khó xảy ra ở Châu âu ).
Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt
trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Hoa kỳ. Địa lý rộng lớn,
phong cảnh đa dạng cũng tạo cho người dân Hoa kỳ một thói quen ham du lịch, ưa
khám phá trong và ngoài nước. Toàn bộ các hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các
chuyến du lịch bằng xe hơi đều có một thị trường hết sức rộng lớn. Các đồ dùng liên
quan đến thể thao bán rất chạy với đủ dải thị trường từ hàng rất đắt cho giới thu
nhập cao hay hàng bán rẻ cho dân nghèo.
Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu của người Hoa kỳ rất đa dạng do nhiều nền
văn hoá khác nhau cùng tồn tại, xác định rõ phân đoạn thị trường mình sẽ thâm nhập
để xuất khẩu là chìa khoá đi đến thành công.

1.2 Đặc điểm và vài nét khác biệt của thị trường Hoa kỳ.


7
Như phần trên đã trình bày, Mỹ là một thị trường khổng lồ với sức mua lớn,
nhu cầu đa dạng. Đây là một thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với toàn bộ các
nước trên thế giới, trong đó có Việt nam.
Tuy nhiên, để thành công, nhà xuất khẩu phải nắm được một điểm hết sức cơ bản là
hệ thống chính sách luật lệ và thủ tục của chính quyền liên bang liên quan đến tiếp
cận thị trường.
Ở Mỹ có nhiều quy định chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán: các quy định về
kỹ thuật, chất lượng…Vì thế khi chưa nắm rõ hệ thống các quy định, luật lệ này các
nhà xuất khẩu thường thấy rất khó làm ăn ở thị trường này.
Tại thị trường Mỹ, mậu dịch được thực hiện tự do không đòi hỏi giấy phép.
Hàng hoá nhập khẩu của Mỹ chỉ cần theo đúng quy định: doanh nghiệp nhập khẩu
hàng hoá làm thủ tục đăng ký và nộp thuế. Chỉ có vài chủng loại hàng hoá phải có
giấy phép nhập khẩu đặc biệt như vũ khí, chất phóng xạ…
Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục hải
quan Mỹ. Dấu hiệu nước sản xuất bắt buộc phải có đối với tất cả hàng hoá nhập
khẩu vào Mỹ. Dấu hiệu này phải được viết bằng tiếng Anh và rõ ràng. Có thể ghi “
MADE IN…; ASSEMBLE IN…; hoặc PRODUCT OF…”. Hàng hoá mang nhãn
hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một
công ty Mỹ hoặc một công ty nước ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập
khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục hải quan Mỹ
và được lưu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả hoặc sao
chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền sẽ bị
bắt giữ và tịch thu.
Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định rất chi
tiết và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Ví dụ, theo quy chế của Tổ chức nông
nghiệp và nông sản Mỹ thì nông sản. thực phẩm, tân dược… phải được kiểm định,

có dấu, có ghi thời hạn sử dụng, một số loại trái cây phải bảo đảm kích cỡ; một số
mặt hàng điện tử, dân dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn tiết kiệm điện năng; đồ chơi trẻ


8
em phải an toàn… Trên bao bì của sản phẩm phải ghi rõ quy cách, hướng dẫn sử
dụng và cảnh báo, chẳng hạn lời cảnh báo ghi: “nếu không tuân thủ những chỉ dẫn
này thì người sản xuất hoàn toàn không chịu trách nhiệm”.
Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ phải qua hải quan làm thủ tục . Nguyên tắc
chung là khi hàng đến thì các đại lý nhận hàng và đưa vào kho hải quan, sau đó đại
lý thông báo cho chủ hàng đến làm thủ tục theo các bước quy định ( xuất trình
chứng từ, kiểm tra và hoàn thành thủ tục). Các nhà xuất khẩu nước ngoài khi muốn
làm thủ tục hải quan để xuất khẩu vào Mỹ có thể thông qua người môi giới hoặc các
công ty vận tải. Thuế suất có sự khác biệt rất lớn giữa những nước được hưởng quy
chế TM bình thường (NTR) với những nước không được hưởng (Non NTR), có
hàng hoá có thuế, có hàng không thuế nhưng nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so
với nhiều nước khác.
Một điều đáng chú ý là ở Mỹ có luật chống bán phá giá và thuế đối kháng.
Nếu hàng hoá bán vào Mỹ thấp hơn giá quốc tế hoặc thấp hơn giá thành thì người
sản xuất ở Mỹ có thể kiện ra toà, và như vậy nước bị kiện sẽ phải chịu thuế cao
không phải chỉ đối với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với toàn bộ hàng hoá
khác của nước đó bán vào Mỹ.
Hoặc hàng hoá nước ngoài nhập vào thị trường Mỹ mà được chính phủ nước xuất
khẩu trợ cấp sẽ bị đánh thuế đối kháng làm triệt tiêu khoản trợ cấp đó.
Hàng hoá bán tại Mỹ thường phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lượng
và chất lượng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán
hàng. Nếu một doanh nghiệp bị thua trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm thì
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó ở Mỹ sẽ bị tịch biên và đem bán theo phán
quyết, thậm chí những tín dụng thư (L/C) được mở cho các nhà xuất khẩu khác
không liên quan đến vụ kiện ở nước thứ ba cũng sẽ bị tịch thu. Chỉ khi nào giải

quyết xong vụ kiện đó thì mới có thể trở lại kinh doanh tại thị trường Mỹ.
Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn sử
dụng hạn ngạch để kiểm soát khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất


9
định. Phần lớn hạn ngạch do cục hải quan quản lý, bao gồm hạn ngạch thuế quan và
hạn ngạch phi thuế quan:
Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với hàng hoá nào đó khi nhập
khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế quan thấp trong một thời gian nhất định, nếu
vượt quá sẽ bị đánh thuế cao.
Hạn ngạch phi thuế quan quy định số lượng hàng hoá được phép nhập khẩu
trong một thời gian xác định, nếu vượt quá sẽ không được phép nhập khẩu.
Có thể thấy rằng các nhà kinh doanh tại thị trường Mỹ phải chấp nhận cạnh
tranh rất gay gắt như nhiều người mô tả là: “ một mất một còn”. Cái giá phải trả cho
sự nhầm lẫn là rất lớn, người tiêu dùng Mỹ nôn nóng nhưng lại mau chán vì thế nhà
sản xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với sản phẩm của mình, thậm chí phải
có “phản ứng trước ’’.
Có thể tiếp cận thị trường Mỹ thông qua một trong hai cách: bán hàng trực
tiếp cho người mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc
mỗi doanh nghiệp. Đưa ra được và có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của
mình là doanh nghiệp đã thành công bước đầu trên con đường tiến tới chinh phục thị
trường Mỹ.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị
trường Mỹ.
Kể từ khi tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm
vận TM và nối lại quan hệ mậu dịch với Việt nam (3-2-1994), sau đó hai nước chính
thức thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao (11-7-1995) đến nay, song song
với việc giải quyết các vấn đề quá khứ gây cản trở đến tiến trình bình thường hoá
hoàn toàn quan hệ kinh tế – thương mại, Việt nam và Hoa kỳ đã từng bước thiết lập

những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế – thương mại
song phương thông qua việc ký kết các hiệp định, văn bản pháp lý.


10
Có thể kể ra một số mốc thời gian đáng chú ý trong tiến trình thiết lập quan hệ TM
Việt nam –Hoa kỳ như sau:
*5-8-1995: Bộ trưởng ngoại giao Mỹ đến thăm Việt nam.
*10-1995: Chủ tịch nước CHXHCN Việt nam dự lễ kỷ niệm 50 thành lập
Liên Hiệp Quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của
chính quyền Mỹ. Hội đồng thương mại Mỹ tổ chức “Hội nghị về bình thường hoá
quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Việt- Mỹ”.
*11-1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt nam, tìm hiểu hệ thống luật lệ
thương mại- đầu tư của Việt nam.
*4-1996: Mỹ trao cho Việt nam văn bản “Những yếu tố bình thường hoá
quan hệ kinh tế – thương mại với Việt nam”.
*7-1996: Việt nam trao cho mỹ văn bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá
quan hệ KT-TM và đàm phán hiệp định TM với Mỹ”.
*9-1996: bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định TM song phương.
*7-5-1997: Đại sứ Việt nam tại Mỹ, đại sứ Mỹ tại Việt nam nhậm chức tại
thủ đô mỗi nước, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai
nước.
*10-3-1998: Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký quyết định bãi bỏ việc áp
dụng điều luật bổ sung Jackson- Wanick đối với Việt nam (hàng năm quyết định này
đều được tiếp tục gia hạn ), cho phép Việt nam tham gia vào các chương trình
khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu tư của Hoa kỳ bao gồm các chương trình liên
quan đến cơ quan phát triển thương mại (TDA), nhận hàng xuất nhập khẩu (EXIM-
BANK), công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), và cơ quan viện trợ phát triển
quốc tế (USAID) của chính phủ Hoa kỳ.
*1999: Việt nam dành cho Hoa kỳ quy chế Tối huệ quốc trong buôn bán

(được gia hạn hàng năm).


11
*Cuối cùng 13-7-2000 tại Washington bộ trưởng thương mại Việt nam
Vũ Khoan và bà Charleen Bashefski - Đại diện thương mại của phủ tổng thống Hoa
kỳ đã thay mặt chính phủ hai nước ký kết hiệp định thương mại giữa nước
CHXHCN Việt nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ, mở ra một trang mới trong quan hệ
thương mại giữa Việt nam và Hoa kỳ , tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ KT-TM hai
nước phát triển trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, phù hợp với mong muốn của
nhân dân hai nước. Theo lời của Thứ trưởng thương mại Mai Văn Dâu: “Hiệp định
thương mại Việt nam-Hoa kỳ được ký kết đáp ứng lòng mong mỏi không chỉ của
riêng các doanh nghiệp của Việt nam và Hoa kỳ mà cả các doanh nghiệp nước ngoài
khác. Hiệp định chẳng những có lợi cho hai nước mà còn có lợi cho sự hợp tác ở
Đông Nam Á, Châu Á- Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới. Ký kết hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là thành tựu mới của việc triển khai đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và nhà nước
Việt Nam và là một bước mới trong quá trình Việt nam chủ động hội nhập với nền
kinh tế thế giới . Hoa kỳ cũng đánh giá hiệp định này là một bước tiến quan trọng
của việc Việt nam tham gia tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng
hộ Việt nam tham gia tổ chức này”.
Trên cơ sở các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong khi
đàm phán , hai bên đã thống nhất với nhau 5 nguyên tắc:
*Bình đẳng cùng có lợi.
*Không phân biệt đối xử, dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc.
*Tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế.
*Tính đến điều kiện của Việt nam là nước đang phát triển, có thu nhập
thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường Việt nam cần có thời kỳ chuyển đổi
để điều chỉnh luật lệ, chính sách của mình cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
*Quan hệ hai nước sẽ xây dựng tương tự như Mỹ đã xây dựng với các

nước khác, Mỹ đòi hỏi Việt nam không hơn những điều Mỹ đòi hỏi các nước khác.


12
Trong điều kiện hiệp định được phê chuẩn, hàng hoá Việt nam sẽ được cạnh
tranh lành mạnh với hàng hoá của các nước khác và hàng hoá của Hoa kỳ trên một
sân chơi công bằng. Bởi khi được hưởng quy chế ưu đãi Tối huệ quốc thì mức thuế
bình quân hàng xuất khẩu của Việt nam sẽ giảm từ 40-50% còn khoảng 3%. Nhờ
vậy, theo ước tính của ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ năm đầu
tiên sau khi phê chuẩn hiệp định có thể tăng lên khoảng 1,3 tỷ USD tức là gần gấp
đôi so với mức của năm 2000, đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010
Rõ ràng là hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ mở ra cơ hội làm ăn, hợp tác
mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt nam. Đồng thời cũng có tác động tích cực trong
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam vì họ coi Việt nam là cầu nối để từ đó
hàng hoá của họ xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ với mức thuế thấp. Với điều này,
hàng hoá được sản xuất ở Việt nam sẽ tăng cả về số lượng và chất lượng , cơ hội
nâng cao tổng kim ngạch hàng xuất sang Mỹ cũng vì thế mà tăng lên.
Chúng ta biết rằng, với mô hình “đàn sếu bay” Mỹ chú trọng vào phát triển
khu vực kinh tế mới ( nền kinh tế điện tử ) họ sẽ nhường những ngành sản xuất hàng
hoá thông thường cho các nước khác với hình thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp sau đó
nhập khẩu lại thị trường Mỹ những mặt hàng có lao động rẻ: dệt may, giày dép, thiết
bị máy móc cơ bản ( mô tơ, động cơ máy tiện ), TV, đầu máy video…Mà Việt nam
với lợi thế về tài nguyên, lao động dồi dào nếu được đầu tư hợp lý sẽ có tiềm lực rất
lớn ở những mặt hàng này.
Sau khi chúng ta có được quy chế thương mại bình thường thì hai ngành có
triển vọng nhất là dệt may và giày dép. Nhưng ngành dệt may sẽ bị hạn chế bằng
hạn ngạch, còn giày dép được tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, với sản phẩm dệt may ta
đã có khá nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trường EU và Nhật bản nên việc vào thị
trường Mỹ sẽ không mâý khó khăn. Hơn nữa, ngay tại thị trường Mỹ người ta cũng
đang tìm nguồn cung cấp những sản phẩm này ở Việt nam vì có lao động rẻ. Ngành

dệt may Việt nam đã đề ra chiến lược phát triển tăng tốc đầy tham vọng với mục tiêu


13
đến năm 2005 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang thị
trường Mỹ đạt khoảng 1-1,5 tỷ USD.
Còn mặt hàng giày dép, tuy mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Mỹ, song trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế sẵn có cộng
thêm thế suất sẽ giảm xuống còn 10% nên việc hy vọng gia tăng thị phần cho mặt
hàng này ở thị trường Mỹ không phải là điều quá xa vời.
Thuỷ sản, cà phê cũng là những mặt hàng Việt nam có thế mạnh.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản (bờ biển dài, vùng biển có
năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch…), thuỷ sản lại là
một trong những mặt hàng được Mỹ khuyến khích nhập khẩu (thuế suất 0%) và
nhập khẩu lớn. Cho nên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ có những bước
tiến mạnh mẽ nếu được quy hoạch và đầu tư hợp lý.
Cà phê, với lợi thế được miễn thuế nhập khẩu vào Mỹ lại chiếm được sự ưa
chuộng của người tiêu dùng ở thị trường này nên kim ngạch xuất khẩu trong những
năm qua đã tăng mạnh. Với việc chú ý hơn đến chất lượng hàng xuất khẩu (giảm tỷ
lệ hạt vỡ, đen…) kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng hơn nữa.
Việc phê chuẩn hiệp định thương mại cũng giúp Việt nam tiến gần hơn đến
việc được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) của Hoa kỳ áp dụng
mức thuế suất bằng 0 cho 4284 mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển .
Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải mọi mặt hàng xuất
khẩu đều có khả năng tăng nhiều là nhờ vào việc chuyển sang mức thuế mới. Đơn
cử các mặt hàng nông sản như cà phê nhân , tiêu và dầu thô…đã được hưởng mức
thuế suất rất thấp gần 0% kể từ năm 94 khi Hoa kỳ bỏ cấm vận với Việt nam. Triển
vọng tăng kim ngạch xuất khẩu là do tự bản thân hàng hoá có sức cạnh tranh nếu
được sự quan tâm, đầu tư, quy hoạch hợp lý.





14



CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ VÀ VIỆC ĐÁP
ỨNG NHU CẦU THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÁC DNVN
1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ.
Từ khi chính phủ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam đến nay, mặc dù
chưa được hưởng quy chế MFN trong quan hệ thương mại với Mỹ, nhưng hoạt động
thương mại giữa Mỹ và Việt nam vẫn phát triển liên tục cán cân thương mại của
Việt nam và Mỹ từ thâm hụt đã chuyển sang tình trạng thặng dư trong những năm
gần đây: Bảng 1: Thương mại Việt nam –Hoa kỳ 1994-2000.
Đơn vị : Triệu USD.
Năm XKVn sang Mỹ NKVn từ Mỹ Tổng KN buôn bán

Cán cân TM
1994 50.45 172.22 222.67 -121.77
1995 198.97 252.86 451.83 -53.89
1996 319.04 616.05 935.09 -297.01
1997 388.19 277.79 665.98 +110.40
1998 553.441 274.22 827.63 +279.19
1999 601.90 277.30 879.20 +324.60
2000 732

Nguồn: Tạp chí Tài chính quốc tế –12/2000- trang 47.
Bảng 1 cho thấy kim ngạch mậu dịch Việt nam-Hoa kỳ năm 1994 đã đạt trên

222 triệu USD (so với 62 triệu USD năm 93-tăng hơn 3 lần ). Con số này năm 1995
đã lên tới 450 triệu USD (gấp 2 lần so với năm trước ). Năm 1996 tổng kim ngạch


15
đã đạt gần 1 tỷ USD, một con số đáng khích lệ. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta có
thể thấy, từ năm1996 trở về trước,Việt nam luôn nhập siêu từ Hoa kỳ, nhưng từ
những năm sau Việt nam lại luôn xuất siêu sang Hoa kỳ. Năn 1997 do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu Á, Việt nam phải giảm bớt các khoản nhập
khẩu của mình, do vậy kim ngạch buôn bán có phần giảm sút, chỉ còn 665 triệu
USD. Sang năm 1998 và 1999 cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế ở Châu Á,
kim ngạch đã có dấu hiệu gia tăng nhưng vẫn dừng ở những con số đáng khiêm tốn:
827 triệu USD và 879 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 553 triệu
USD và 602 triệu USD, lớn hơn con số nhập khẩu rất nhiều. Sang đến năm 2000,
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đạt 732 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu
năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ đạt 400 triệu USD. Đây là
một sự tăng trưởng khá nhanh và đáng khích lệ. Tuy nhiên nếu so sánh kim ngạch
xuất khẩu của nước ta vào Mỹ với kim ngạch xuất khẩu của một số nước Châu Á
khác với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước Việt –Mỹ là quá nhỏ so với
tiềm năng. Chẳng hạn, trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Băng-la-đét sang
Mỹ là 2.4 tỷ USD, Philipin là 13.9 tỷ USD , Thái lan là 6.4 tỷ USD…
Với hiệp định thương mại song phương Việt –Mỹ các chuyên gia kinh tế Việt
nam dự định rằng năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam –Hoa kỳ
có khả năng đạt tới 2 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 1999, trong đó Việt nam xuất
khẩu khoảng 1.2 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 0.8 tỷ USD. Nhưng trong tình hình
hiện nay, mục tiêu trên là rất khó nếu không muốn nói là không thể đạt được (ít nhất
là cho đến hết năm nay).
Qua xem xét có thể nhận thấy rằng, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua bao gồm: hải sản, dầu thô, cà phê,
dệt may, gạo, hoa quả…Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự thay đổi. Trong

những năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới
hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây,
tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản có bước chuyển
biến tích cực, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước .





17

Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt nam sang Hoa kỳ
Đơn vị:Triệu USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Mặt hàng
Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)

Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Thuỷ sản 33.86 16.6 42.5 14.8 81.55 17.4 125.59 24.9 304.36 41.6
Dầu thô 80.6 39.5 34.6 12.1 79.22 16.9 99.60 19.8 91.37 12.5
Cà phê 109.48 53.6 90 24.2 125.13 24.1 59.21 9.8 69.93 9.5
Dệt may 19.74 9.7 20 7.0 26.34 5.6 34.70 6.9 49.57 6.8
Gạo 5.82 2.9 63.5 17.1 39.03 7.5 4.95 1.0 10.66 1.5
Rau quả 7.6 3.7 11.6 4.0 2.6 0.6 3.20 0.6 5.0 0.7
Tổng kim ngạch
xuất khẩu sang Mỹ
204.2 100 286.7 100 468.6 100 504.0 100 732.4 100
Nguồn: Bộ thương mại – Trích từ bài: “xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Hoa kỳ” Ths Ngô Thị Tuyết Mai- Khoa
KT & KDQT.



18
Hiện nay, hải sản là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ, tăng
liên tục trong các năm vừa qua.Từ 33.86 triệu USD ( chiếm 16.6% tổng kim ngạch
xuất khẩu sang Mỹ ) năm 1997 đã tăng lên đến 304.36 triệu USD ( chiếm 41.6%
kim ngạch xuất khẩu ). Đây là một mức tăng kỷ lục, đưa thị trường Mỹ trở thành thị
trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam lớn thứ hai sau Nhật bản. Dự kiến năm

2005, thị trường Hoa kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị thuỷ hải sản xuất khẩu
của Việt nam . Tuy nhiên con số đó vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị nhập
khẩu thuỷ sản của Mỹ và chưa tương xứng với khả năng của Việt nam .
Sau hải sản là dầu thô, đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Hoa kỳ. Sau thời kỳ 97-98 do giá dầu
trên thế giới giảm mạnh nên xuất khẩu dầu thô sang Hoa kỳ giảm cả về giá trị và tỷ
lệ. Hai năm trở lại đây giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt nam đã đạt tới 91.37 triệu
USD - chiếm 12.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kỳ (so với
thời kỳ 97-98 là 12.1%- 16.9%).
Giầy dép, cà phê, dệt may, hạt điều, gạo…cũng là các mặt hàng bước đầu
được thị trường Mỹ chấp nhận. Hoa kỳ hiện là thị trường nhập khẩu cà phê hạt lớn
nhất của Việt nam. Chiếm trên 25% tổng số xuất khẩu cà phê của Việt nam.
2. Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam
Mặc dù trong những năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt
nam sang Mỹ đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng và giá trị xuất khẩu, các
doanh nghiệp đã có những bước tiếp cận thị trường hợp lý hơn, chất lượng, mẫu mã
sản phẩm được cải tiến thường xuyên hơn. Song rõ ràng là kết quả đạt được còn quá
nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên, đặc biệt là vào một thị
trường lớn và đầy tiềm năng như Mỹ. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các doanh
nghiệp Việt nam không phát huy được tối đa năng lực của mình?



19
Đầu tiên, phải kể đến là sự chênh lệch rất lớn ở trình độ phát triển kinh tế
của hai nước, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị- xã hội, về quan
điểm, tập quán, sở thích, thị hiếu người tiêu dùng…chính những nhân tố này không
được tính đến đầy đủ sẽ gây khó khăn trong khi giải quyết các mối liên hệ trong quá
trình làm ăn với Mỹ.
Mỹ là một đối tác quá lớn, quá hùng mạnh, vận hành theo cơ chế thị trường từ

khi lập quốc. Nước Mỹ có 50 tiểu bang, ngoài luật của liên bang, mỗi tiểu bang đều
có luật của mình…Hệ thống luật của Mỹ rất phức tạp, do đó hầu hết các doanh
nghiệp khi muốn kinh doanh trên thị trường Mỹ đều phải thuê luật sư, mà chi phí
luật sư lại rất đắt, nên thông thường là nhờ tư vấn.
Trong khi đó, Việt nam mới chuyển sang kinh tế thị trường trong một thời
gian ngắn. Cơ chế thị trường còn sơ khai, chưa phát triển, hệ thống chính sách chưa
đồng bộ, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, sự am hiểu về kinh tế thị trường của
bộ máy quản lý và doanh nghiệp còn hạn chế.
Thêm vào đó, Mỹ lại là một quốc gia phát triển mạnh nhất về công nghệ
thông tin, do đó khi tham gia vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt nam phải
làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin từ nhiều nguồn,
nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị
trường, về luật lệ, cung cách kinh doanh của người Mỹ vẫn là một trở ngại lớn cho
các doanh nghiệp Việt nam. Chính những điều này chẳng những có thể dẫn đến việc
bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi bởi những lý do không
đáng có.
Thứ hai, phải nhìn nhận rằng, tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng của
hàng xuất khẩu Việt nam còn thấp, cộng thêm thời gian vận chuyển hàng hoá sang
Mỹ dài ngày (thường là xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ ba) chi phí lớn sẽ làm
giảm thêm khả năng cạnh tranh của hàng hoá.



20

Hàng hoá Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu là lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, mà Mỹ lại đòi hỏi chất lượng cao và rất khắt khe
với đối với các mặt hàng này.
Bên cạnh đó, trình độ công nghệ lạc hậu, chuyên môn người lao động chưa
cao cộng thêm mẫu mã, kiểu dáng đơn điệu ít được chú trọng cải tiến thực sự nên

chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của số đông người dân Mỹ.
Tất cả những điều này làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu
về hình thức, khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các
nước Nam mỹ, Trung quốc; từ các nước công nghiệp mới (NIC); các nước Asean…
Thứ ba, điều này thuộc về một trong những nét khác biệt của thị trường Mỹ
là quy mô đơn hàng của họ thường rất lớn. Các nhà phân phối của Mỹ thường thiết
lập hệ thống phân phối toàn cầu. Nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi
khắp thế giới. Đơn hàng của họ thường lớn, nên nhiều doanh nghiệp Việt nam sang
Mỹ tìm hiểu thị trường không ký được hợp đồng do không đáp ứng được yêu cầu
này. Thí dụ, khi đối tác Mỹ đặt hàng 2 triệu sơ mi tơ tằm, một doanh nghiệp Việt
nam đành lắc đầu và than thở với thương vụ rằng: một năm chúng tôi làm hết sức
chỉ được 500 ngàn chiếc.
Thứ tư, phương thức giao dịch kinh doanh trên thị trường Mỹ rất đa dạng,
hiện đại. Việc bán hàng trên Internet đã được sử dụng. Công ty không có cửa hàng,
siêu thị, mà chỉ có một kho chứa hàng và một Website. Khách hàng muốn mua hoặc
giao dịch gì cứ vào Website rồi gọi đến công ty, sẽ có người đem hàng ở kho đến
giao tận nhà. Hiện nay rất nhiều cửa hàng, siêu thị của Mỹ chuyển đổi sang hình
thức kinh doanh này kết hợp với hình thức bán hàng ở cửa hàng truyền thống.
Các doanh nghiệp Việt nam, có lẽ phải mất một thời gian dài nữa mới có thể
tham gia vào cách bán hàng kiểu mới này. Nhưng ngay từ bây giờ phải nhận thức


21
được xu thế để chuẩn bị sẵn sàng hoà nhập nếu không muốn bỏ lỡ nhiều hơn nữa
những cơ hội kinh doanh hấp dẫn.
Thứ năm, tư vấn là tập quán của các công ty Mỹ và thị trường Mỹ khi vào
Việt nam làm ăn, họ cũng sử dụng các công ty tư vấn ở Việt nam giúp họ mua hàng
hoá, chỉ định nhà sản xuất hàng hoá theo yêu cầu, tiếp cận nguồn nguyên vật liệu
hoặc cách thành lập một doanh nghiệp ở Việt nam. Ngược lại, các doanh nghiệp
Việt nam sang Mỹ chào hàng nếu muốn chắc ăn cũng cần sử dụng tư vấn. Hiện nay

có rất nhiều công ty tư vấn đến hỏi thương vụ: Anh có muốn tiếp cận thị trường chè/
thị trường may mặc không? Bỏ tiền ra tôi làm cho.
Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp Việt nam rất ít có cơ hội sử dụng những
dịch vụ tư vấn này, chủ yếu là do tiềm lực tài chính nhỏ bé. Vì vậy thường là “ mò”
hoặc thụ động chờ các nhà nhập khẩu, phân phối đến đặt hàng. Họ rất ít có cơ hội
tiếp cận được với những nhà nhập khẩu, phân phối trực tiếp. Điều này cũng là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc giá cả của hàng hoá bị đội lên cao và
mẫu mã không linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt nam không nắm rõ hệ thống các nhà nhập
khẩu, phân phối chính thức đối với một số các mặt hàng lớn, có thế mạnh xuất khẩu
như dệt may, da giầy, hàng nông sản (cà phê, điều, lạc, gạo…), các mặt hàng thuỷ
hải sản …Không (hoặc rất ít) nhận được những thông tin có tính chất hệ thống về
một chủng loại mặt hàng cụ thể. Từ đó mà không có được phương thức thâm nhập,
tiếp cận tìm hiểu thị trường hợp lý.
Có thể kể ra một số nhữnh nhà nhập khẩu, phân phối chính ở Mỹ đối với nhóm mặt
hàng nêu trên như sau: Các mặt hàng giầy dép, quần áo phần lớn do các siêu thị như
Kamart, Wal-mart nhập khẩu hoặc các công ty xuyên quốc gia chuyên kinh doanh
như Rebock, Nike. Cà phê, điều, tiêu, hải sản…ở Mỹ có nhu cầu rất lớn và họ cũng
mua trực tiếp của Việt nam (riêng niên vụ cà phê 1999-2000, Mỹ trở thành khách
hàng lớn nhất của Việt nam, nhập khẩu 119 ngàn tấn, chiếm 20.08% tổng lượng cà


22
phê xuất khẩu của Việt nam ). Mua hàng nông sản là công ty Cargill có hệ thống
phân phối toàn cầu (doanh thu hàng năm khoảng 80 tỷ USD).
Thứ bẩy, một điều rất quan trọng là muốn gia nhập thị trường Mỹ thì các
doanh nghiệp Việt nam phải biết đối thủ cạnh tranh với họ là ai?. Phải bỏ đi quan
niệm cho rằng chỉ có doanh nghiệp lớn mới mới có thể thành công trên thương
trường Mỹ.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhìn thị trường theo hướng lâu dài

để có chiến lược thích hợp chứ không nên kỳ vọng hễ hiệp định thương mại được
Quốc hội hai nước phê chuẩn thì hàng hoá Việt nam có thể bán chạy ở Mỹ.
Mặc dù triển vọng mở ra là rất lớn (như đã nêu ở phần 2-chương 1), tuy nhiên kể cả
đối vối những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, những khó khăn còn tồn tại cũng
không phải là ít, có thể kể ra như sau:
Mặt hàng nông sản, hải sản chiếm khoảng 50% giá trị kim ngạch xuất khẩu
của Việt nam sang Mỹ, trong khi đó hiện nay các mặt hàng như cà phê, hạt điều, hải
sản cũng đã được hưởng thuế suất ưu đãi là 0% khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Do vậy việc ký hiệp định thương mại song phương vừa qua giữa hai nước cũng
không có ảnh hưởng gì lớn đến sức cạnh tranh của các mặt hàng này ở thị trường
Mỹ. Điều cần chú ý và quan tâm ở đây không phải là vấn đề về thuế quan mà là vấn
đề chất lượng và tiêu chuẩn hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam có đáp ứng và
phù hợp với các yêu cầu của thị trường Mỹ hay không.
Đối với mặt hàng gạo: sau khi hiệp định thương mại Việt nam- Hoa kỳ có
hiệu lực thì thuế nhập khẩu gạo từ Việt nam vào Hoa kỳ sẽ được giảm mạnh từ 5.5
cent/kg xuống còn 1.8 cent/kg, nhưng cơ hội xuất khẩu gạo của Việt nam vào thị
trường Mỹ sẽ rất ít bởi vì trên thực tế Mỹ cũng đã từng là nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới.
Khi Việt nam được hưởng quy chế thương mại bình thường của Mỹ thì các
mặt hàng như giầy dép và dệt may tuy sẽ có nhiều thuận lợi nhất khi xuất khẩu sang


23
Mỹ vì mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng này vào thị trường Mỹ sẽ được giảm
khoảng 10% đến 25%. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra cũng sẽ không ít bởi vì mặt hàng
này cũng là thế mạnh của một số nước trong khu vực Châu Á như Trung quốc, Thái
lan . Vì vậy việc tăng sức cạnh tranh để nâng cao thị phần của hàng Việt nam trên
thị trường Mỹ không phải là việc dễ làm.
Xác định rõ như vậy để tránh trường hợp một số doanh nghiệp quá trông chờ, ỷ lại
vào hiệp định, không tự vận động tìm cơ hội cho mình.

Thêm vào đó, giữa lúc có vẻ như nhiều cửa ngõ đã thông thoáng, rộng mở cho
hàng Việt nam thì bất nhờ ngày 11/9 hàng loạt các vị trí biểu tượng cho sức mạnh
quân sự và kinh tế Mỹ bị tấn công làm cho thị trường Mỹ và thế giới chao đảo.
Ảnh hưởng của cuộc tấn công này đã lan toả đến Việt nam. Nếu trước kia suy
thoái kinh tế Mỹ chỉ đụng đến sản phẩm kỹ thuật cao và tư liệu sản xuất chứ chưa
đụng chạm đến sự tiêu pha của người dân Mỹ nên chưa ảnh hưởng đến xuất khẩu
của Việt nam thì vụ tấn công hôm 11/9 vừa qua đã buộc người dân phải dè sẻn chi
tiêu để đối phó lại với những tình huống xấu mà không ai dám đảm bảo là sẽ không
xảy ra, trong khi hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là hàng tiêu dùng.
Đồng USD suy yếu sẽ giảm sức hấp dẫn với hàng xuất khẩu Việt nam sang Mỹ.
Mặt khác, hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu qua hai con đường là hàng
không và hàng hải. Tất cả những loại thực phẩm tươi sống như tôm, cá, đùi ếch, rau
quả tươi…đều được vận chuyển bằng đường không. Để nâng cao năng lực vận
chuyển, ngày 18/7/2001 Vietnam Airlines và American Airlines đã ký một hợp đồng
liên doanh bay và chuyển giao công nghệ. Nhưng như chúng ta đã biết vụ tấn công
hôm 11/9 có hai chiếc máy bay: một đâm vào toà nhà phía Bắc của trung tâm
thương mại thế giới, một đâm vào Lầu năm góc đều của American Airlines. Sự cố
này làm American Airlines thiệt hại hàng tỷ USD , hãng đã phải cắt giảm 20%
chuyến bay và sa thải hàng ngàn nhân công. Chắc chắn liên doanh bay mà hai bên
vừa ký hai tháng trước đây chịu ảnh hưởng rất nặng nề.


24
Vì vậy, giờ đây cánh cửa vào thị trường Mỹ trở nên khó khăn hơn đối với các
doanh nghiệp. Thực tế ôngWalter Block –Phó chủ tịch phòng thương mại Mỹ tại
TP.Hồ Chí Minh (Amcham) cho biết việc vận chuyển hàng sang Mỹ sẽ chậm trễ
hơn, thậm chí đơn đặt hàng có thể bị hoãn hoặc huỷ bỏ.
Theo dự đoán thì phần lớn các doanh nghiệp Việt nam đang xuất khẩu nông sản,
thuỷ sản, dệt may, giầy dép đang bị đe dọa bởi sức mua của người tiêu dùng Mỹ
giảm sút ít nhất cho đến hết năm 2001.

Trên đây là một số nét lớn trong quá trình đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của
các doanh nghiệp Việt nam cũng như một số vấn đề nổi cộm khi xuất khẩu hàng hoá
sang Mỹ. Cộng thêm một vài lưu ý trong văn hoá kinh doanh và thị hiếu tiêu dùng
của người Hoa kỳ đã nêu ở phần chương 1 sẽ phần nào giúp các doanh nghiệp Việt
nam có cái nhìn tổng thể đúng đắn hơn, rút kinh nghiệm được những sai lầm, thiếu
sót để tiếp cận thị trường Mỹ có hiệu quả hơn. Đồng thời việc nhận thức một cách
đúng đắn tình hình, xu thế mới sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc
đưa ra các mục tiêu chiến lược trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Mỹ
Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn lớn song Mỹ vẫn được coi là thị trường
hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam. Họ tin tưởng rằng với sức mạnh cả về
kinh tế và chính trị tình hình nước Mỹ sẽ được cải thiện sáng sủa hơn trong một thời
gian không xa. Khi đó cơ hội kinh doanh mở ra là rất lớn và dĩ nhiên là lợi nhuận dự
kiến thu được cũng không phải là nhỏ. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để thâm
nhập vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả, tránh được rủi ro và gây được uy tín
ngay từ những ngày đầu là câu hỏi mà trả lời nó không phải dễ dàng, liên quan đến
cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp
3.1.Về phía Nhà nước.
3.1.1. Về quy chế xuất nhập khẩu: Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.Theo cơ chế mới thì tất cả các thương


25
nhân đã đăng ký hoạt động, mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh sẽ được phép nhập khẩu mọi loại hàng hoá, trừ những mặt hàng mà nhà nước
cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, cấm kinh doanh.
3.1.2. Về công tác thị trường ngoài nước sẽ tập trung thực hiện những việc
chủ yếu sau:
Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt nam vào thị trường
nước ngoài, tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu.

Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xăy dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý,
phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương
thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng
mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty
pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt nam, khuyến khích và hỗ trợ
cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt nam.
Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các
hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo,
tham gia triển lãm, hội trợ…đối với từng mặt hàng, từng thị trường .
Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị
trường ngoài nước. Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại (BTM) với hoạt
động của các doanh nghiệp xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh
nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
Cùng với việc củng cố các cơ quan thương vụ Việt nam hiện có ở nước ngoài, mở
thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới…
Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục xúc tiến thương mại (BMT) phát huy
vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương
mại.
Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại.

×