Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đề tài " Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 79 trang )

1

ỦY BAN KINH TẾ CỦA QUỐC HỘI
VỤ KINH TẾ




CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế tại
Việt Nam








Hà Nội - 2011

2
MỤC LỤC
Phần mở đầu 4
I. Tổng quan về gói kích thích kinh tế tại Việt Nam 5
1. Bối cảnh ban hành gói kích thích kinh tế của Việt Nam 5
1.1. Bối cảnh thế giới 5
1.2. Bối cảnh trong nước 9
1.3. Gói kích thích kinh tế của một số nước 13
2. So sánh về điều kiện kinh tế và các gói kích thích kinh tế ở một số nước và kinh


nghiệm cho Việt Nam 18
3. Ưu tiên và các giải pháp then chốt trong gói kích thích kinh tế của Việt Nam 21
3.1. Ưu tiên và định hướng cho các giải pháp 21
3.2. Gói hỗ trợ lãi suất 26
3.3. Đẩy mạnh đầu tư công 28
3.4. Chính sách giãn, giảm thuế 29
3.5. Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và bảo đảm an sinh xã
hội 30
4. Những điều chỉnh trong quá trình triển khai thực hiện 30
4.1. Về nhóm chính sách tiền tệ (gói hỗ trợ lãi suất ngắn, trung và dài hạn) 31
4.2. Nhóm chính sách tài khóa (giảm, giãn và miễn thêm một số loại thuế, tăng
đầu tư công). 34
4.3. Gói giải pháp bảo đảm an sinh xã hội 35
5. Kết quả triển khai gói kích thích kinh tế 35
5.1. Kết quả triển khai gói hỗ trợ lãi suất 35
5.2. Về thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế 44
6. Tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam 46
6.1. Tác động đến tăng trưởng kinh tế 47
6.2. Tác động đến vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô 51

3
Đối với tỷ giá và thị trường ngoại hối 51
Về thâm hụt thương mại 52
Thâm hụt ngân sách 52
Nợ nước ngoài 53
Về kiềm chế lạm phát 54
6.3. Những tác động đến doanh nghiệp 54
6.4. Những tác động đến hộ gia đình 59
6.5. Tác động lên khu vực nông nghiệp, nông thôn 61
6.6. Tác động của gói kích cầu trong bảo đảm an sinh xã hội 65

6.7. Một số đánh giá định lượng ban đầu 68
III. Một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị 72
KẾT LUẬN 77


4
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới, tất cả các quốc gia đều không
tránh khỏi tác động bất lợi. Tuy nhiên các quốc gia khác nhau chịu tác động của
khủng hoảng không đồng đều bởi độ mở khác nhau của các nền kinh tế. Với
Việt Nam, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và an sinh
xã hội, Chính phủ đưa ra gói kích thích kinh tế với hàng loạt các chính sách
được ban hành. Với tư cách là đơn vị tham mưu cho Ủy ban Kinh tế của Quốc
hội- cơ quan thực hiện thẩm tra các Báo cáo của Chính phủ về kinh tế-xã hội,
Vụ Kinh tế nhận thấy tìm hiểu, nghiên cứu đánh giá tác động của gói kích thích
kinh tế tại Việt Nam là việc làm có ý nghĩa để cán bộ, chuyên viên của Vụ Kinh
tế có sự nhìn nhận tổng quan và có một số kiểm chứng lại quá trình tham mưu,
phục vụ Ủy ban Kinh tế có ý kiến về nội dung này. Từ một số lý do trên, với sự
hỗ trợ của Trung tâm nghiên cứu phát triển Canada, chúng tôi chọn chuyên đề
nghiên cứu là: “Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam”.
2. Mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài này có mục tiêu tổng quát tìm hiểu tổng quan về gói kích thích kinh
tế năm 2009, kết quả thực hiện các nhóm chính sách trong gói kích thích kinh tế,
từ thực trạng đó đưa ra nhận xét, kết luận.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với tính chất là một đề tài cấp cơ sở, đánh giá 1 chính sách đã được triển khai
nên đề tài chỉ không đề cập đến các vấn đề lý luận mà tập trung đi sâu phân tích tình
hình thực tế, nêu những nhận xét, đánh giá và từ đó đề xuất một số kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp tổng kết, phân tích thực tiễn;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp, khảo sát điều tra
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu
của đề tài gồm 3 phần, cụ thể như sau:
I. Tổng quan về gói kích thích kinh tế tại Việt Nam
II. Tác động của gói kích thích kinh tế đến nền kinh tế Việt Nam
III. Một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị

5
I. Tổng quan về gói kích thích kinh tế tại Việt Nam
1. Bối cảnh ban hành gói kích thích kinh tế của Việt Nam
1.1. Bối cảnh thế giới
Khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 2008 này bắt nguồn từ
khủng hoảng cho vay tín dụng nhà đất dưới chuẩn tại Mỹ vào tháng 7 năm 2007
và lên tới đỉnh cao trong năm 2008 khi một loạt định chế tài chính lớn của Mỹ bị
phá sản hoặc đứng trước bờ vực phá sản. Sau đó, cuộc khủng hoảng đã nhanh
chóng lan tới Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia khác trên thế
giới, đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc suy thoái trầm trọng nhất trong vòng
10 năm trở lại đây. Cuộc khủng hoảng đã làm thị trường chứng khoán toàn cầu
chao đảo, tỷ giá biến động; sự suy giảm tổng cầu và tiêu dùng dẫn tới giảm sản
lượng sản xuất công nghiệp, giảm thương mại quốc tế và dòng vốn đầu tư quốc
tế. Khủng hoảng cũng đã đẩy mức thất nghiệp lên cao tại các quốc gia phát triển,
cùng với đó là thu nhập bình quân đầu người giảm mạnh.
Hoa Kỳ được coi là điểm bắt đầu và cũng là trung tâm của cuộc khủng
hoảng. Cuộc khủng hoảng tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008
khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc
khủng hoảng tài chính, kinh tế trước đây như Ngân hàng đầu tư Lehman
Brothers, công ty bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ AIG, những tổ chức có ảnh hướng

lớn tới hệ thống tài chính ở Hoa Kỳ và khu vực EU cũng đứng trước bờ vực phá
sản. Sự kiện này đã đẩy giá của các công cụ tài chính như lãi suất liên ngân
hàng, giá CDS, lãi suất trái phiếu chính phủ và công ty lên cao bất thường với
biên độ dao động lớn.
1
Tuy nhiên, khi dòng thương mại toàn cầu và số lượng
vốn thực giảm đột ngột, các ngân hàng đã thắt chặt tiêu chuẩn cho vay, giá vốn
đã giảm mạnh. Điều này càng gây khó khăn hơn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ
cũng rơi vào tình trạng khó khăn, điển hình là cuộc khủng hoảng ngành chế tạo
ô tô Hoa Kỳ. Theo đó, hãng sản xuất xe ô tô lớn nhất Mỹ là GM đã gần như phải
tuyên bố phá sản. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, Chỉ số bình quân công nghiệp Dow
Jones sụt tới 20%, chỉ còn 6.547,05 vào lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009,
mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997.


1
Xem thêm trong WEO, tháng 4/2009, IMF

6


Giá trị sản xuất công nghiệp và tăng trưởng GDP toàn cầu so với cùng kỳ năm trước (%)


Nguồn: IMF-World Economic Outlook, tháng 1 năm 2009
Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hướng tới cả các quốc gia phát triển cũng
như đang phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp toàn cầu sụt giảm 8% trong
tháng 12 năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, trong đó, các quốc gia phát triển

có mức giảm tới gần 12%. Tốc độ tăng GDP toàn cầu bắt đầu đi xuống từ quý 3
năm 2007 và giảm mạnh nhất trong quý 4 năm 2008 và quý 1 năm 2009. Cụ thể,
kinh tế thế giới tăng trưởng ổn định ở mức xấp xỉ 5% trong năm 2007, giảm
mạnh chỉ còn 3,6% vào giữa năm 2008 và chỉ đạt -2,8% vào quý I năm 2009.
Các nền kinh tế phát triển là những nước chịu tác động nặng nề nhất của khủng
hoảng kinh tế khi GDP của các quốc gia này đã giảm tới -4,8% trong quý I 2009

7
so với cùng kỳ năm trước. Tại thời điểm cuối năm 2008, đầu năm 2009, hầu hết
dự báo của các chuyên gia kinh tế đều cho rằng tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp
tục diễn biến xấu trong năm 2009. Đầu năm 2009, WB đã dự báo kinh tế toàn
cầu sẽ giảm 3,1%, trong đó các quốc gia đang phát triển sẽ tăng trưởng 1,2%
trong năm 2009, từ mức 5,8% trong năm 2008. Tháng 1 năm 2009, IMF cũng hạ
mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2009 từ 2,2% vào tháng 10 năm
2008 xuống chỉ còn 0,5% năm 2009. Trong đó, các bạn hàng lớn của Việt Nam,
ngoại trừ Trung Quốc như Mỹ, EU, Nhật sẽ đều phải chịu mức tăng trưởng âm
trong năm 2008. Cuối năm 2008, trong World Economic Outlook, IMF đã hạ
mức dự đoán tăng trưởng trung bình của nhóm ASEAN 5 (bao gồm Philippines,
Indonesia, Malaysia, Singapore and Thái Lan) xuống còn 4,2 trong năm 2009,
giảm 0,7 % so với dự đoán trước đó do những tác động xấu của khủng hoảng
kinh tế ở các nước phương Tây.
Hình 1: Xuất khẩu toàn thế giới 2007-2010
(Đơn vị: Triệu USD, %)


Giá trị xuất khẩu được coi là một trong những thước đo hay được sử dụng
để đánh giá sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Tương tự như GDP, tốc độ
tăng giá trị xuất khẩu của thế giới bắt đầu sụt giảm từ cuối năm 2007 và giảm
mạnh nhất trong quý IV năm 2008, xuống chỉ còn -18%, từ mức gần 10% trước
giai đoạn khủng hoảng. Trong khi đó, xuất khẩu lần đầu tiên sau nhiều năm đã

giảm về mặt giá trị tuyệt đối vào quý III năm 2008 sau một thời gian dài liên tục
tăng. Cuối năm 2008, giá trị xuất khẩu toàn cầu đã giảm 15.000 tỷ USD, tương
đương với 15,5% so với cùng kỳ năm trước, thể hiện kinh tế thế giới đã bước
vào giai đoạn trầm trọng nhất của cuộc đại suy thoái.

8

Dòng vốn chảy vào các quốc gia đang phát triển được dự đoán sụt giảm
mạnh trong năm 2009, sau khi lên tới đỉnh vào đầu năm 2008. Các quốc gia mới
nổi ở châu Á và Trung Đông đang có thặng dư thương mại nên có thể dự đoán
dòng vốn này còn mang dấu âm do các quốc gia kể trên đẩy mạnh đầu tư ra
nước ngoài.
Suy giảm kinh tế thế giới đã làm số lượng việc làm giảm sút. Trong giai
đoạn khủng hoảng, các công ty phá sản hoặc thu hẹp sản xuất sẽ dẫn tới dư thừa
lao động. Điều này đồng nghĩa với số lượng việc làm giảm và tỷ lệ thất nghiệp
gia tăng. Từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng việc làm đã bắt đầu giảm ở cả Mỹ và
Nhật Bản. Đặc biệt là ở Mỹ, đến năm 2008, số lượng việc làm đã giảm tới 3,5%,
nâng tỷ lệ thất nghiệp lên con số 5,8% vào cuối năm 2008. Tỷ lệ thất nghiệp tính
đến cuối năm 2008 trên toàn thế giới là 30%.
2


Nguồn: IMF

2
Theo The World Fact Book 2008

9
1.2. Bối cảnh trong nước
Tăng trưởng kinh tế sụt giảm mạnh

Những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, tình hình kinh tế thế giới
đã có những biến động tiêu cực do khủng hoảng tài chính ở Mỹ và tình trạng
mất cân đối trên thị trường hàng hóa, nhất là giá dầu mỏ, lương thực, vật liệu
tăng cao, gây nhiều tác động đến kinh tế Việt Nam. Tháng 5 năm 2008, Quốc
hội quyết định điều chỉnh mục tiêu tổng quát từ “phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, chất lượng, bền vững…” sang “phấn đấu kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó
kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu” và điều chỉnh chỉ tiêu tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) từ 8,5-9% xuống còn 7%. Chính phủ đã nhanh chóng đưa
ra những biện pháp thích hợp: chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa
có kiểm soát. Lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu
đồng loạt được điều chỉnh tăng, trong đó lãi suất đã được nâng lên mức 14% vào
tháng sáu, từ mức 8.75% hồi đầu năm. Chính phủ cũng dự định cắt giảm chi tiêu
chính phủ 48 nghìn tỷ đồng, đồng thời hủy bỏ hoặc đình chỉ những dự án đầu tư
kém hiệu quả hay chưa thực sự cần thiết. Từ đó, đà gia tăng của lạm phát đã
được ngăn chặn: chỉ số giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm tăng ở mức trên 2%
một tháng (tháng 1: 2,38%, tháng 2: 3,56%; tháng 3: 2,99%; tháng 4: 2,2%;
tháng 5: 3,19%; tháng 6: 2,14%) đã được kéo giảm dần xuống mức 0,18% của
tháng 9 và đạt trị số âm trong 3 tháng cuối năm (tháng 10 âm 0,19%, tháng 11
âm 0,76%, tháng 12 âm 0,68%).
Tuy nhiên, những động thái trên cũng gây những tác động tiêu cực tới nền
kinh tế. Do tác động của các biện pháp kiềm chế lạm phát trong tháng ba năm
2008, tăng trưởng GDP đã chậm lại. So với cùng kỳ năm 2007, tăng trưởng
GDP trong quý I/2008 chỉ là 7,4% và đến quý II, chỉ còn 5,8%. Tình hình kinh
tế tài chính của Việt Nam bắt đầu diễn biến xấu từ quý IV năm 2008. Tăng
trưởng GDP quý IV năm 2008 và quý một năm 2009 lần lượt là 5,7% và 3,1%
so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất kể từ năm 2000. Tăng trưởng giá trị sản
xuất công nghiệp so với cùng kỳ năm trước cũng sụt giảm nghiêm trọng, từ
15,8% vào quý 3 năm 2008, xuống 14,1% vào quý 4 và chỉ còn 2,9% vào quý 1
năm 2009.






10

Cán cân thương mại
Bảng giá trị XNK (%)
6-08 7-08 8-08 9-08 10-08 11-08 12-08 1-09 2-09 3-09
XK so với tháng trước -4.4 0.8 -6.8 -11.9 -3.3 -4.8 16.2 -18.6 15.6 -6.5
XK so với cùng kỳ năm
trước 32.9 47.2 40.6 39.4 15.7 6.3 4.2 -28.5 -25.1 -3.7
NK so với tháng trước -11.3 1.8 -4.1 -7.6 5.2 -7.1 16.1 -27.6 32.1 2.7
NK so với cùng kỳ năm
trước 33.7 31.5 30 17.2 1.7 -13.8 -25 -55.2 -28.6 -46.7
Nhập siêu (xuất siêu) so
với tổng kim ngạch xuất
khẩu -49.8 -12.8 -36.8 -32.6 -13.7 -10.4 -10.2 10.54 -2.3 8.5
Nguồn: TCTK
Nền kinh tế VN phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nên khi kinh tế thế giới
gặp biến động và suy thoái thì xuất khẩu sẽ là kênh đầu tiên lan truyền các tác
động tiêu cực của khủng hoảng đến VN. Trên thực tế, ngay từ những tháng đầu
năm 2008, XK của VN sang thị trường lớn nhất là Mỹ đã có xu hướng giảm do
cầu tiêu dùng tại Mỹ suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính.
Trong 9 tháng đầu năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt
16,7%, thấp hơn nhiều so với mức 26,7% năm 2007. Theo đó, tỷ trọng thị
trường Mỹ cũng giảm 20,7% năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm
2008. Những dấu hiệu đáng lo ngại của suy giảm kinh tế biểu hiện rõ rệt trong
những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 thông qua kênh xuất khẩu. Nếu

như giá trị xuất khẩu tháng 9 năm 2008 tăng 11,9% so với tháng trước thì trong
tháng 10 và tháng 11, giá trị xuất khẩu giảm liên tiếp. Kim ngạch xuất khẩu
tháng 10 giảm 3,3% so với tháng 9 và tháng 11 giảm 44,8% so với tháng 10.
Kim ngạch XK trong tháng 1 năm 2009 đã giảm nghiêm trọng, chỉ đạt 3,8 tỷ
USD, giảm 18,6% so với tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm
trước, chủ yếu do sự giảm giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng cũng như nhu cầu
nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam của một số thị trường quan trọng giảm sút như
Mỹ, EU, Nhật Bản.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong năm 2008 đạt 80,4 tỷ USD, tăng
28,3% so với năm 2007 do giá cả hầu hết các mặt hàng nhập khẩu quan trọng
đều tăng như xăng dầu, sắt, phân bón và bột mỳ. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên
liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là một
trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư và sản xuất.
Nhập siêu trong năm 2008 tuy có giảm so với dự đoán nhưng vẫn rất cao,
vào khoảng 17,5 tỷ USD, tăng 24,1% so với 2007. Trong đó, nhập siêu từ thị
trường Trung Quốc là lớn nhất, với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với
năm 2007.
11


Hình: Nhập siêu các năm

Nguồn: Tổng cục thống kê
Đầu tư
Năm 2008, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn FDI kỷ lục, đạt hơn 64
tỷ USD, gấp gần lần so với năm 2007. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Tuy nhiên, theo đánh
giá của các chuyên gia, cơ hội để VN thu hút được lượng vốn FDI năm 2009
như năm 2007 và 2008 là không cao. Ước tính lượng vốn FDI đổ vào VN trong
năm 2009 chỉ là 30 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với năm 2008. Giải ngân vốn FDI

và ODA dự đoán cũng sẽ chậm lại trong năm 2009 do nguồn vốn đầu tư của các
tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển sẽ
được cân đối lại để bình ổn thị trường tài chính.
12

Bảng: Vốn đăng ký và thực hiện FDI 2008

Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế.
Những biến động trên thị trường chứng khoán sẽ phần nào phản ánh xu hướng
kinh tế trong thời gian tới. Trên thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián
tiếp vào VN suy giảm và đã có hiện tượng nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi
thị trường vào năm 2008. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô có chuyển biến tích
cực nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục sụt giảm. VN-index giảm
liên tục và lập đáy mới xuống dưới mức 350 điểm. Việc các nhà đầu tư nước
ngoài rút vốn khỏi thị trường cộng với diễn biến xấu của nền kinh tế thế giới đã
gây hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.
Bảng VN Index từ 10/2008-10/2009 HASTC index

Nguồn: Chứng khoán Trí Việt


13

Lao động, việc làm
Theo một số phân tích, từ những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009,
Việt Nam đã phải chịu những tác động của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, mà cụ
thể là trong nước sản xuất đình trệ, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng có dấu hiệu chậm
lại, dẫn tới sự dư thừa đáng kể năng lực sản xuất, trong đó đặc biệt nghiêm trọng
là dư thừa lao động. Theo một nghiên cứu của VietCapital, GDP suy giảm 1%

thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng 0.35%, theo đó nếu GDP 2009 chỉ còn khoảng 4,5%
(so với kế hoạch 6.5%) thì sẽ có thêm 300 nghìn người thất nghiệp.3 Tình trạng
mất việc làm ở VN trong năm 2009 dự đoán sẽ tiếp tục tăng nhanh, do lĩnh vực
xuất khẩu sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, thủy sản, mỹ nghệ và
tiểu thủ công nghiệp bị cắt giảm mạnh đơn hàng. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng có
thể sẽ gây ra nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng đáng lo ngại khác.
1.3. Gói kích thích kinh tế của một số nước
Trong bối cảnh suy giảm kinh tế như trên, các quốc gia trên thế giới đã
nhanh chóng đưa ra các biện pháp nhằm ngăn chặn đà suy thoái và khôi phục nền
kinh tế. Trong năm 2008 và 2009, Mỹ đã đưa ra 2 gói kích thích kinh tế, lần 1 vào
năm 2008, trị giá 152 tỷ USD nhằm mục đích kích cầu, đối tượng chính nhận
được trợ cấp là các cá nhân trong nền kinh tế. Gói kích thích kinh tế lần thứ 2
hướng tới đối tượng là các doanh nghiệp, trị giá 825 tỷ USD, nhằm mục đích giải
quyết tình trạng thất nghiệp cao tại Mỹ. Vào tháng 8 năm 2008, Nhật Bản cũng có
kế hoạch đưa ra gói kích thích kinh tế lần 1 để đối phó với khủng hoảng kinh tế
toàn cầu. Gói kích thích này trị giá khoảng 18-27 tỷ USD, chủ yếu nhằm hỗ trợ
người dân vượt qua tác động của giá cả hàng hóa tăng cao. Gói kích thích kinh tế
lần 2 cũng đã được chính phủ Nhật Bản thông qua đề giải quyết vấn đề tín dụng
và kích cầu. Chính phủ Trung Quốc cũng đã thông qua kế hoạch chi tiêu để kích
thích nền kinh tế trị giá 586 tỷ USD trong vòng 2 năm (mỗi năm tương đương
khoảng 7% GDP). EU tuy chậm hơn, nhưng cũng đã nhất trí đưa ra gói kích cầu
trị giá 200 tỷ EURO (tương đương 1.5% trị giá GDP của khối EU) nhằm chống
lại những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
4
Các nước
trong khu vực ASEAN cũng nhanh chóng đưa ra những biện pháp đối phó với
khủng hoảng của riêng mình. Ví dụ như Thái Lan đã thông qua gói kích thích
kinh tế trị giá 1,3 tỷ USD vào tháng 3/2008 và gói thứ hai trị giá gần 3 tỷ USD
vào tháng 12/2009. Dưới đây sẽ là chi tiết hơn về các gói kích thích kinh tế và tác
động của những gói kích thích kinh tế này ở một số nước tiêu biểu: Thái Lan,

Trung Quốc và Mỹ. Việc đưa ra những phân tích về các gói kích thích kinh tế ở

3
/>BB%A7a%20Kh%E1%BB%A7ng%20Ho%E1%BA%A3ng%20Kinh%20t%E1%BA%BF%20Th%E1%BA%B
F%20Gi%E1%BB%9Bi%20%C4%91%E1%BA%BFn%20Vi%E1%BB%87t%20Nam.pdf
4
Chi tiết về gói kích cầu của một số quốc gia khác xem phụ lục
14

các quốc gia này nhằm rút ra những bài học cho Việt Nam từ những nền kinh tế
tiêu biểu và những nền kinh tế có nhiều điểm tương đồng.
Thái Lan
Thái Lan chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thông
qua kênh thương mại quốc tế. Cuộc khủng hoảng làm giảm hoạt động xuất khẩu
của Thái Lan, kéo theo sản xuất giảm, việc làm giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia
tăng. Thu nhập giảm làm cho chi tiêu dùng cũng như chi đầu tư đều giảm. Cuộc
khủng hoảng kinh tế 2008 khác so với khủng hoảng châu Á 1997-1998 đối với
Thái Lan ở chỗ khu vực tài chính vẫn mạnh khỏe thể hiện ở tài sản vốn cao và tỷ
lệ nợ xấu thấp. Do đó, thách thức đối với chính phủ Thái Lan là ở kênh xuất
khẩu và đầu tư nước ngoài. Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Thái
đã thực thi 3 chính sách nhằm khôi phục lại niềm tin và kích thích tăng trưởng.
Đầu tiên là Chính phủ thực hiện hai gói kích thích cùng với các biện pháp thuế
trong những giai đoạn khác nhau. Gói kích thích thứ nhất là các biện pháp tức
thời với mục tiêu chống lại khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Gói kích thích này
chú trọng tới tăng tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu chính phủ, đầu tư tư nhân, hỗ trợ
xuất khẩu và du lịch, trong đó tập trung vào trợ giá cho hàng hóa tiêu dùng. Gói
kích thích thứ hai nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia của Thái Lan.
Gói kích thích thứ hai có mục tiêu trung và dài hạn là đạt được tốc tăng
trưởng kinh tế nhanh bằng tăng việc làm và đầu tư khu vực tư nhân. Nhờ đó,
năng lực cạnh tranh của Thái Lan được tăng cường thông qua hiệu quả của

chính sách tài khóa, các dự án có lợi ích kinh tế xã hội cao và củng cố niềm tin
đối với các dự án đầu tư tư nhân. Gói kích thích thứ hai5 có tên gọi là “Chương
trình hành động vì Thái Lan giàu mạnh 2009-2012” (THK). Mục tiêu chính của
các dự án trong gói kích thích thứ hai là: (1) tạo việc làm và cải thiện chất lượng
cuộc sống, (2) Phát triển dịch vụ công cộng cơ bản, (3) Lương thực và an ninh
năng lượng. Bên cạnh đó là các biện pháp hỗ trợ thuế của chính phủ.
Hiệu quả đầu tiên của gói kích thích thứ nhất cho thấy đà hồi phục kinh tế
có triển vọng của Thái Lan thông qua chi tiêu chính phủ. Gói kích thích thứ hai
đã đóng góp khá khiêm tốn vào tăng trưởng đầu tư công năm 2010, nhưng phần
lớn các khoản giải ngân là chi tiêu dùng. Ở Thái Lan, tác động tài khóa của các
gói kích thích là vào khoảng 1% GDP , thấp hơn so với ở các nước phát triển có
cơ cấu chính phủ lớn, và chi tiêu ảnh hưởng trực tiếp tới chu trình kinh tế (gần
2% ở nhóm G20).
Trung Quốc
Trung Quốc chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chủ

5
Chi tiết gói kích cầu thứ hai của Thái Lan: Bảng 2 phụ lục
15

yếu thông qua kênh xuất khẩu: giảm xuất khẩu dẫn tới giảm tăng trưởng GDP và
tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tăng trưởng GDP năm 2007 là 14,2% nhưng 3 quý đầu
năm 2008 chỉ lần lượt còn 10,6 %, 10,1% và 9%. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và tỷ
lệ thất nghiệp chính thức ở thành thị là 4% cao nhất kể từ năm 1980. FDI sụt
giảm -0,86% vào tháng 10/2008 và -36,52% tháng 11/2008. Xuất khẩu và nhập
khẩu cũng sụt giảm. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2008, tổng thương mại là 2 tỷ
USD, tăng 25,2%. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2008, xuất khẩu giảm -2,2%,
lần đầu tiên trong 7 năm và nhập khẩu giảm 17,9%. Cuối cùng, trước tình hình
đó, vào ngày 5/11/2008, Ủy ban Nhà nước Trung Quốc đã công bố chính sách
tài khóa mở rộng bằng đầu tư 4000 tỷ NDT6 để kích cầu trong nước và tăng

trưởng kinh tế.
Gói kích thích kinh tế của Trung Quốc chủ yếu hướng tới xây dựng cơ sở
hạ tầng (45% tổng gói kích thích 4 nghìn tỷ NDT, tương đương 1800 tỷ NDT)
và tranh thủ giải quyết các vấn đề xã hội mà chủ yếu là hậu quả của quá trình
phát triển quá nóng trong một thời gian dài (gần 700 tỷ NDT). Tuy nhiên, cần
lưu ý rằng thực sự giá trị gói kích thích kinh tế của Trung Quốc chỉ là 3 nghìn tỷ
NDT vì 1 nghìn tỷ NDT là để khắc phục thiên tai (chủ yếu là vụ động đất Tứ
Xuyên). Phần để khắc phục thiên tai thì dù không có suy thoái vẫn phải thực
hiện. Do đó, chính phủ Trung Quốc dường như muốn tăng hiệu quả tâm lý khi
lồng ghép vào gói kích thích kinh tế.
Chính sách tài khóa mở rộng đã kích thích tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc đầy ấn tượng. Cụ thể, GDP của Trung Quốc năm 2007 là 14,2%, năm
2008 là 9,8% và xuống mức thấp nhất là 9,2% vào năm 2009. Với gói kích thích
tài khóa, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã bật lên 10,3% vào năm 2010 và
được dự đoán sẽ vào khoảng 10% vào năm 2011. Thực tế, nền kinh tế Trung
Quốc đã hồi phục tốt hơn trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu so với trong
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. tăng trưởng GDP hàng năm.
Nguyên nhân là do Trung Quốc đã mạnh tay hơn trong việc sử dụng các công cụ
tài khóa nhắm kích thích tăng trưởng kinh tế năm 2008 so với năm 1998.






6
Nội dung chi tiết gói kích thích kinh tế Trung Quốc: phụ lục
16

Tỷ lệ tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng (%GDP) và GDP Trung Quốc từ năm 1978 đến 2009


Nguồn: Tổng cục thống kê Trung Quốc
Có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng của gói kích thích kinh tế của Trung
Quốc thông qua việc phân tích các yếu tố trong tổng cầu duy trì tăng trưởng
GDP. Hình chỉ ra tỷ lệ tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng so với GDP từ năm
1978 đến 2009. Tổng vốn đầu tư đã gia tăng ấn tượng sau khi thực hiện gói kích
thích tài khóa. Năm 2009 tỷ lệ đầu tư tăng lên 47.5% trong khi tỷ lệ tiêu dùng
giảm 48.7%. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, tỷ lệ tiêu dùng so với
GDP vẫn ổn định, tỷ lệ xuất khẩu ròng sụt giảm đáng kể. Như vậy, tỷ lệ đầu tư
tăng mạnh là yếu tố chính giữ cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc tiếp tục đi
với tốc độ nhanh. Rõ ràng, gói kích thích tài khóa của Trung Quốc là thực sự
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quốc gia này.
Mỹ
Như đã phân tích, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ sự bùng
nổ bong bóng thị trưởng nhà ở và nợ dưới chuẩn ở Mỹ. Vào cuối năm 2008, một
số các ngân hàng lớn và các công ty bảo hiểm đã tuyên bố phá sản hoặc yêu cầu
giải cứu tài chính. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng âm gần 8% từ tháng 11 năm
2008 đến tháng 5/2009, thất nghiệp tăng trên mức 9%, thị trường bất động sản
có dấu hiệu chạm đáy. Đặc biệt vào nửa cuối năm 2008, những bất ổn trên thị
trường tài chính Mỹ ngày càng lan rộng hơn, mở đầu là sự sụp đổ của ngân hàng
Lehman Brothers vào tháng 9/2008. Dòng tín dụng đóng băng, niềm tin của nhà
cho vay sụp đổ tại Mỹ và lan dần ra các nền kinh tế khác trên thế giới, đẩy toàn
cầu vào một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất trong lịch sử kể từ Đại suy
thoái năm 1930.
17

Đầu năm 2008, khi phải đối mặt với một nền kinh tế có chiều hướng đi
xuống như vậy, chính phủ Bush đã đưa ra gói kích cầu trị giá 152 tỷ USD và
được quốc hội Mỹ thông qua ngày 13/2/2008 (Đạo luật kích cầu kinh tế năm
2008 – The Economic Stimulus Act 2008). Gói kích cầu này tập trung chủ yếu

vào các lĩnh vực: Hoàn thuế cho các cá nhân người nộp thuế (khoảng 300
USD/người) ở mức thu nhập thấp; trợ cấp cho trẻ em dưới 17 tuổi 300 USD/trẻ
em; ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp; ưu đãi cho phép khấu hao nhanh
đối với doanh nghiệp; hỗ trợ người gặp khó khăn trong cuộc khủng hoảng nợ
dưới chuẩn. Sau đó, vào năm 2009, chính phủ Mỹ lại tiếp tục đưa ra gói kích
thích kinh tế thứ hai trị giá 787 tỷ USD. Gói kích thích này tập trung vào:hỗ trợ
các doanh nghiệp để tạo thêm 2,5 triệu công ăn việc làm thông qua một số biện
pháp như cho các doanh nghiệp nợ thuế khoảng 3000 USD đối với mỗi lao động
thuê mới; xóa bỏ thuế đối với lãi trên vốn cho các doanh nghiệp SME, đầu tư
vào công trình công cộng (công nghệ cao, băng thông rộng, y tế, đường xá, các
tiện ích công cộng v.v.v); hỗ trợ các gia đình khó khăn (giảm thuế cho các cá
nhân và gia đình), nâng bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ các chủ sở hữu nhà gặp khó
khăn; và quỹ dự trữ chống khủng hoảng tài chính.
Thay đổi trong tăng trưởng GDP (Quý 2 năm 2010 so với quý 2 năm 2008)

Nguồn: IMF
Các gói kích cầu của chính phủ Mỹ đã đem lại những hiệu quả tích cực
cho nền kinh tế Mỹ thoát khỏi khủng hoảng. Tăng trưởng GDP cao hơn 1,9%
trong nửa cuối năm 2009, so với mức sụt giảm 3,7% cùng kỳ năm trước và tiếp
tục tăng 0,7% quý 1 năm 2010. Kết quả này là sự phục hồi mạnh mẽ trong các
yếu tố cấu thành GDP. Tiêu dùng tăng mạnh trong quý 3 năm 2009 nhờ vào
chương trình hỗ trợ “tiền mặt cho đồng nát”, đóng góp tới ¾ điểm tăng trưởng.
Đầu tư nhà ở tăng mạnh trong quý 1 năm 2010 nhờ có chương trình hỗ trợ tài
18

chính và giảm thuế khi mua nhà, trái ngược lại với đà sụt giảm liên tục trong 15
quý. Rõ ràng, sự khôi phục kinh tế Mỹ là tương đối mạnh hơn so với các nước
phát triển khác.
2. So sánh về điều kiện kinh tế và các gói kích thích kinh tế ở một số
nước và kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới, tất cả các quốc gia đều không
tránh khỏi vòng xoáy của sự suy thoái này. Tuy nhiên các quốc gia khác nhau
chịu tác động của khủng hoảng không đồng đều bởi độ mở khác nhau của các
nền kinh tế. Bảng dưới đây cho thấy sự khác nhau về bối cảnh vĩ mô của một số
nền kinh tế phát triển như Mỹ, Hàn Quốc và các nước đang phát triển ở châu Á
có điều kiện tương đồng với Việt Nam như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc
khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và yêu cầu cấp thiết phải có gói
kích thích kinh tế đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

Bảng: Một số chỉ tiêu vĩ mô của các nền kinh tế năm 2008
Việt Nam

Hàn
Quốc
Thái Lan Trung
Quốc
Mỹ
Tăng trư
ởng GDP (%)

6,3

2,3

2,5

9,6

-
0,00075


Lạm phát(%) 23,1 4,7 5,5 5,86 3,8
Thâm h
ụt t
hương m
ại(%GDP)

-
14

0,6

0,0396

8

-
5,9

Cán cân tài khoản vãng lai
(%GDP)

-13,3 -0,62 0,8 9,6 -4,6
Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2,38 3,2 1,4 4,2 5,8
Thâm hụt ngân sách (%GDP) -5,9 1,2 -0,6 -0,4 -5,9
Nợ công (%GDP) 52,6 33,4 24 18,9 54,6
Nguồn: IMF, ADB
Có thể thấy rằng bối cảnh vĩ mô của các nước khi xảy ra khủng hoảng
kinh tế có sự khác nhau giữa nhóm nước phát triển và đang phát triển. Đối với
các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật Bản, EU… những bất ổn vĩ mô bắt

nguồn từ khu vực tài chính, khi các dòng tín dụng đóng băng, niềm tin của nhà
đầu tư sụp đổ từ Mỹ và ảnh hưởng liên đới tới các quốc gia phát triển khác
thông qua hệ thống tài chính kết nối chặt chẽ với Mỹ. Như vậy, các gói kích
thích kinh tế ở các nước này chủ yếu hướng tới khu vực tài chính để cứu trợ hệ
thống không bị sụp đổ. Đối với các nước đang phát triển ở châu Á như Việt
Nam, Thái Lan, Trung Quốc, khủng hoảng kinh tế thế giới tác động mạnh tới
các quốc gia này thông qua trước hết là kênh xuất khẩu và tiếp theo là kênh đầu
tư nước ngoài. Thị trường thế giới gặp khó khăn khiến cho cầu xuất khẩu giảm,
FDI giảm, khiến cho hoạt động sản xuất trong nước giảm, thất nghiệp tăng và
cầu tiêu dùng trong nước giảm. Do đó, chính phủ các nước này cần có chính
sách hỗ trợ vào khu vực xuất khẩu và sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
19

Đối với một số nước như Mỹ và EU, thì gói kích cầu được hiểu là gói
kích thích kinh tế sử dụng các biện pháp tài khóa (bao gồm tăng chi tiêu của
chính phủ và cắt giảm thuế). Điều này là do thông thường khi nền kinh tế gặp
khó khăn, thì các nước này thường hay sử dụng công cụ kinh tế là chính sách
tiền tệ (điều chỉnh lãi suất cho vay, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở), và chỉ
cân nhắc sử dụng chính sách tài khóa khi chính sách tiền tệ dường như không
còn tác dụng, hoặc không thể thực hiện được (ví dụ như khi lãi suất đã giảm
xuống rất thấp). Nhưng với một số nước đang phát triển thì gói kích thích kinh
tế lại được thực hiện đồng thời cùng với chính sách tiền tệ như một số chính
sách khác.
Một điều có thể nhận thấy là các nước như đã nghiên cứu ở trên thực hiện
các gói kích thích kinh tế khá bài bản và có nhiều điểm tương đồng. Mục tiêu
chính của các gói này đều là tăng tổng cầu trong nền kinh tế và tạo ra nhiều công
ăn việc làm. Có thể chia các gói kích thích kinh tế các nước này thành 3 nhóm
biện pháp cơ bản hướng vào các đối tượng khác nhau:
(i)Nhóm biện pháp kích thích tiêu dùng của người dân: Nhóm biện pháp
mà các nước thường sử dụng là tiến hành trợ cấp cho dân trực tiếp hoặc miễn,

giảm, hoàn thuế cho dân.
(ii) Nhóm biện pháp kích thích đầu tư đối với doanh nghiệp: Thông
thường các biện pháp kích thích tăng đầu tư đối với khu vực doanh nghiệp được
thực hiện thông qua việc giảm thuế dưới nhiều hình thức cho các doanh nghiệp –
không trợ cấp hoặc cấp vốn trực tiếp. Tuy nhiên, tiến hành kích cầu đối với nền
kinh tế trong ngắn hạn thông qua các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp
thường rất khó khăn. Điều này là do các doanh nghiệp sẽ chỉ tiến hành mua sắm,
đầu tư, thuê tuyển thêm nhân công mới nếu như họ thấy có lợi, thấy có cầu đối
với hàng hóa mà họ sản xuất ra, chứ không chỉ dựa trên các khuyến khích về
thuế, hay ưu đãi về lãi suất.
(iii) Nhóm biện pháp kích thích đầu tư của chính phủ: Các hạng mục đầu
tư của chính phủ để kích cầu thường là các gói đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công
trình công cộng, giao thông, đường xá, y tế, giáo dục, hỗ trợ chính quyền địa
phương qua việc giảm thuế. Ngoài ba nhóm ở trên, tại một số nước còn kết hợp
một số chính sách cụ thể như tạo điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư
nước ngoài, trợ cấp xuất khẩu sang thị trường mới.
Bên cạnh việc cân nhắc các yếu tố tạo nên một gói kích thích hiệu quả và
nhóm các biện pháp kích thích theo đối tượng, một đặc điểm khác cần chú ý
xem xét đến là quy mô nền kinh tế để lựa chọn chính sách hỗ trợ cho phù hợp.
Là một nền kinh tế nhỏ với tỷ giá hối đoái cố định và thâm hụt ngân sách lớn,
những lựa chọn chính sách của Việt Nam bị hạn chế hơn rất nhiều so với các
20

nền kinh tế lớn khác như Mỹ, Nhât, Trung Quốc. Cụ thể, với Trung Quốc, việc
thực hiện gói kích thích lớn là hợp lý vì họ có xuất phát điểm mạnh hơn Việt
Nam. Trung Quốc có thặng dư thương mại khổng lồ trong khi Việt Nam thâm
hụt thương mại nặng nề. Gói kích thích kinh tế của Trung Quốc chủ yếu đi vào
nền kinh tế nội địa trong khi vì tỷ lệ nhập khẩu trên GDP của họ nhỏ hơn nhiều
so với Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, các biện pháp kích thích kinh tế của
Việt Nam sẽ gia tăng lạm phát và tăng thâm hụt thương mại. Việt Nam cũng khó

có thể tài trợ cho thâm hụt thương mại lớn trong năm 2009 do sự suy giảm của
xuất khẩu và vốn FDI. Chính vì thế, việc đưa ra gói kích thích kinh tế như thế
nào cho hợp lý là bài toán mà các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần chú
ý cân nhắc. Nhìn chung có một số nguyên tắc cần phải tuân theo nhằm đạt được
hiệu quả của gói kích thích kinh tế mà Việt Nam cũng cần tuân theo. Theo
Lawrence Summers
7
, việc sử dụng các gói kích thích kinh tế phải đảm bảo:
o Kịp thời: Phải thực hiện ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất,
các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Đặc biệt là sự xác định thời điểm
chuyển giao trong chu kỳ kinh doanh.
o Đúng đối tượng: là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh
hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác
động lan tỏa tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế
nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế. Thông thường các nhà
hoạch định thường dựa vào mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả
của gói kích cầu qua các mục tiêu khác nhau để tìm ra các mục tiêu hợp lý
nhất.
o Vừa đủ: tức là kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn.
Nếu kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi, khiến gói kích cầu trở nên
lãng phí. Ngược lại, gói kích cầu quá lớn sẽ tạo ra tác động kéo dài, làm
nền kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên.
Như vậy với kinh nghiệm so sánh và các nguyên tắc kích cầu như đã nêu
tại thời điểm cuối năm 2008, Việt Nam có thể hoạch định một hệ thống chính
sách thích hợp nhằm ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, trọng tâm đúng vào nhóm
đối tượng cần thiết, như vậy, vừa có thể thực hiện ngăn chặn suy giảm kinh tế,
vừa có thể tận dụng các nguồn lực cần thiết để giải quyết một số vấn đề xã hội
trong khủng hoảng.
Tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường những
tháng cuối năm 2008 và những tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính và

suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm

7
Theo các bài viết của Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (Congressional Budget Office- 2008), và của Chad
Stone and Kris Cox (2008)
21

sút, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và đời sống nhân dân. Trước tình hình đó,
Quốc hội, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách là phải tập trung
mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã
hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở mức khoảng 6,5%. Trên thực tế,
các chính sách của Việt Nam nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế cũng đã được
đưa ra bắt đầu từ những động thái chuyển hướng của chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa từ thắt chặt sang nới lỏng kể từ tháng 10 năm 2008. Thực hiện các
kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và của
Quốc hội và tiếp theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008, Chính phủ
đã ban hành hàng loạt các chính sách cụ thể về những giải pháp cấp bách nhằm
ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Để thực
hiện các chính sách kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã
dự kiến nguồn lực thực hiện là khoảng 145,6 nghìn tỷ đồng, tương đương với
khoảng trên 8 tỷ USD để sử dụng cho năm 2009 và một số năm sau, trong đó:
(1) Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17 nghìn tỷ đồng (1 tỷ USD); (2)
Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng; (3) Thực hiện
chính sách miễn giảm thuế khoảng 28 nghìn tỷ đồng; và (4) Các khoản chi khác
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 9,8 nghìn tỷ
đồng.
Cụ thể về các biện pháp kích thích kinh tế của Việt Nam được trình bày
trong phần dưới đây.
3. Ưu tiên và các giải pháp then chốt trong gói kích thích kinh tế của

Việt Nam
3.1. Ưu tiên và định hướng cho các giải pháp
Trước hết là về chính sách tiền tệ và tỷ giá. Nếu như chính sách tiền tệ
được thắt chặt vào tháng 3 năm 2008 thì đến thời điểm cuối năm, chính sách tiền
tệ nới lỏng lại là công cụ trước tiên được áp dụng trong số những biện pháp
nhằm đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Lãi suất cơ bản đồng
Việt Nam đã được cắt giảm liên tục từ mức 14% xuống chỉ còn 7% với những
động thái đầu tiên từ ngày 01/10/2008. Việc giảm lãi suất này nhằm mục tiêu
kích thích đầu tư trên mặt bằng chung đối với mọi đối tượng trong nền kinh tế,
và giảm lãi suất theo đó cũng là cơ sở để các gói kích thích kinh tế (chính sách
tài khóa) có khả năng phát huy tác dụng mạnh hơn
8
. Tiếp theo là việc điều chỉnh
biên độ tỷ giá cho phép đồng việt Nam được biến động linh hoạt hơn, cụ thể
trong giai đoạn đó là để cho tiền đồng xuống giá, từ đó thúc đẩy xuất khẩu, hỗ

8
Ví dụ như chính sách hỗ trợ lãi suất 4% trên cơ sở mức lãi suất cơ bản là 7% đã giảm được chi phí vốn cho
doanh nghiệp rất nhiều
22

trợ về mặt cầu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Về mặt chính sách tài khóa nới lỏng - gói kích thích kinh tế, do độ trễ
trong quá trình lập chính sách nên không thể nhanh chóng như chính sách tiền
tệ, chính sách tài khóa của Việt Nam được đưa ra sau khi đã có sự điều chỉnh
của những chính sách kia. Trong mục tiếp theo, nhóm chúng tôi nêu lên các
quyết định chính sách ban đầu và những điều chỉnh để thấy được sự thay đổi rõ
hơn trong những ưu tiên và giải pháp trong quá trình thực hiện.
Có thể coi bắt đầu của gói kích thích kinh tế của Việt Nam là từ Nghị
quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của chính phủ với những định hướng

giải pháp và một số chính sách cụ thể nhằm kích cầu.
a) Về chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất đối với các tổ
chức, cá nhân vay vốn tại ngân hàng thương mại (NHTM) và công ty tài chính,
bao gồm: (1) Hỗ trợ lãi suất với mức 4% cho các khoản vay vốn lưu động của
các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế với thời gian hỗ trợ trước
31/12/2009 (theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 và các văn bản
khác có liên quan); (2) Hỗ trợ lãi suất với mức 4% cho các khoản vay vốn trung,
dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh với thời hạn hỗ trợ không quá
24 tháng và trước 31/12/2011 (theo Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009);
(3) Thực hiện hỗ trợ lãi suất các khoản vay mua máy móc thiết bị (tối đa là 24
tháng), vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực
nông thôn (tối đa là 12 tháng), áp dụng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín
dụng được ký kết, giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 5 đến ngày
31/12/2009 (theo Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009). Ngoài ra, cơ chế
hỗ trợ lãi suất cũng được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn tại Ngân
hàng Phát triển Việt Nam và Quỹ Đầu tư phát triển địa phương (văn bản số
670/TTg-KTTH ngày 05/5/2009); vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính
sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội (Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày
06/5/2009).
b) Về vốn đầu tư phát triển của Nhà nước
Trong năm 2009, đã bổ sung thêm các nguồn vốn của Nhà nước như sau:
(1) Tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư XDCB ứng trước
Tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008, Chính phủ đã chỉ
đạo tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch
năm 2009, trừ các khoản đã được tạm ứng năm 2009 cho các công trình hoàn
thành trong năm 2008, nhằm phục vụ thực hiện mục tiêu kích cầu đầu tư và khắc
phục tình trạng tồn đọng vật liệu từ những tháng cuối năm 2008. Tổng số vốn
23


ứng trước được hoãn thu hồi là 3,4 nghìn tỷ đồng (Quyết định số 239/QĐ-TTg
ngày 20/02/2009).
(2) Ứng trước vốn ngân sách nhà nước
Theo các kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương và của Quốc hội, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008
và các Nghị quyết khác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép ứng
trước vốn ngân sách nhà nước để thực hiện một số nhiệm vụ đầu tư như sau:
Ứng trước vốn kế hoạch năm 2010, 2011 cho các chương trình, dự án:
- Vốn ứng trước đến ngày 30/6/2009: 15.492 tỷ đồng, bao gồm vốn ứng
trước cho các dự án cấp bách (giao thông, thủy lợi, ) và thực hiện Chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; trong đó: Vốn ứng trước
cho các cơ quan Trung ương là 9.467 tỷ đồng, địa phương là 6.025 tỷ đồng.
- Vốn ứng trước theo Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 01/7/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ứng trước vốn dự toán NSNN năm 2010, 2011 để bổ
sung vốn cho các dự án quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành trong các
năm 2009, 2010: 12.627 tỷ đồng (không kể vốn hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ
nghèo); trong đó: Vốn ứng trước cho các cơ quan Trung ương là 4.504 tỷ đồng,
địa phương là 8.123 tỷ đồng.
Ứng trước vốn cho các nhiệm vụ khác:
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các khoản ứng trước để tăng kinh phí kiên
cố hóa kênh mương, đầu tư hạ tầng làng nghề, hạ tầng thuỷ sản 3.000 tỷ đồng;
hỗ trợ vốn xây dựng nhà ở cho hộ nghèo 1.000 tỷ đồng; cấp bù chênh lệch lãi
suất 2.500 tỷ đồng; bổ sung vốn điều lệ Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương
500 tỷ; hỗ trợ các doanh nghiệp để duy trì lao động, mở rộng sản xuất và xuất
khẩu 1.000 tỷ đồng, Tổng số vốn ứng trước cho các nhiệm vụ nêu trên khoảng
9.000 tỷ đồng.
Như vậy, tổng số vốn ứng trước NSNN để thực hiện một số nhiệm vụ đầu
tư khoảng 37,1 nghìn tỷ đồng. Nếu trừ số vốn ứng thông thường như các năm
trước thì tổng số vốn ứng trước trong gói kích thích kinh tế khoảng 21,1 nghìn tỷ
đồng; ước thực hiện trong năm 2009 khoảng 18,2 nghìn tỷ đồng.

(3) Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép kéo dài thời
gian giải ngân vốn ngân sách Nhà nước kế hoạch năm 2008 đến hết tháng 6 năm
2009 với số vốn NSNN khoảng 22,5 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn trái phiếu Chính
phủ kế hoạch năm 2008 được phép chuyển nguồn sang năm 2009 khoảng 7,2 nghìn
tỷ đồng.
24

(4) Phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ
Được phép của Quốc hội tại Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày
19/6/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1297/QĐ-TTg ngày
20/8/2009 về việc giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009
cho các bộ và địa phương với tổng số vốn là 20.000 tỷ đồng, trong đó bố trí cho
ngành giao thông vận tải 8.600 tỷ đồng, ngành thủy lợi 4.400 tỷ đồng, các dự án
bệnh viện đa khoa tuyến huyện và các bệnh viện tuyến tỉnh theo Nghị quyết số
18/2008/QH12 của Quốc hội 2.000 tỷ đồng, các dự án thuộc Chương trình kiên
cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên 1.500 tỷ đồng, các dự án ký
túc xá sinh viên 3.500 tỷ đồng
9
.
c) Thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế
Để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và kích cầu tiêu dùng, Chính
phủ đã thực hiện gói kích thích kinh tế thông qua các biện pháp giảm, giãn thuế
thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT),… nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất, kích thích đầu tư; miễn thuế thu nhập
cá nhân (TNCN) đối với một số đối tượng trong 6 tháng đầu năm 2009; giảm thuế
thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất;
giảm phí trước bạ,…
Ngoài ra, thực hiện giảm, giãn thời gian nộp thuế GTGT đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu năm 2009 khoảng 7.000 tỷ đồng, trong đó: giảm thu do giảm

thuế 50% tại khâu nhập khẩu ước khoảng 5.000 tỷ đồng; giãn nộp thuế 180 ngày
đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng loại trong nước chưa
sản xuất được ước khoảng 2.000 tỷ đồng.
d) Các khoản chi khác nhằm góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo
đảm an sinh xã hội
Chính phủ đã cho phép tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng dầu, dự
kiến tổng nguồn vốn cho nhiệm vụ này khoảng 2.800 tỷ đồng (trong đó mua gạo
là 1.300 tỷ đồng; xăng dầu là 1.500 tỷ đồng).
Chính phủ cũng cho phép ứng chi để thực hiện các nhiệm vụ chi thường
xuyên nhằm đảm bảo an sinh xã hội phát sinh ngoài dự toán như: hỗ trợ kinh phí
cho hộ nghèo ăn Tết Kỷ Sửu 2009, hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn do suy giảm
kinh tế (trả lương công nhân, đóng bảo hiểm xã hội, ); hỗ trợ thay thế xe công
nông, xe cơ giới 3 bánh; kinh phí khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
khoảng 7.000 tỷ đồng.

9
Riêng các dự án này thực hiện theo Quyết định số 1308/QĐ-TTg ngày 20/8/2009 về việc phê duyệt
danh mục dự án phát triển nhà ở sinh viên bằng nguồn trái phiếu Chính phủ.
25

Trên tinh thần như vậy, nghị quyết 30 và cả những chính sách sau này đã
đưa ra (kể cả Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP), các gói chính sách kích thích kinh
tế tập trung vào các công cụ như: (i) công cụ lãi suất của chính sách tiền tệ với
gói chính sách hỗ trợ lãi suất (cụ thể hóa bởi các Quyết định số 131/QĐ-TTg
ngày 23/01/2009, Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009 và Quyết định số
579/QĐ-TTg ngày 06/5/2009); công cụ sử dụng chi tiêu chính phủ với (ii) nhóm
chính sách về đầu tư công (cụ thể hóa ở các Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày
20/02/2009 , Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 01/7/2009, và Quyết định số
1297/QĐ-TTg ngày 20/8/2009), (iii) nhóm chính sách về thuế (cụ thể trong nghị
quyết 30 ngày 11 tháng 12 năm 2008) các và (iv) nhóm chính sách về chi cho an

sinh xã hội (tiêu biểu là nghị quyết 30a ngày 27 tháng 12 năm 2008 về giảm
nghèo nhanh và bền vững). Cơ cấu chi cho các nhóm hỗ trợ này như sau:

TT Danh mục
Tổng số tiền gói kích thích kinh
tế (tỷ đồng)
Dự kiến ban
đầu
Số thực tế (1)

T
ổng số

145.600

122.000

1.

Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng 17.000

18.000 (2)

2.


V
ốn đầu t
ư phát tri
ển của Nh

à nư
ớc

90.800

74.200


- Tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư XDCB ứng trước
năm 2009


3.400


- Ứng trước ngân sách để thực hiện một số nhiệm
v
ụ đầu t
ư quan tr
ọng, cấp bách


21.100


- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008
sang năm 2009

30.200


29.700

+ Vốn đầu tư thuộc NSNN 23.000

22.500



+ V

n trái phi
ếu Chính phủ

7.200

7.200

- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ 20.000

20.000

3.

Thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế 28.000

20.000

- Giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp

9.900


- Giảm thuế giá trị gia tăng

4.470

- Miễn thuế thu nhập cá nhân

4.507

- Giảm thu lệ phí trước bạ

1.140

4.

Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội
9.800

9.800


Xét về quy mô gói kích thích kinh tế, tổng giá trị gói kích thích kinh tế
của Việt Nam dự kiến là 145,6 nghìn tỷ đồng, sau đó với những chính sách cụ
thể được ban hành thì con số này là 122 nghìn tỷ đồng, tương ứng với 8,21%
GDP năm 2008. Tuy nhiên, cần lưu ý có một số khoản trong báo cáo về quy mô
gói kích cầu là không có sự tách biệt giữa sử dụng vốn và nguồn vốn. Trên thực
tế các khoản tạm hoãn thu hồi vốn xây dựng cơ bản năm 2008 là những khoản
đã ứng trước và không thể biết được việc sử dụng lượng vốn đó như thế nào,

×