Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 82 trang )





Báo cáo tốt nghiệp

Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội”
mục lục
Báo cáo tốt nghiệp 1
Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” 1
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1 8
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại 8
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 9
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn 10
Vốn chủ sở hữu 10
Vốn nợ 10
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn 11
Dự trữ 11
Cho vay 11
Đầu tư 12
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và
nhỏ 14
1.2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ 14
1.2.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ 15
Điểm mạnh của DNVVN 15
Hạn chế 16
1.2.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế 17
1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của


ngân hàng thương mại 20
1.2.2.1 Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
ngân hàng thương mại 20
1.2.2.2 Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 21
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ 25
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại 26
1.3.2.1 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trong hoạt
động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 26
1.3.2.2 Lãi thu được từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
27
1.3.2.3 Thu nhập từ hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ 28
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại 28
CHƯƠNG 2 37
2.1 Khái quát về ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội 37
2.1.1 Lịch sử hình thành và hoạt động 37
2.1.2 Cơ cấu tổ chức 39
2.1.3 Tinh hình hoạt động kinh doanh của Habubank 40
Bảng 2.1: Cơ cấu vốn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 41
Đơn vị tính: Triệu đồng 41
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn năm 2007của Habubank 43
Bảng 2.2: Tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 43
Đơn vị: Triệu đồng 43
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà
Hà Nội 46
Đơn vị: Triệu đồng 46
2.2 Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội trong thời gian
qua 47
2.2.1 Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 47
Bảng 2.4 : Dư nợ cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng TMCP Nhà
Hà Nội 48
Đơn vị: Tỷ đồng 48
Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNVVN của Ngân
hàng TMCP Nhà Hà Nội 49
Bảng 2.5 Dư nợ cho vay DNVVN theo kỳ hạn của Habubank 51
Đơn vị: Tỷ đồng 51
Biểu đồ 2.3 Thay đổi trong tỷ trọng cho vay DNVVN của Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội theo kỳ hạn qua các năm 52
Bảng 2.6 Dư nợ cho vay DNVVN phân theo ngành kinh tế 52
Đơn vị: % 52
2.2.2 Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 53
2.2.2.1 Thực trạng nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của DNVVN
53
Bảng 2.7 Nợ quá hạn của các DNVVN của Habubank 53
Đơn vị: Tỷ đồng 54
2.2.2.2 Lãi thu được từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ 55
Bảng 2.8 Tỷ trọng lãi thu được từ cho vay DNVVN của Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội 55
2.2.2.3 Thu nhập từ hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ 56
Bảng 2.9 Tỷ trọng thu nhập từ cho vay đối với DNVVN trong tổng thu
nhập của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 56
2.3 Đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 57
2.3.1 Điểm mạnh 57
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 58

2.3.2.1 Hạn chế 58
2.3.2.2 Nguyên nhân 59
CHƯƠNG 3 63
3.1.1 Định hướng phát triển chung 63
3.2.1 Xây dưng chính sách tín dụng linh hoạt, phù hợp với đối tượng
khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ 66
3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 68
3.2.3 Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát sau cho vay 69
3.2.4 Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin 70
3.2.5 Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ 71
3.2.6 Đẩy mạnh hoạt động Marketing Ngân hàng 72
3.2.7 Hiện đại hoá trang thiết bị, phát triển công nghệ ngân hàng 72
3.3 Kiến nghị 73
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ 73
3.2.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 73
3.3.3 Kiến nghị với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 74
KẾT LUẬN 75
Danh mục tài liệu tham khảo 80
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 81


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm trở lại đây, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã không ngừng phát
triển cả về số lượng và chất lượng hoạt động kinh doanh và ngày càng khẳng định
những đóng góp quan trọng của mình vào sự phát triển kinh tế đất nước. Với nhiều đổi
mới trong các chính sách, Chính phủ đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, nhu cầu
vốn để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn. Chính vì vậy, đối với các ngân hàng doanh nghiệp vừa và
nhỏ được đánh giá là đối tượng tiềm năng lớn, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tăng

lợi nhuận, mở rộng thị trường. Tuy nhiên, một thực tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng cũng
như việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay. Ngoài ra, bản thân các ngân hàng cũng
còn nhiều hạn chế trong công tác cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thấy được tầm quan trọng và tiềm năng lớn từ đối tượng khách hàng là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong những năm gần đây, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã
chú trọng hơn đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đến bộ phận khách
hàng này. Tuy nhiên, dù đã có được nhưng kết quả nhất định nhưng chất lượng cho vay
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội vẫn còn
những mặt hạn chế. Sau quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, qua việc
tìm hiểu và nghiên cứu thực tế công việc tại Ngân hàng, đề tài “Nâng cao chất lượng
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” đã
được chọn làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 phần chính:
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI














CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một
kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết tới tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiện lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế, hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đều gửi tiền tại
ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Hoạt động của ngân hàng góp
phần to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ
trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Các ngân hàng có
thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Đứng trên mỗi khía cạnh khác nhau thì có những định nghĩa khác nhau về
ngân hàng.
Xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung
cấp, có khái niệm về ngân hàng thương mại: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Dựa trên các hoạt động chủ yếu, theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngân hàng được định nghĩa: “hoạt động ngân hàng là

hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng là với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng thương mại. Đây là
hoạt động đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động khởi đầu, tạo nền móng cho mọi hoạt động của
ngân hàng thương mại. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.
Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa
cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn mà
ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng vì nó phản ánh năng
lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là
cơ sở để ngân hàng tiến hàng kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay.
Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính
của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Tuỳ theo tính chất sở hữu,
vốn chủ sở hữu có thể do ngân sách Nhà nước cấp, do các cổ đông đóng góp thông qua
mua cổ phần hoặc cổ phiếu, do các bên liên doanh góp hay vốn thuộc sở hữu tư nhân;
ngoài ra còn có các nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ, nguồn vay
nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ
Vốn nợ của ngân hàng thương mại có thể được huy động dưới nhiều hình thức
khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín dụng khác
dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn hay các loại tiền gửi khác;Vay
trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu);
Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, vay vốn ngắn hạn ngân hàng Nhà nước và các
hình thức huy động khác như các nguồn từ uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các
nguồn khác.

Trong các nguồn vốn huy động, tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động,
nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách
hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của
dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các ngân hàng đã không ngừng gia
tăng lượng tiền gửi cũng như chất lượng tiền gửi bằng cách đưa ra và thực hiện nhiều
hình thức huy động khác nhau.

1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn phải
sử dụng vốn đó sao cho có mức sinh lời cao nhất. Việc sử dụng vốn chính là quá trình
tạo nên các nguồn tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai
loại tài sản lớn và quan trọng. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm:
Dự trữ, cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ của NHTM là những khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm
duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Dự trữ của ngân hàng bao
gồm: tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW, tiền gửi các tổ chức tài chính khác. Dự trữ
ngân hàng sinh lời rất thấp, song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng được nhu cầu chi
trả thường xuyên của NHTM, giúp các NHTM tranh nguy cơ phá sản.
Cho vay
“Cho vay là hoạt động theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc
hoàn trả gốc và lãi”.
Thời gian nhất định ở đây được hiểu là thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay là
khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm
trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức
tín dụng và khác hàng.
Cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng của NHTM. Mục tiêu của ngân

hàng thương mại là lợi nhuận, vì thế, để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng thương mại
cần phải cho vay. Hoạt động này đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng nói riêng
và với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế nó thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần kinh tế, góp phần cung cấp kịp thời vốn cho sản xuất và kinh doanh cũng
như cung cấp vốn cho các cá nhân tiêu dùng hay cho Chính phủ để đầu tư phát triển đất
nước. Với các NHTM, cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất cho ngân hàng. Đây là
loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM.
NHTM thể cho vay dưới nhiều phương thức khác nhau như: thấu chi, cho vay
trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho
vay gián tiếp. Ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống; cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Đầu tư
Là đơn vị kinh doanh tiền tệ nên NHTM là người nắm vững các thông tin cũng
như tình hình kinh tế khá rõ nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có hiệu quả
nhất. Các NHTM thường dùng vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn để đầu tư vào các
công ty liên doanh, các dự án…, trở thành cổ đông của các công ty cổ phần.
1.1.2.3 Các hoạt động trung gian
Khi mới ra đời, các ngân hàng thường có hai hoạt động chính là nhận tiền gửi và
cho vay, nhưng cùng với sự phát triển của thị trường tài chính cũng như sự phát triển
của trình độ khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng, các
NHTM không chỉ đơn thuần thực hiện hai hoạt động trên mà còn mở rộng ra các hoạt
động khác. NHTM đóng vai trò trung gian tài chính khi thực hiện các dịch vụ bao gồm:
dịch vụ thanh toán, uỷ thác và nhận uỷ thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm và tư vấn tài
chính.
+ Dịch vụ thanh toán: Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, các hình thức
thanh toán cũng ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Vì vậy, nhu cầu đòi hỏi phải
đẩy nhanh tốc độ thanh toán cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng đã thúc
đẩy sự hình thành các dịch vụ thanh toán của các NHTM. Các NHTM cung ứng các
phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ khách hàng. Các dịch vụ

thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần
rút ngắn thời gian kinh doanh, giúp cho khách hàng kinh doanh nhanh chóng và hiệu
quả hơn, tạo thuận lợi cho khách hàng trong kinh doanh.
+ Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong
các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. Nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã
nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác còn
phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư…
+Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng các dịch vụ bảo hiểm,
thành lập các công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định
của pháp luật.
+ Tư vấn tài chính: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các NHTM có rất
nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính,
về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương
mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNVVN là một trong các loại hình doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế. Mỗi
quốc gia, mỗi khu vực khác nhau đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế -
xã hội, do vậy việc phân loại doanh nghiệp không thể thống nhất giữa các quốc gia.
Hiện nay, trên thế giới, không có khái niệm chuẩn mực về DNVVN. Tuỳ vào điều kiện
và tình hình kinh tế mà mỗi nước sẽ quy định riêng về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc
xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các
yếu tố như trình độ phát triển của đất nước, tính chất ngành nghề và điều kiện của một
vùng lãnh thổ nhất định hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuy

nhiên việc đưa ra một khái niệm về DNVVN cho riêng mình có vai trò quan trọng
trong việc đưa ra chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ – CP của Chính phủ ngày 23 tháng
11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định nghĩa: “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
luật doanh nghiệp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”
1.2.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển DNVVN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá
trình phát triển của mình, DNVVN đã bộc lộ những ưu điểm nhưng cũng có những
không ít nhược điểm. Việc nhận rõ được những điểm mạnh cũng như điểm yếu sẽ giúp
các doanh nghiệp vừa và nhỏ có biện pháp khắc phục khó khăn để nâng cao chất lượng
hoạt động và khả năng cạnh tranh, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí để các
ngân hàng đánh giá một cách tương đối chính xác về khách hàng của mình từ đó nâng
cao được chất lượng các khoản cho vay.
Điểm mạnh của DNVVN
- Quy mô vừa và nhỏ nên có tính năng động, linh hoạt
Quy mô vốn nhỏ đã tạo ra những mặt thuận lợi cho các DNVVN. Với số vốn đầu
tư ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn cao do đó các nhà đầu tư dễ lựa chọn loại hình
doanh nghiệp này khi quyết định thành lập công ty. Vốn đầu tư ban đầu nhỏ, khả năng
thu hồi vốn nhanh vì phần lớn các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, sản
xuất nhỏ nên sản phẩm dễ tiêu thụ, chu kỳ kinh doanh ngắn, thu hồi vốn nhanh hơn
những doanh nghiệp lớn. Do việc thu hồi vốn ban đầu trong thời gian ngắn nên khả
năng quay vòng vốn, tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn.
So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN năng động hơn trước những sự thay
đổi của thị trường. Các doanh nghiệp lớn với quy mô và cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ
thường kém nhanh nhậy và linh hoạt hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng. Trong khi đó, quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hay bộ máy quản lý khi có sự bất lợi từ môi
trường kinh doanh, tăng khả năng thích nghi của các doanh nghiệp với những biến

động của thị trường.
Khác với các doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn, thậm chí là cần sự bảo
hộ của Chính phủ và có sự độc quyền, các DNVVN hoạt động với số lượng đông đảo
dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. DNVVN thường có tính tự chủ cao
hơn so với các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng khai thác triệt để các cơ hội phát triển mà
không ngại rủi ro. Chính điều này tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng
động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm lực của đất nước.
- Hệ thống tổ chức và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt, tiết kiệm được
chi phí. Công tác điều hành mang tính trực tiếp, các quyết định được thực hiện nhanh
chóng, công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu
trung gian vì vậy tiết kiệm được nhiều chi phí quản lý doanh nghiệp.
DNVVN có số lao động không lớn nên mối quan hệ giữa người quản lý và người
lao động khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt.Việc tiếp xúc, gần gũi để
nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người lao động dễ dàng, tạo điều kiện cho nhà
quản lý trong việc đưa ra các chính sách quản lý phù hợp, giúp người lao động phát
huy hết được khả năng của mình.
Hạn chế
Thứ nhất: Quy mô vốn nhỏ là một thuận lợi nhưng cũng lại là một khó khăn chủ
yếu của các DNVVN. Các DNVVN thường gặp nhiều trở ngại trong việc vay vốn do
năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn hạn chế. Ở nước ta, có khoảng 42%
doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng; từ 1 đến 5 tỷ chiếm 47%; từ 5 đến 10 tỷ
chiếm 8%; còn lại hơn 10 tỷ đồng. Với số vốn tự có nhỏ bé như thế nên 90% số doanh
nghiệp phải tự huy động, vay vốn các nguồn để sản xuất kinh doanh. Nguồn vay chủ
yếu của các DNVVN là tín dụng ngân hàng, tuy nhiên các doanh nghiệp lại thường khó
tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng do thiếu tài sản có giá trị lớn
để thế chấp. Việc thiếu vốn sẽ làm doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, gặp khó
khăn trong việc mua sắm các thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
Thứ hai: Máy móc ít, công nghệ lạc hậu, khả năng và điều kiện áp dụng tiến bộ kĩ
thuật rất hạn chế, lao động thủ công nhiều là một trong những hạn chế của các
DNVVN. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ việc thiếu vốn của DNVVN. Tỷ lệ đổi mới

trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế
giới. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng,
nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí lên 1,5 lần
đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và nâng suất thấp
Thứ ba: Năng lực quản lý, điều hành của người lãnh đạo và chất lượng lao động
tác nghiệp còn thấp. Do trong các DNVVN người sở hữu vốn đồng thời là người quản
lý, chủ doanh nghiệp nên hiểu biết về quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Số
lượng công nhân và người đứng đầu công ty được đào tạo chỉ chiếm hơn 20%. Cơ cấu
nghề nghiệp không cân đối, phần lớn đào tạo ngắn hạn, rất ít nhân sự kĩ thuật và kĩ
thuật đầu đàn, năng suất lao động thấp, năng lực quản lý yếu. Những người lãnh đạo
các DNVVN thường không có sự hiểu biết cặn kẽ về luật lệ kinh doanh trong nước
cũng như luật lệ quốc tế.
Thứ tư: DNVVN có thị trường chỉ chiếm một thị phần nhỏ nên họ gặp nhiều áp
lực về thâu tóm, xoá sổ từ phía các doanh nghiệp lớn. Việc phát triển thị trường,
thương trường, xây dựng thương hiệu của các DNVVN mới ở giai đoạn đầu. Các
DNVVN chưa thật sự chú trọng đến việc mở rộng thị trường, chưa chú trọng đầu tư
vào khâu phân tích, dự đoán xu thế chung của thị trường để phát triển và xây dựng
những chiến lược lâu dài mà chủ yếu chỉ kinh doanh mang tính chất thời vụ đáp ứng
nhu cầu tức thì của thị trường.
1.2.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và triển khai Luật
doanh nghiệp, các DNVVN ở Việt Nam đã phát triển một cách nhanh chóng. Đến nay
cả nước có trên 200.000 đơn vị, chiếm 97% số doanh nghiệp, sử dụng hơn 30% số lao
động xã hội, làm ra gần 40% mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu, chiếm 1/3 tổng thu ngân
sách quốc gia. Với vị trí và đóng góp nói trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là nhân
tố quan trọng trong việc “ổn định kinh tế vĩ mô - bảo đảm an sinh xã hội” của đất nước.
Những đóng góp của các DNVVN cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
là rất lớn và không thể phủ nhận, được thể hiện cụ thể như sau:
 Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế

Các DNVVN được đánh giá là một bộ phận năng động, hoạt động có hiệu quả
của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả chất lượng và số lượng đã
đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước.
Các DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác nhau
đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi
ngành nghề, trong mọi thành phần kinh tế, sức lan toả của các doanh nghiệp này vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất lớn. Với ưu thế là quy mô nhỏ, các DNVVN có
thể hoạt động ở trong cả các lĩnh vực mà các doanh nghiệp lớn không muốn tham gia,
có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể vươn
tới nên nó có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu về sản phẩm dịch vụ dù nhỏ nhất của
mọi tầng lớp xã hội. DNVVN của Việt Nam đã đóng góp hơn 40% GDP, luôn duy trì
tốc độ tăng trưởng trên 18%, đóng góp trn 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Đây là bộ
phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch
vụ, là vệ tinh gắn kết, hỗ trợ thúc đẩy phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền
kinh tế.
 Tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu
Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta về mở
rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh
doanh xuất nhập khẩu, DNVVN nhất là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản đã chủ động tìm kiếm và khai thác thị
trường quốc tế, qua đó tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các DNVVN có
nhiều thuận lợi trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong
nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Số lượng DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu
chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm 84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất
nhập khẩu trong cả nước.

 Tăng việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Với số lượng các DNVVN chiếm 97% tổng số doanh nghiệp nên tạo ra việc làm
cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do sự phân bố

rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa lại không đòi hỏi
trình độ cao, DNVVN đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn,
từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống và hạn chế
các tệ nạn xã hội. Các DNVVN cung cấp khoảng 50% khối lượng việc làm cho nền
kinh tế. Các DNVVN đã đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế.
 Tạo sự năng động, hiệu quả và góp phần làm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNVVN có khả
năng chuyển đổi mặt hàng, chuyển đổi hướng sản xuất, đổi mới công nghệ cho phù hợp
với môi trường kinh doanh. Các DNVVN cũng linh hoạt trong việc chuyển hướng kinh
doanh từ các ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu qủa hơn, thoả mãn
nhu cầu của dân cư một cách tốt nhất. Chính vì vậy, các DNVVN làm cho nền kinh tế
năng động hơn. Sự phát triển nhanh chóng của các DNVVN cả về chất lượng và số
lượng đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt cho nền kinh tế.
Với việc rất nhiều các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu vùng xa đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Sự thay đổi
cơ cấu kinh tế nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn qua phát triển các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần
nông độc canh, tạo sự phát triển đồng đều. Sự phát triển của các DNVVN ở thành thị
cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ làm thu hẹp dần tỷ
trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Nhận thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế, trong việc huy động tối đa nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, sản xuất hàng
tiêu dùng, xuất khẩu, giải quyết việc làm và nộp ngân sách cho Nhà nước, Chính phủ
đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình doanh nghiệp này. Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chỉ thị số 09/2005/CT-TTg về tạo lập môi trường kinh
doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Chính điều này đã tạo điều kiện cho

các DNVVN phát triển nhanh về số lượng và chất lượng hoạt động trong thời gian qua.
1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương
mại
1.2.2.1 Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
Cho vay là hoạt động quan trọng và có quy mô lớn nhất trong toàn bộ hoạt động
của NHTM. Phần lớn vốn huy động được ngân hàng dùng để cho vay. Thu nhập từ
hoạt động cho vay đóng góp lớn vào lợi nhuận của ngân hàng.
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. Điều này không chỉ đúng với các nước đang phát
triển mà còn đúng với cả những nước có thị trường tài chính phát triển. Cho vay doanh
nghiệp chiếm khoảng 70% hoạt động cho vay của các ngân hàng.
Với việc các DNVVN chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp của nền kinh
tế, nhu cầu vốn của bộ phận doanh nghiệp này là không hề nhỏ và đặc biệt nhu cầu vay
vốn của các ngân hàng là rất lớn. Chính vì vậy, cho vay các DNVVN đang được rất
nhiều NHTM quan tâm hiện nay.
Cho vay đối với DNVVN tại NHTM là một hình thức cấp tín dụng theo đó NHTM
giao cho DNVVN một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2.2 Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các NHTM hiện này áp dụng một số hình thức cho vay cơ bản đối với DNVVN
là cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, ngoài ra còn
có cho vay hợp vốn, cho vay thấu chi, cho vay tài trợ dự án và một số hình thức cho
vay khác.
 Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay khá phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không
có nhu cầu vốn thường xuyên hoặc ngân hàng muốn kiểm tra, giám sát việc sử dụng
vốn vay chặt chẽ hơn.
Đối với hình thức này doanh nghiệp phải tiến hành đủ các thủ tục cần thiết và kí
kết hợp đồng tín dụng mỗi lần vay vốn. Khi có nhu cầu, doanh nghiệp đến ngân hàng

xin vay một khoản tiền cho mục đích sử dụng của doanh nghiệp như thanh toán tiền
hàng, nguyên vật liệu cũng như các chi phí sản xuất kinh doanh khác.
Số tiền cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp, tài sản đảm bảo và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp cũng như khả năng
nguồn vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ được xác định tuỳ thuộc
vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp
đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân
hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả, nếu thấy dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân
hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
 Cho vay theo hạn mức
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận một
hạn mức tín dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng
là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định mà ngân hàng
và doanh nghiệp đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường được áp dụng đối với các doanh
nghiệp có nhu cầu vay vốn – trả nợ thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào
quá trình sản xuất kinh doanh và có uy tín với ngân hàng. Hạn mức tín dụng được xác
định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay và trả nhiều lần song dư nợ không được
vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình bày phương án sử
dụng tiền vay, nộp các chứng từ cần thiết. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của
chứng từ, ngân hàng sẽ chi tiền cho khách hàng.
Trong hình thức cho vay này, ngân hàng không xác định trước kì hạn trả nợ và
thời hạn tín dụng. Khi doanh nghiệp có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ
động quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt
thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay,
mà chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính hay dư nợ lâu
không giảm sút.
 Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội

trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không
có tài sản đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho cả các cá nhân lẫn các doanh nghiệp
vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để chi trả lương, chi trả các khoản phải
nộp, mua hàng… Đối tượng áp dụng hình thức cho vay này thường là những khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng cấp hạn mức thấu chi. Khi được
ngân hàng chấp nhận, trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, mua thẻ, lập
uỷ nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả.
Số tiền chi vượt quá của khách hàng phải nằm trong hạn mức thấu chi. Các khoản chi
vượt quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và đình chỉ sử dụng hình thức này. Khi
khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi
mà khách hàng phải trả được tính theo công thức:
Lãi phải trả = Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi
Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi của khách hàng, vì vậy, sự không phù hợp về thời gian
và quy mô của các khoản thu và chi sẽ được giải quyết. Do đó, hình thức cho vay này
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp
thời.
 Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa vào sự luân chuyển hàng hóa. Khi doanh nghiệp mua
hàng có thể sẽ gặp phải tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, do đó doanh nghiệp có thể
yêu cầu ngân hàng cho vay và ngân hàng sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng.
Đầu thời kì kinh doanh, doanh nghiệp muốn vay vốn cần làm đơn xin vay luân
chuyển. Doanh nghiệp và ngân hàng sẽ thoả thuận về hạn mức tín dụng, phương thức
giải ngân, trả nợ, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín
dụng có thể được thoả thuận trong một hay vài năm. Đây là thời hạn để ngân hàng xem
xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp và quyết định sẽ cho vay nữa hay không tuỳ
thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của
doanh nghiệp.

Việc cho vay dựa vào sự luân chuyển của hàng hóa nên đòi hỏi cả ngân hàng và
doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, phân tích được
luồng tiền ra vào của doanh nghiệp. Khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp gửi đến
ngân hàng các chứng từ hoá đơn chứng minh việc mua hàng hoá và số tiền cần vay.
Sau đó ngân hàng sẽ xem xét cho vay hay không và trả tiền cho người bán, theo hình
thức này thu nhập bán hàng là nguồn chi trả cho ngân hàng. Hình thức cho vay này
thường được áp dụng đối với doanh nghiệp trong ngành thương nghiệp hoặc doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ thường xuyên với
ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ dựa trên khối lượng hàng hoá và chất
lượng quan hệ nợ nần của doanh nghiệp.
1.3 Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương
mại
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
hoạt động cho vay của các NHTM. Đây cũng là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất
nhưng cũng là hoạt động phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy, chất
lượng cho vay luôn luôn được các ngân hàng quan tâm.
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu về vốn cho
DNVVN và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách đúng
mục đích, có hiệu quả nhất, có thể tạo ra được lượng tiền lớn hơn để bù đắp chi phí,
hoàn trả nợ đầy đủ cho ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn và có lợi nhuận.
Đứng trên giác độ khác nhau chất lượng chất lượng cho vay đem lại những lợi ích
khác nhau. Trên khía cạnh lợi ích của khách hàng, chất lượng cho vay là sự đáp ứng
yêu cầu của khách hàng với lãi suất, kì hạn cho vay hợp lý, thủ tục đơn giản. Đối với
ngân hàng, chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù
hợp với khả năng của bản thân mỗi ngân hàng mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận, từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Đối với nền kinh tế, chất
lượng cho vay phải góp phần tạo ra hiệu quả xã hội như phục vụ sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động, gia tăng sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và khai thác tiềm năng trong nền kinh tế.

Trong khuôn khổ bài viết này xin đề cập đến chất lượng cho vay dưới giác độ của
NHTM.
Chất lượng cho vay được thể hiện ở chất lượng của từng khoản vay khác nhau.
Mỗi khoản vay có chất lượng sẽ góp phần tạo nên chất lượng chung của hoạt động cho
vay của mỗi NHTM. Đối với ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động chứa đựng

×