Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Thực trạng rủi ro kinh doanh ngoại hối ở các nước NHTM Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.51 KB, 5 trang )

Thực trạng rủi ro kinh doanh ngoại hối ở các NHTM Việt
Nam
Hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM gồm:
Thứ nhất, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng. Thông qua dịch vụ
mua bán hộ, ngân hàng thu một khoản phí phổ biến ở dạng chênh lệch tỷ
giá mua bán. Vì là mua bán hộ nên ngân hàng không phải bỏ vốn, không
chịu rủi ro tỷ giá và không làm thay đổi kết cấu bảng cân đối tài sản nội
bảng.
Thứ hai, mua và bán ngoại tệ với khách hàng nhằm điều chỉnh trạng
thái ngoại hối của đồng tiền đó của ngân hàng để giảm thiểu rủi ro. Đây
thực chất là nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối.
Thứ ba, kinh doanh cho chính mình, tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm
lãi khi tỷ giá thay đổi. Hoạt động kinh doanh này tạo ra trạng tháI ngoại
hối, do đó ngân hàng phảI bỏ vốn, chịu rủi ro tỷ giá và làm thay đổi kết
cấu bảng cân đối tài sản nội bảng.
Như vậy trạng thái ngoại hối mở giữa các Interbank dẫn đến rủi ro
ngoại hối. Các ngân hàng có tư tưởng kinh doanh mạo hiểm thường để
trạng thái ngoại tệ mở quá lớn so với vốn tự có nên khi rủi ro tỷ giá trên
thị trường biến động, các ngân hàng này phải đối mặt với nguy cơ mất
vốn, thậm chí thua lỗ, giảm năng lực tài chính. Chính vì vậy, ngày
10/01/1998, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 18/1998/QĐ-
NHNN7 về việc quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng
NHTM Việt Nam, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính. Theo đó
các ngân hàng phải thực hiện tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày không
vượt quá 30% vốn tự có của ngân hàng mình.
Kể từ sau năm 1998 cho đến năm cuối năm 2006, các NHTM Việt
Nam thường duy trì trạng thái ngoại hối đoản và hậu quả là phải đối mặt
với rủi ro tỷ giá khi tỷ giá tăng. Đó là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mức tỷ giá giao dịch bình quân interbank mà NHNN công
bố thường ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến động lớn,
thậm chí có lúc tỷ giá USD và JPY so với VND đứng yên hoặc giảm. Do


đó việc duy trì trạng thái ngoại tệ đoản đối với USD và JPY là bình
thường.
Thứ hai, đặc điểm của ngoại hối Việt Nam trong thời gian này là theo
hướng 1 chiều, cầu về ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà
doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số bán ra và điều này dẫ tới trạng thái
ngoại tệ ở các ngân hàng thường là trạng thái đoản.
Thứ ba, lãi suất cho vay VND thường cao hơn nhiều so với lãi suất
cho vay của USD, EUR và JPY (lãi suất thực của VND dương), vì thế
các ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ để hưởng lãi suất cao,
đến hạn hoàn trả ngoại tệ họ sẽ mua ngoại tệ vào và khoản lãi thu được
từ cho vay VND luôn lớn hơn khoản thua lỗ do tỷ giá tăng (tức VND
mất giá) trong khi chính sách tỷ giá mà NHNN theo đuổi lại ổn định
trong thời gian dài và vì thế trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng
thường đoản.
Từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, kể từ sau khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO,
trạng thái ngoại tệ của các NHTM Việt Nam lại ở tình huống ngược lại,
đó là nó luôn ở mức dư thừa. Điều này được lí giải như sau:
Thứ nhất, nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM tăng nhanh là do thị
trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua đã phát triển với tốc độ khá
nóng. Điều đó khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô vào thị trường
Việt Nam. Họ chuyển USD vào Việt Nam và chuyển đổi ra VND để
kinh doanh chứng khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng mạnh.
Thứ hai, ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn vốn đầu tư trực
tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I năm 2008 tăng
cao. trong quý I năm 2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, cả
nước đã thu hút thêm đạt 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng kí, tăng 31% so
với cùng kỳ năm 2007 đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM.
Thứ 3, do Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất
đã làm cho USD giảm giá mạnh so với các tiền tệ như EUR, JPY cũng

đã làm cho dòng vốn đầu tư chuyển từ USD sang VND.
Trong khi đó, để tránh áp lực cho lạm phát, NHNN không mua số
ngoại tệ dư thừa này (vì nếu NHNN mua ngoại tệ vào, đẩy VND ra để
hỗ trợ thì sẽ làm tăng VND trong lưu thông) đã khiến cho tỷ giá
USD/VND liên tục suy giảm. Và chính điều này lại gây ra rủi ro tỷ giá
cho các NHTM.
Tuy nhiên năm 2009, tỷ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4
tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN nới rộng biên độ tỷ giá lên ±5%
khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến. Có
trường hợp thường xuyên âm phải nhờ sự viện trợ của NHNN hoặc các
NH phải đẩy giá chào mua lên bằng giá bán nhằm đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ của NH mình. Nguyên nhân chính được giải thích từ hiện tượng
nhiều doanh nghiệp có nguồn thu bằng USD không chịu bán cho NH, có
tâm lý chờ giá tiếp tục tăng lên, thâm chí còn “ra giá” để có thể đạt mức
cao hơn trần quy định hiện hành mới bán dẫn đến tình trạng ngân hàng
không mua được ngoại tệ để bán. Mặt khác các NH hạn chế việc huy
động bằng tiền USD, càng huy động càng có thể lỗ do lãi suất huy động
USD liên tục sụt giảm do không cho vay ra được nên nếu các NH huy
động càng nhiều USD thì sẽ càng lỗ, bởi họ phải gửi số ngoại tệ này ở
nước ngoài với mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với mức huy động.
6 tháng đầu năm 2011, do chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN
đã duy trì được sự ổn định của thị trường ngoại tệ. Tỷ giá giao dịch dần
“giảm nhiệt”. Trên thị trường chính thức, tỷ giá giao dịch của các
NHTM thường ở mức thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với
tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố). Xen
kẽ những ngày tăng, tỷ giá đã có nhiều ngày đứng và nhiều ngày giảm.
Đây là điều hiếm có trước đây.
Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự
do và thị trường chính thức đã được giảm thiểu, tỷ giá cơ bản ổn định và
có xu hướng giảm đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số

liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7/2011, NHNN đã mua được 5 tỷ
USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước
tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã
bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng, bước đầu chuyển dần quan hệ huy
động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua-bán bằng ngoại tệ giữa
NH với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ
đã được thu hẹp.
Cho tới tháng 4/2012, qua nghiên cứu ở cả thị trường chính thức và
phi chính thức và biểu thị trên biểu đồ Reuters cho thấy diễn biễn tỷ giá
USD/VND ở mức ổn giá định. Thị trường chính thức giao dịch phổ biến
20840-20890. Thị trường tự do giao dịch 20830-20880.
Tỷ giá duy trì ổn định và ở mức thấp là điều kiện tốt để NHNN tiếp tục
mua vào lượng lớn ngoại tệ của các NHTM, góp phần cải thiện dự trữ
ngoại tệ. Đây là tháng mà thông tư 03/2012/TT-NHNN chính thức có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 02/5/2012 về việc hạn chế đối tượng vay
ngoại tệ.
Do thường xuyên phải đối mặt với tình trạng ngoại hối mở như vậy nên
việc quản trị rủi ro ngoại hối ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.

×