GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
1
Đề tài " Xuất khẩu thủy sản Việt Nam –
Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO”
GVHD:TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN
SVTH: PHẠM LÊ ĐÔNG HẬU
MSSV: 4054388
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
I. Lý do chọn đề tài 4
II. Mục tiêu của đề tài 4
1) mục tiêu chung 4
2) Mục tiêu cụ thể 4
III. Phương pháp nghiên cứu 4
IV. Phạm vi nghiên cứu 5
PHẦN NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 6
1. Lý thuyết về xuất nhập khẩu 6
1.1. Xuất nhập khẩu 6
1.2. Xuất nhập khẩu thủy sản 6
2. Một số quy định về xuất nhập khẩu thủ y sản khi gia nhập vào
WTO 7
3. Những lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam 7
3.1. Lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam 7
3.1.1. Vị trí địa lý 7
3.1.2. Điều kiện tự nhiên 8
3.2. Lợi thế về lao động 9
3.3. Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân 10
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT – CHẾ BIẾN – XUẤT KHẨU
THỦY SẢN VIỆT NAM 14
1. Thực trạng khai thác, sản xuất – chế biến – xuất khẩu thủy sản ở Việt
Nam 14
1.1. Tình hình khai thác, sản xuất 14
1.1.1. Khai thác hải sản 14
1.1.2. Khai thác thủy sản nội địa 15
1.2. Tình hình chế biến và bảo quản 16
1.3. Tình hình xuất khẩu 18
1.3.1. Mặt hàng xuất khẩu thủy sản 18
1.3.2. Thị trường xuất khẩu 19
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh đối với ngành thủy sản ở Việt Nam sau
khi gia nhập WTO 25
2.1. Thách thức 25
2.2. Cơ hội 26
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
3
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY
SẢN Ở VIỆT NAM 28
1. Về phía doanh nghiệp 28
2. Về phía nhà nước 29
2.1. Định hướng phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 29
2.2. Định hướng về vấn đề chất lượng, quản lý chất lượng và an toàn thực
phẩm đến năm 2020 30
3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam 31
3.1. Mở rộng thị trường tiêu thụ 31
3.2. Hỗ trợ về tài chính 31
3.3. Hỗ trợ thông tin 32
3.4. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực 32
PHẦN KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
4
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam có truyền thống lâu đời trong các hoạt động khai thác và nuôi trồng
thuỷ sản. Ngành thuỷ sản đóng góp hơn 3% GDP trong hơn mười năm qua và được
xem là một trong những ngành có bước trưởng thành nhanh chóng nhất trong thập kỷ
vừa rồi. Hiện nay, ngành thuỷ sản đang không ngừng tăng trưởng cả về số lượng và
chất luợng. Ngoài ra, ngành thủy sản đang là ngành có thế mạnh về xuất khẩu mang về
một lượng ngoại tệ lớn cho Việt Nam.
Đặc biệt, năm 2007 Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại
Thế Giới WTO – World Trade Organization. Ngành thuỷ sản đã bước đầu hoàn thiện
môi trường pháp lý nhằm chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế và triển khai một số
Hiệp định hợp tác với các Tổ chức quốc tế, khu vực và các nước. Bộ Thuỷ sản đang có
gắng xây dựng Chiến lược Hợp tác quốc tế và Hội nhập kinh tế quốc tế ngành thuỷ sản
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Để hiểu rõ hơn về xuất khẩu thủy sản Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu
cho chuyên đề Kinh Tế của mình là “Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức &
Cơ hội sau khi gia nhập WTO”.
II. Mục tiêu của đề tài:
1) Mục tiêu chung:
Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy Việt Nam trong những năm qua (2003 – 2007).
Từ đó, phân tích những lợi thế và nhận diện những thách thức trở ngại trong việc xuất
khẩu thủy sản sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở đó, đưa ra các chiến lược
đẩy mạnh hoạt động thương mại xuất khẩu thủy sản Việt Nam càng phát triển hơn.
2) Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong
những năm qua.
- Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam.
- Đề ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
III. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập số liệu:
• Thu thập thông tin thứ cấp trên báo, tạp chí, internet, niên giám thống kê, cục
thống kê.
• Các báo cáo tổng kết của Bộ Thủy sản.
• Báo cáo của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP.
Phương pháp phân tích:
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
5
•
••
• Phương pháp mô tả.
•
••
• Phương pháp dự báo kinh tế.
•
••
• Phương pháp tần số đơn giản
* Với từng mục tiêu cụ thể khác nhau, sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác
nhau như:
• Nghiên cứu thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong
những năm qua: nghiên cứu nhân quả. Thu thập số liệu trong những năm gần
đây rồi đưa ra các nhận xét.
• Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam: nghiên cứu ứng
dụng, nhân quả.
• Đề ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam: phân tích
định tính.
IV. Phạm vi nghiên cứu:
1) Về không gian:
- Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam.
2) Về thời gian:
- Số liệu sử dụng cho đề tài là số liệu thu thập từ 2003 – 12/2007.
3) Đối tựơng nghiên cứu:
- Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu.
PHẦN NỘI DUNG
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý thuyết về xuất nhập khẩu:
1.1. Xuất nhập khẩu:
Xuất khẩu, trong lý luận
thương mại quốc tế
là việc bán
hàng hóa
và
dịch vụ
cho
nước ngoài, trong cách tính toán
cán cân thanh toán quốc tế
theo
IMF
là việc bán hàng hóa
cho nước ngoài.
Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng
hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước
ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách
thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu
hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua
dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Ngoại thương (hay còn gọi là thương mại quốc tế) là quá trình trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa các quốc gia chủ yếu thông qua hoạt động xuất, nhập khẩu và các
hoạt động gia công với nước ngoài. Ngoại thương giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế
đối ngoại.
Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về mặt vật chất và tài chính,
các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực khoa
học – công nghệ có liên quan đến tất cả giai đoạn của quá trình sản xuất, giữa các quốc
gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế.
1.2. Xuất nhập khẩu thủy sản:
Các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản là khi mà hàng hóa (các
mặt hàng thủy sản: tôm, cá, mực …) được thực hiện mua bán từ quốc gia này sang
quốc gia khác, từ phạm vi lãnh thổ này sang lãnh thổ khác.
Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu:
• Đây là một hoạt động không thể thiếu ở các quốc gia bởi vì không một quốc gia
nào có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân trong nước.
• Nguồn tài nguyên có hạn và mỗi quốc gia có một lợi thế riêng.
• Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hằng năm mang về một lượng ngoại tệ
lớn.
• Xu hướng của thế giới hiện nay là mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa các nước.
2. Một số quy định về xuất nhập khẩu thủy sản khi gia nhập vào WTO:
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
7
Từ năm 2007, Việt Nam là thành viên của WTO, và sẽ phải thực hiện đúng lộ
trình cắt giảm thuế theo như cam kết giữa Việt Nam và EU. Các hiệp định cơ bản của
WTO gồm hiệp định về thương mại hàng hoá gồm cả hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT, 1994) và các hiệp định liên quan khác; hiệp định chung về thương
mại dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(TRIPs). WTO thực hiện chức năng của mình trong việc giám sát việc thực hiện các
Hiệp định này, đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại, tạo cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại, tiến hành rà soát định kỳ chính sách thương mại của các nước thành
viên.
Một số quy định về thuế xuất nhập khẩu như sau:
Miễn và giảm thuế nhập khẩu không dựa trên thành tích xuất khẩu, tỷ lệ xuất
khẩu hay yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá mà chỉ đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối
với hàng nhập khẩu.
Thuế suất ưu đãi chỉ áp dụng cho hàng nhập có xuất xứ từ nước, hoặc khối
nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
Các điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi:
- Hàng nhập khẩu có giấy chứng nhận xuất xứ từ nước hoặc khối nước
đã có thoả thuận về đối xử tối hụê quốc trong quan hệ thương mại với VN.
- Nước hoặc khối nước đó phải nằm trong danh sách các nước hoặc khối
nước do Bộ thương mại thông báo đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc
trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
Thuế suất ưu đãi đặc biệt: là thuế suất được áp dụng cho hàng NK có xuất xứ từ
nước hoặc khối nước mà Việt Nam và nước, hoặc khối nước đó đã thoả thuận ưu đãi
đặc biệt về thuế NK theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh quan thuế, hoặc
để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
3. Những lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam:
3.1. Lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam:
3.1.1. Vị trí địa lý:
Việt Nam là dải đất cong hình chữ S, chạy dọc phía Đông bán đảo Đông
Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Phía Đông, Nam và Tây Nam giáp biển Thái
Bình Dương; phía Tây và phía Bắc gắn liền với lục địa châu Á. Phần đất liền của Việt
Nam trải dài từ 23
o
23' đến 08
o
02' vĩ độ Bắc và chiều ngang từ 102
o
08' đến 109
o
28'
kinh độ Đông. Chiều dài tính theo đường thẳng trong đất liền từ Bắc xuống Nam
khoảng 1.650 km. Chiều ngang từ Đông sang Tây nơi rộng nhất trên đất liền là 600
km, nơi hẹp nhất 50 km.
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
8
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730 km. Phía Bắc giáp nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150 km. Phía Tây giáp Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650 km và giáp Vương quốc
Cămpuchia - 930 km. Qua biển Đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philippin, Cộng
hòa Inđônêxia, Cộng hòa Singapo, Cộng hòa Brunây và Liên bang Malaixia.
Ngoài ra, có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng
khoảng 1 triệu km
2
. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú, cho phép
khai thác hàng năm 1,2 – 1,4 triệu tấn. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư
trường trọng điểm là : ngư trường Minh Hải – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận –
Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường
quần đảo Hoàng Sa - quần đảo Trường Sa.
3.1.2. Điều kiện tự nhiên:
a) Khí hậu:
Do tính chất dài và hẹp của lãnh thổ, Việt Nam mang đặc tính của một
bán đảo, ảnh hưởng của biển len lỏi đến khắp nơi.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới
nên khí hậu chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa châu Á (chủ yếu là gió
mùa Đông Bắc và Đông Nam). Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.500 - 2.000
mm. Độ ẩm trên dưới 85%. Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của
thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và
một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Riêng khí hậu của các tỉnh phía Bắc (từ đèo Hải Vân
trở ra bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn
nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm,
từ giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ
thấp lên cao).
b) Địa hình:
Đại bộ phận lãnh thổ được bao trùm bởi đồi núi, có nơi núi đâm ra sát
biển, thậm chí còn lan ra biển. Hướng núi chủ yếu là Tây Bắc - Đông Nam. Núi không
cao nhưng hiểm trở, chia cắt địa hình thành nhiều vùng với những đặc thù riêng. Địa
hình Bắc Bộ giống như chiếc rẻ quạt, ba phía Tây, Bắc và Đông đều là đồi núi, phía
Nam là bờ biển và ở giữa là đồng bằng. Địa hình Trung Bộ chạy dài và hẹp; đồi núi,
đồng bằng và bờ biển xâm nhập lẫn nhau. Địa hình Nam Bộ ít phức tạp hơn và tương
đối bằng phẳng. Nhìn chung, các vùng đồng bằng ven biển đều có diện tích không lớn.
c) Biển:
Việt Nam có ba mặt giáp biển, đông và nam giáp biển Đông (thuộc Thái
Bình Dương) mà phần ăn sâu vào Việt Nam là vịnh Bắc Bộ, Tây nam giáp vịnh Thái
Lan. Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3.260 km, uốn lượn - chỗ nhô ra tạo nên bán đảo
nhỏ, chỗ vòng lại hình thành vùng vịnh và cảng lớn. Trung bình khoảng 20 km chiều
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
9
dài bờ biển có một cửa sông thông ra biển. Các cửa sông này chịu ảnh hưởng của chế
độ thuỷ triều khá phức tạp. Ngoài những con sông chảy trực tiếp vào biển, có một số
sông chảy qua các đầm phá lớn như phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô, Ô Loan, Thị
Nại.
d) Sông ngòi:
Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 2.860 sông ngòi lớn nhỏ, nhìn chung
chảy xiết, do vậy thường làm xói mòn địa hình.
Việt Nam có nhiều hồ tự nhiên như Hồ Tây (đại diện cho hồ miền đồng
bằng); Biển Hồ, Hồ Ba Bể, Hồ Lắk (đại diện cho hồ miền núi). Các hồ đó có mực
nước quanh năm ổn định, chu trình vật chất khép kín tự có trong hồ là chính. Diện tích
các hồ tự nhiên ở Việt Nam là 20.000 ha. Việt Nam có rất nhiều hồ chứa cỡ trung bình
và cỡ nhỏ (hiện chưa kiểm kê hết), một số hồ chứa lớn là Thác Bà, Hoà Bình (ở miền
Bắc), Dầu Tiếng, Trị An, Thác Mơ, Sông Hinh (ở miền Nam). Diện tích hồ chứa trên
180 nghìn ha. Tuy nhiên, với vai trò quan trọng trong công tác thuỷ lợi, thuỷ điện và
phân lũ, hiện nay nhiều hồ chứa mới đang tiếp tục được xây dựng.
e) Đảo và quần đảo:
Việt Nam là một quốc gia có nhiều đảo và quần đảo. Hệ thống đảo ven
bờ gồm có 2.773 hòn đảo lớn nhỏ diện tích từ 0,001 km
2
đến 100 km
2
, diện tích tổng
cộng lên đến 1.720 km
2
. Về mặt phân bố, 83,7% số đảo ở ven biển tỉnh Quảng Ninh và
Hải Phòng, nơi tập trung thứ hai là các tỉnh Kiên Giang và Cà Mau trên vịnh Thái Lan.
Có tới gần 1.300 hòn đảo chưa có tên, vì chúng có kích thước quá nhỏ. Khoảng cách
giữa đất liền và đảo cũng rất khác nhau: đảo Cái Bàu chỉ cách đất liền một rạch triều;
trong khi đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng tới 135 km; đảo Hòn Hải cách Phan Thiết
tới gần 155 km; đảo Thổ Chu cách cửa Ông Đốc (Kiên Giang) tới 146 km; quần đảo
Hoàng Sa nằm cách Đà Nẵng tới 350 km và quần đảo Trường Sa nằm cách vịnh Cam
Ranh hơn 450 km.
Các đảo và quần đảo của Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức
quan trọng về kinh tế và quân sự.
3.2. Lợi thế về lao động:
Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động trên 50%.
Số người biết chữ (10 tuổi trở lên) chiếm tỷ lệ rất cao - 91%. Nhận thức của người
Việt Nam tương đối nhanh nhạy và linh hoạt, vì vậy, với thời gian đào tạo ngắn nhưng
người Việt Nam có khả năng tiếp thu được kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến, nhanh chóng đảm nhận nhiệm vụ mới.
Dân số Việt Nam năm 2003 là 80,9 triệu người, trong đó nữ 41,15 triệu người,
chiếm 50,86% tổng số, nam - 39,75 triệu người, chiếm 49,14% tổng số. Trong đó có
46,2 triệu người trong độ tuổi lao động (có 5,7 triệu người thất nghiệp). Và con số này
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
10
tăng lên đến năm 2006 là 48,3 triệu người (có 4,82 triệu người thất nghiệp). ( Nguồn từ
Niên giám thống kê 2006).
Cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần
nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể như sau:
Tổng số lao động xã hội
1990
1995
2000
2005
Trong ngành nông, lâm và ngư nghiệp
73,00%
71,10%
68,20%
56,80%
Trong ngành công nghiệp
11,24%
11,40%
12,10%
17,90%
Trong các ngành dịch vụ
15,56%
17,50%
19,70%
25,30%
Lao động trong khai thác hải sản:
Năm 2004, lực lượng lao động khai thác hải sản xấp xỉ 600.000 người. Phần lớn
đều có kinh nghiệm đi biển, thành thạo nghề, chịu được sóng gió. Tuy nhiên, thanh
niên vùng ven biển đang có xu hướng không muốn theo nghề khai thác, vì cường độ
lao động cao, năng suất đánh bắt thấp và thu nhập giảm. Việc đẩy mạnh khai thác xa
bờ đang gặp khó khăn về nguồn nhân lực. Đội ngũ thuyền trưởng, thuỷ thủ giỏi, có
trình độ và kỹ thuật khai thác xa bờ rất thiếu, nhất là các tỉnh Bắc Bộ và Nam Bộ, dẫn
tới nhiều nơi tàu đã đóng xong nhưng không tuyển được người có đủ trình độ ra khơi.
3.3. Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân:
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế đất nước. Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành
Thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế quốc dân.
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thuỷ sản cao
hơn các ngành kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối, đặc biệt so với ngành có
quan hệ gần gũi nhất là nông nghiệp. Ngành Thuỷ sản là một ngành kinh tế kĩ thuật
đặc thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang những tính chất công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ thống thống nhất có liên quan
chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong khi các ngành khai thác, đóng sửa tàu thuyền cá,
sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc công nghiệp
nhóm A, ngành chế biến thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại và
nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc
lĩnh vực dịch vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông
nghiệp.
Vì vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong sản xuất hàng hoá
phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ những năm cuối
của thập kỉ 90, Chính phủ đã có những chú ý trong qui hoạch hệ thống thuỷ lợi để
không những phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
11
cho phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt đối với vùng Đồng bằng Sông
Cửu Long.
Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc hoàn toàn hay
một phần vào Ngành Thuỷ sản. Ngành Thuỷ sản được coi là ngành có thể tạo ra nguồn
ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại
thương Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần
2,4 tỷ USD, vượt 20% so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành
công nghiệp hiện đại, đủ năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10
trong số nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu trên thế giới.
Vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân :
a) Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản
lượng đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm
cho nhu cầu của người dân Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận
các vùng sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người
dân Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung
du miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động nuôi
trồng thuỷ sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao
trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
b) Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung
cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc
dân, Ngành Thuỷ sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng
được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thuỷ
sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân, không
những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng
đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần
đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt
động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo
làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản
công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất
là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở
sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã
ven sông.
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
12
c) Xoá đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát
triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung
cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm
nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh
từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm
canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi
công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá
lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất
nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã
phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung du
miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa.
d) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế
biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở
rộng đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện
nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh
tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng,
khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền
canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng
thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì
hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt
động canh tác lúa nước.
Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả
kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven
biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ.
Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong
những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho
người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
e) Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt
Nam. Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động.
Hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy
nhiên, ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
13
nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có
chọn lọc đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và
các loài cá rô phi đơn tính.
f) Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong
bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành
Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD.
g) Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa,
nhất là ở vùng biển và hải đảo
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền
trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần
thực hiện chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Hệ thống cảng cá
tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần
bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ quốc.
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
14
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT – CHẾ BIẾN – XUẤT KHẨU THỦY SẢN
VIỆT NAM
1. Thực trạng khai thác, sản xuất – chế biến – xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam:
1.1. Tình hình khai thác, sản xuất:
Theo số liệu thống kê của FAO năm 2004, Việt Nam đứng thứ 11 trên thế giới
về sản lượng khai thác thuỷ sản.
1.1.1. Khai thác hải sản:
Khai thác hải sản luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản, góp
phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển.
Năng lực khai thác hải sản:
Tàu thuyền đánh cá:
Tàu thuyền khai thác phần lớn là loại vỏ gỗ. Các loại tàu vỏ thép, xi
măng lưới thép, composite chiếm tỷ lệ không đáng kể. Những năm gần đây, số lượng
tàu thuyền máy tăng nhanh, trong khi đó, thuyền thủ công giảm dần. Năm 2001, tổng
số thuyền máy là 74.495 chiếc và thuyền thủ công là 13.267 chiếc, chiếm tỷ lệ tương
ứng là 85% và 15% tổng số tàu thuyền khai thác hải sản. Tổng công suất tàu thuyền
máy đã đạt tới 3.497.457 CV (năm 2001), lớn gấp 4,3 lần so với năm 1991, công suất
bình quân đạt gần 45CV/chiếc, tăng 2,5 lần so với 1991. Năm 2004, theo báo cáo từ
các địa phương, tổng số tàu thuyền máy đã tăng lên đến 85.430 chiếc với tổng công
suất 4.721.700 CV, công suất bình quân đạt hơn 55 CV/tàu. Công suất trung bình các
đội tàu ở phía Nam đạt trên 90 CV/tàu và các vùng còn lại là 30 CV/tàu. Đáng chú ý
là, số lượng tàu quốc doanh đã giảm còn 44 tàu vào năm 2002.
Trong giai đoạn 1991 - 2004, số lượng tàu thuyền máy tăng bình quân
hằng năm 5,6%, nhưng mức tăng này có xu hướng chậm dần. Trong khi đó, mức tăng
tổng công suất trung bình hằng năm là 15,8 %, chiều hướng này cũng đang giảm dần.
Sự chênh lệch mức tăng giữa số lượng tàu và tổng công suất trong giai đoạn này cho
thấy, trong số tàu tăng hằng năm, số tàu công suất lớn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đây là
xu thế tích cực khi người dân chú trọng đóng tàu vươn khơi xa, giảm dần áp lực khai
thác vùng ven bờ. Chủ trương phát triển khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng gần
bờ của ngành thủy sản thực hiện trong nhiều năm qua cũng đã góp phần quan trọng
trong việc hỗ trợ ngư dân tham gia phát triển khai thác xa bờ. Trong những năm gần
đây, trước áp lực nguồn lợi ven bờ suy giảm, các cơ quan quản lý ngành thủy sản đã có
chủ trương hạn chế đóng mới các loại tàu thuyền dưới 20 CV. Do vậy, số lượng tàu
nhỏ khai thác gần bờ đã giảm nhiều. Chủ trương chuyển đổi cơ cấu nghề nghề cá,
trong đó có chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ, nhằm nâng cao hiệu
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
15
quả hoạt động thủy sản gắn với bảo vệ nguồn lợi và môi trường đã được triển khai ở
nhiều địa phương và được người dân ủng hộ
Do đặc điểm tự nhiên và nguồn lợi hải sản ở các vùng biển khác nhau
nên cơ cấu nghề nghiệp ở từng địa phương cũng khác nhau:
+ Nghề lưới kéo chiếm tỷ lệ cao nhất ở các tỉnh Nam Bộ (37,5%), trong
đó tỷ lệ này ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng là 47%, Kiên Giang chiếm
41,5%, Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 38,5%. Đây là do đặc điểm nguồn lợi ở vùng
biển Đông Nam Bộ (cá đáy chiếm 60% khả năng khai thác).
+ Nghề lưới rê ở các tỉnh Bắc Bộ chiếm 26% tổng số đơn vị nghề và ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ chiếm 29,3% là phù hợp với nguồn lợi ở vịnh Bắc Bộ
(cá nổi chiếm 57% khả năng khai thác).
+ Nghề ngư cụ cố định trong đó chủ yếu là nghề đáy, tập trung ở các tỉnh
có nhiều cửa sông. Ví dụ : Trà Vinh 55%, Huế 31%, Tiền Giang 16%, thành
phố Hồ Chí Minh 13%, Cà Mau 10%.
+ Nghề đáy cao tại một số tỉnh đã có tác động xấu đến bảo vệ nguồn lợi,
vì đối tượng đánh bắt chủ yếu là các đàn cá chưa trưởng thành thường vào vùng
cửa sông kiếm ăn.
1.1.2. Khai thác thủy sản nội địa
Khai thác ở hồ
Việt Nam có trên 200.000 ha mặt nước hồ, trong đó diện tích hồ tự nhiên trên
20.000 ha, còn lại là hồ chứa.
Tổng sản lượng thủy sản khai thác ở hồ hằng năm
khoảng 9.000 tấn, trong đó 4.000 tấn khai thác ở hồ tự nhiên và 5.000 tấn khai thác ở
các hồ chứa.
Khai thác ở vùng trũng ngập nước
Các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ không có vùng trũng ngập nước lớn. Vùng đồng
bằng sông Cửu Long có nhiều vùng ngập nước theo mùa rất lớn. Ví dụ, vùng đồng
Tháp Mười là 140.000 ha và vùng tứ giác Long Xuyên là 218.000 ha.
Cá ở hệ thống
sông Cửu Long di cư vào vùng trũng ngập nước trong mùa mưa để kiếm ăn. Đến mùa
khô lại di chuyển ra sông. Nông dân ở hai vùng trũng ngập nước này hằng năm khai
thác được khoảng trên 20.000 tấn.
Khai thác trên sông
Nước ta có hàng ngàn sông, rạch. Trước đây, nguồn lợi cá sông rất phong phú.
Vào thập kỷ 70, trên sông Hồng có trên 70 hợp tác xã đánh cá. Sản lượng khai thác
hằng năm khoảng hàng ngàn tấn cá. Do khai thác quá mức, nên nguồn cá sông đã cạn
kiệt. Ngư dân phải chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác. Các sông ngòi ở miền
Trung cũng có tình trạng tương tự.
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
16
Hiện nay, chỉ còn sông Cửu Long duy trì được nghề khai thác với sản lượng
xấp xỉ 30.000 tấn/năm, tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông.
Hệ thống kênh, rạch chằng chịt ở Nam Bộ cung cấp một lượng cá nước ngọt đáng kể.
Sản lượng khai thác thủy sản nội địa năm 2003 và năm 2004 đã đạt khoảng 200.000
tấn, thu hút khoảng 100.000 lao động.
1.2. Tình hình chế biến và bảo quản:
Chế biến thuỷ sản được hiểu là chế biến tất cả các loài thuỷ sản nước ngọt,
nước lợ và nước mặn thu hoạch từ hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ
sản. Chế biến thuỷ sản được phân thành hai nhóm sau:
• Chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước. Những
năm trước đây, do phải nhập dây chuyền đồng bộ từ nước ngoài nên chi phí cho hoạt
động chế biến nội địa tương đối cao, giá thành sản phẩm không phù hợp với sức mua
của người dân trong nước. Gần đây, ngành thuỷ sản đã chủ động phát triển công
nghiệp cơ điện lạnh phục vụ thiết bị cho chế biến thuỷ sản nội địa nên tình trạng này
đã được khắc phục. Mặt khác, do mức thu nhập tăng nên nhu cầu tiêu thụ cũng tăng
theo, nhiều sản phẩm thuỷ sản chế biến đã không còn phân biệt ranh giới giữa tiêu
dùng nội địa và xuất khẩu.
• Chế biến sản phẩm xuất khẩu
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.
Trước những nguy cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất
khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý và tác
phong làm việc; tích cực đầu tư máy móc và trang thiết bị hiện đại để tiến hành qui
trình tự động hoá sản xuất.
Áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới như công nghệ bảo quản sau thu
hoạch, công nghệ surimi, công nghệ ngủ đông trong vận chuyển thuỷ sản tươi sống,
công nghệ đông rời IQF… Tập trung chế biến các mặt hàng giá trị gia tăng như mặt
hàng phi lê đông lạnh, mặt hàng surimi, sản phẩm sẵn sàng để nấu hoặc sản phẩm ăn
liền, nhờ đó tỷ trọng các mặt hàng này trong tổng sản phẩm chế biến xuất khẩu đã tăng
lên.
Đoàn thanh tra Liên minh châu Âu (EU) đã có những nhận xét tốt về việc kiểm
soát an toàn vệ sinh tại các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt
Nam, cũng như việc sửa chữa, khắc phục lỗi của cơ sở chế biến đối với các khuyến
cáo mà EU đưa ra.
Chế biến thủy sản là khâu rất quan trọng của chu trình sản xuất, kinh doanh thủy.
Những hoạt động trong lĩnh vực chế biến trong 10 năm qua được đánh giá là có hiệu
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
17
quả, đã góp phần tạo nên sự khởi sắc của ngành thủy sản. Các khía cạnh được đánh giá
cụ thể như sau:
Nguồn nguyên liệu và cơ cấu sử dụng nguyên liệu cho chế biến thủy sản
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến, thói quen tiêu
dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày càng
nhiều. Năm 2000 lượng nguyên liệu đưa vào chế biến đã chiếm tới 66% tổng sản
lượng thuỷ sản của Việt Nam. Đến năm 2004, ước tính lượng nguyên liệu đưa vào chế
biến chiếm xấp xỉ 70%.
Chất lượng nguyên liệu
Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do đó
sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau. Đối với các tàu đi dài
ngày, sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối, rất ít
phương tiện có hầm bảo quản lạnh. Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên
nguyên liệu hầu như không qua xử lý bảo quản. Nguyên liệu hải sản thường bị xuống
cấp chất lượng do phương tiện và đầu tư cho khâu bảo quản còn quá ít, quá thô sơ. Sau
khi hải sản được đánh bắt, thông qua các cảng, bến cá phần lớn chưa được xây dựng
hoàn chỉnh do đó về mùa nóng các loại hải sản thường bị xuống cấp nhanh chóng, giá
trị thất thoát sau thu hoạch lớn (khoảng 30%).
Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành, song tác động của nó
vào thực tiễn sản xuất còn ít, một phần do chất lượng thuỷ sản hiện thị trường còn
chấp nhận một phần do những lý do kinh tế, tài chính, kỹ thuật mà bản thân ngư dân
chưa thể áp dụng những công nghệ bảo quản mới này cho sản phẩm khai thác của
mình.
Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt, lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là chủ
động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy chế
biến, hầu như không qua xử lý bảo quản, chúng thường đảm bảo độ tươi, chất lượng
tốt.
Các mặt hàng chế biến thủy sản chính
a. Mặt hàng đông lạnh
Đến năm 2000, lượng hàng thuỷ sản đông lạnh vẫn tiếp tục tăng mạnh (chiếm
86% về giá trị các mặt hàng thuỷ sản chế biến của Việt Nam). Trong các sản phẩm
thuỷ sản đông lạnh thì tôm đông lạnh chiếm khoảng 23% về khối lượng chế biến. Mực
và bạch tuộc đông lạnh có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trung bình là 38,57%/năm.
Năm 2000, lượng mực chế biến đông lạnh xuất khẩu lên tới 38.104 tấn, chiếm 18%
khối lượng hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Mực thường được sản xuất dưới
dạng đông lạnh nguyên con, đông rời hoặc gần đây là Sashimi, Seafood mix, mực trái
thông v.v
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
18
Mặt hàng cá đông lạnh những năm gần đây cũng có tốc độ tăng rất mạnh. Năm
2000 đã đạt 56.052 tấn, chiếm 19% tổng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu. Mặt hàng filet
đông lạnh phần lớn được chế biến cho xuất khẩu. Đông lạnh nguyên con tăng nhanh
do được tiêu thụ cho cả thị trường nội địa, thị trường Trung quốc và một phần xuất
khẩu cãc thị trường khác.
Các loại đông lạnh khác: chủ yếu là các loại ghẹ, ốc, cua, sò, điệp, các mặt hàng
phối chế (như ghẹ nhồi Kany boy, Kany girl, gạch ghẹ đóng bánh đông lạnh). Các sản
phẩm này có tốc độ tăng trưởng rất nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng
có giá trị gia tăng. Năm 2000, sản lượng của các mặt hàng này tăng lên tới 77.212 tấn,
đạt 26% tổng sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam.
b. Mặt hàng tươi sống
Gần đây cũng đã phát triển, chủ yếu dùng cho xuất khẩu, bao gồm các loại cua,
cá, tôm còn sống hoặc loại còn tươi như thịt cá ngừ đại dương.
c. Mặt hàng khô
Dạng sản phẩm này được sản xuất khá phổ biến vì đơn giản về thiết bị, công
nghệ, các loại sản phẩm chính là mực khô, cá khô, tôm khô, rong câu khô, các loại khô
tẩm gia vị.
Mực khô là mặt hàng có sản lượng tăng giảm không ổn định có thể do sản
lượng khai thác không ổn định.
Rong câu khô chủ yếu được sản xuất theo phương pháp thủ công đơn giản, sản
phẩm gồm 2 loại rong câu khô ngọt và rong câu khô mặn tùy thuộc vào yêu cầu của
người mua hoặc thị trường tiêu thụ, ví dụ cho thị trường Nhật thường xuất khẩu rong
mặn, thị trường Liên Xô (cũ) xuất khẩu rong ngọt trong bao cói 35 kg.
Rong sụn và rong mơ chủ yếu được khai thác ở miền Trung (từ Đà Nẵng trở
vào), lượng khai thác và sử dụng còn ít.
Các loại cá khô như cá cơm, trích, lầm được sản xuất dưới dạng khô mặn, kỹ
thuật đơn giản, sản lượng có chiều hướng giảm sút do sức tiêu thụ trên thị trường
trong nước giảm dần, đòi hỏi phải được thay bằng những mặt hàng chế biến có chất
lượng cao hơn.
Các mặt hàng tôm nõn khô, khô nguyên con, moi khô, cá khô tẩm gia vị sản
lượng chưa được thống kê.
1.3. Tình hình xuất khẩu:
1.3.1. Mặt hàng xuất khẩu thủy sản
Cơ cấu sản lượng và giá trị theo các nhóm hàng sản phẩm thủy sản xuất
khẩu luôn có nhiều biến động, chỉ có mặt hàng tôm đông lạnh tương đối ổn định ở
mức trên 50% thị phần. Mặt hàng mực và tuộc đông lạnh có xu hướng giảm liên tục,
từ 15% năm 1997 xuống con 7% năm 2004. Mặt hàng cá đông lạnh tương đối ổn định
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
19
ở mức trên 10% thị phần những năm 2004 đã tăng lên chiếm 22% thị phần. Nhóm mặt
hàng thủy sản tươi sống có xu hướng tăng nhẹ. Nhóm mặt hàng thủy sản đông lạnh
khác và nhóm hàng khô có sự tăng giảm thất thường, không có xu hướng rõ rệt. Hàng
xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 201.724 tấn năm 1997 lên 516.952 tấn năm 2004,
tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1997-2004 là 14,4%/năm.
Biểu đồ 1: Mặt hàng xuất khẩu thủy sản qua hai năm 1997 và 2004
0%
10%
20%
30%
40%
50%
1997 2004
Tôm
Mực
Cá
Theo thống kê, hiện nay xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam phải đối mặt với
hàng loạt những khó khăn do các hàng rào kỹ thuật vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn tăng mạnh tại hầu hết các thị trường lớn như
EU, Mỹ, ASEAN, Ucraina….
Mục tiêu xuất khẩu của cả nước năm 2007 là: 3,6 tỷ USD
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2008 khoảng 4,25 tỷ USD
( Nguồn:
Bảng 1: Tình hình xuất khẩu trong những năm qua của Việt Nam
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
SL (tấn)
GT (triệu
US$)
SL (tấn)
GT (triệu
US$)
SL (tấn)
GT (triệu
US$)
SL
(tấn)
GT (triệu
US$)
458.496
2216,694
518.747
2400,781
626.991
2739,000
811.510
3348,291
(Nguồn: tổng hợp theo báo cáo của Bộ thủy sản, lấy từ các sở Thủy Sản
)
1.3.2. Thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu đã được mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, bao
gồm cả năm châu lục, trong đó Nhật Bản và Mỹ là hai thị trường lớn đầy tiềm năng.
Tuy thị trường Nhật vẫn là một thị trường lớn nhưng cũng giảm dần về tỷ trọng, từ
50% thị phần (năm 1997) xuống còn 32,2% (năm 2004). Thị trường Mỹ có tốc độ phát
triển khá nhanh, từ chỗ chỉ đạt 5% vào năm 1997, đến năm 2000 đã 20% thị phần và
năm 2004 chiếm 25%. Thị trường châu Á (trừ Nhật Bản) chủ yếu là Đài Loan và Hàn
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
20
Quốc có xu hướng giảm, tỷ trọng năm 1997 là 31%, đến năm 2000 giảm còn 28% và
năm 2004 chỉ chiếm 17,2%. Thị trường châu Âu ổn định ở mức 10% thị phần.
Biểu đồ 2: Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong 2 năm 1997 và 2004
0%
10%
20%
30%
40%
50%
1997 2004
Mỹ
Nhật
Châu Á (trừ Nhật Bản)
Châu Âu
Đầu năm 2006:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ
sản VN trong 3 tháng đầu năm 2006 đạt 332,5 triệu USD, tăng 4,48% so với cùng kì
năm 2005. Trong khi xuất khẩu tới Mỹ, Nhật Bản giảm sút thì xuất khẩu tới EU tăng
mạnh và EU lần đầu tiên trở thành thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của VN.
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong những tháng đầu năm 2006 đạt gần 78 triệu USD,
tăng 74% so với cùng kì năm trước, chiếm 23,5% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả
nước.
Biểu đồ 3:Thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản VN trong 2 tháng đầu năm 2006
EU
23.5
Nhật Bản
22
Mỹ
20.2
Hàn Quốc
7.6
Nga
3.1
Úc
3.9
Singapore
1.8
Canada
1.8
Trung Quốc
2.5
Thị trường khác
7.9
Hông Kông
2.9
Đài Loan
3
(Nguồn: Thông tin thương mại thuỷ sản số 27/3/2006)
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
21
Biểu đồ 4: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tới các thị trường chính 2 tháng đầu
năm 2006
78
44.8
73.2
95.2
67.2
85.3
25.1
16.8
13
13.5
10.2
2.5
9.9
10.1
9.5
11.5
8.2
6.9
6
5.4
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
EU Nhật Bản Mỹ Hàn Quốc Úc Nga Đài Loan Hồng
Kông
Trung
Quốc
Singapore
2 tháng đầu năm 2006
2 tháng đầu năm 2005
b
(Nguồn: Thông tin thương mại thuỷ sản số 27/3/2006)
Bảng 2:Thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản VN trong 12 tháng năm 2007
Thị trường
Số
lượng(tấn)
Giá
trị(USD)
EU 162139.2
527872801
Hoa Kỳ 56240.6
413589217
Nhật Bản 64351.2
396233096
Châu Á (không kể Nhật Bản, ASEAN) 111860.5
340631907
Châu Âu (không kể EU) 46181.3
118471273
ASEAN 39487.8
108108489
Châu Mỹ (không kể Hoa Kỳ) 20809.2
86043658
Châu Đại dương 13416.8
68820191
Thị trường khác 8030.9
30898126
Châu Phi 4993.2
13735902
Total 527510.7
2104404660
(Nguồn
:
Trung tâm Tin học Thuỷ sản)
• Thị trường EU:
Trong các năm qua EU là một thị trường thương mại quốc tế quan trọng. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự có chỗ đứng đáng kể trên thị trường này và
EU vẫn còn là thị trường giàu tiềm năng cần khai phá. Do đó, để thâm nhập tốt thị
trường này doanh nghiệp cần chú ý đến các khía cạnh về an toàn, sức khỏe, chất lượng
và các vấn đề môi trường và xã hội. Hiện nay và cả trong tương lai, quyền lợi của
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
22
người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Do vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố thành
công quan trọng nhất khi nhắm vào thị trường EU.
EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng rất cao, điều kiện thương mại
nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU là nổi tiếng về mẫu mốt, thị
hiếu, khác với khách hàng Việt Nam thì giá cả có vai trò quyết định trong việc mua
hàng. Do đó, khi các sản phẩm đạt các yếu tố về chất lượng, thời trang và giá cả hấp
dẫn thì sản phẩm mới có cơ hội hấp dẫn được người tiêu dùng ở Châu Âu. Đây là các
vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải chú ý để thâm nhập và thành công ở thị trường
này.
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116,7 triệu
đôla, năm 2004 - 231,5 triệu đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là
mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường EU. Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng
năm chỉ bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 367,3
triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch
(triệu USD)
71,8
90,7
73,7
116,7
231,5
367,3
Khối lượng
(tấn)
20.290,8
26.659,1
28.612,8
38.186,8
73.459,2
110.911,2
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản đông lạnh của Việt Nam theo thị trường EU
Thị trường
2001
2002
2003
Khối
lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Khối
lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Khối
lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Eu-15
Ai Xơ Len
63.4
314.7
9.1
35.4
53.8
234.5
Bỉ
4 064.2
18 516.6
5 902.9
18 573.6
8 738.8
31 934.6
Bồ Đào Nha
173.3
324.8
115
244.3
384.5
675.6
Italy
6 841.9
13 074.7
10 048.9
17 490.8
11 589.4
23 043.2
Đức
4 896.5
20 707.6
3 834.0
11 750.0
5 383.5
18 244.8
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
23
Anh
3 028.3
14 796.2
2 519.2
6 288.1
2 653.1
14 975.9
Pháp
5 273.0
15 372.1
3 445.9
12 281.8
4 308.2
14 599.3
Tây Ban Nha
1 858.2
4 802.5
2 042.0
5 122.0
3 739.5
8 261.6
Đan Mạch
284.7
1 254.6
465
1 258.3
569.1
1 880.4
Thuỵ Điển
146.1
1 534.6
86.5
299.4
255.7
1 346.2
Các thành viên mới
của EU
Séc - Czech
963.2
973
1 147.3
1 345.7
1 337.4
1 217.1
Ba Lan - Poland
50.6
130.5
157.7
335.9
568.2
1 101.5
EU-25
(Nguồn: Trung tâm Tin học)
Bỉ và Italy vẫn là hai thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam tại EU,
chiếm 53% tổng lượng hàng xuất sang EU năm. Việt Nam nằm trong tốp 10 nhà cung
cấp tôm hàng đầu của Bỉ với 4% thị phần nhập khẩu. Mặt hàng chính là tôm nước ấm
đông lạnh. Việt Nam đứng ở vị trí thứ 9 trong số các nhà xuất khẩu thủy sản sang Anh.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức giai đoạn 1999-2003
tăng 149% về khối lượng, từ 2.146 tấn lên 5.383 tấn và 68% về giá trị, từ 10,744 triệu
USD lên 18,244 triệu USD. Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chính sang Đức là cá
philê đông lạnh, nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể và thủy sản có vỏ. Sản phẩm tiềm
năng là cá basa philê đông lạnh.
•
Thị trường Hoa Kỳ
Là một trong những nhà nhập khẩu hàng đầu thế giới, thu hút sự quan tâm của
cả thế giới nên cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng vô cùng gay gắt và
quyết liệt. Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ kể từ năm 2002 sau
khi BTA có hiệu lực, trong khi các đối thủ cạnh tranh của ta đã có hệ thống bạn hàng
nhập khẩu và phân phối tại thị trường này từ rất lâu.
Thuỷ sản chế biến xuất khẩu sang Hoa Kỳ chưa nhiều, chủ yếu mới xuất khẩu
dưới dạng sơ chế cho nên trị giá xuất khẩu thấp. Nguyên nhân là do các cơ sở thuỷ sản
chưa hiểu hết được nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ, chưa có sự hợp tác đầu tư với đối
tác Hoa Kỳ về công nghệ chế biến thuỷ sản như chúng ta đã làm với các nhà đầu tư
Nhật Bản.
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
24
Bảng 5: Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ năm 2000 - 2004
Đơn vị : Nghìn USD
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
Tôm nước lợ
185,12
308,70
368,62
468,93
277,45
Cá sống
175
216
201
271
357
Cá sấy khô, ướp muối, hun
khói …
374
596
722
1,005
3,549
Hải sản thân mềm, nhuyễn
thể
8,17
6,16
5,82
7,44
6,18
Cá đông lạnh (không bao
gồm cá filê hoặc cá thịt khác)
6,80
10,22
9,23
10,70
14,71
Cá tươi (không bao gồm cá
filê hoặc cá thịt khác)
9,59
16,64
24,67
23,66
25,38
Cá filê và cá thịt khác tươi,
hoặc đông lạnh
32,61
41,72
69,17
56,45
78,36
(Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ)
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt
777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu
của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 triệu, chiếm 64% tổng
kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch
xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do tác động của thuế chống bán phá
giá.
Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ các mặt hàng như mực
đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, các
khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 602.9 triệu
USD. Hoa Kỳ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong đó, tôm
đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá
119 triệu USD.
Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá
ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa
Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất khẩu của Việt
Nam.
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là khá rộng lớn và
đầy tiềm năng. Hiện nay, thị trường còn được mở rộng ra thêm. Tuy nhiên, vẫn còn
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
25
gặp nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu thủy sản như: bị kiện là bán phá giá, kiểm
dịch vệ sinh thực phẩm…
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh đối với ngành thủy sản ở Việt Nam sau khi gia
nhập WTO:
2.1. Thách thức:
Sau khi gia nhập WTO, ngành thủy sản Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp nói riêng đã gặp phải một vài trở ngại:
Xuất khẩu thuỷ sản cũng còn nhiều thách thức, trong đó chủ yếu là các hàng rào
kỹ thuật mới từ các thị trường nhập khẩu đòi hỏi ngày càng cao. Bởi vậy, các doanh
nghiệp thuỷ sản phải không ngừng đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng
khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan
quản lý và doanh nghiệp để siết chặt công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất
lượng hàng thủy sản. Có làm tốt được điều này, năm 2008 mới có thể đạt được mục
tiêu kim ngạch xuất khẩu khoảng 4,25 tỷ USD. Ngành thủy sản cũng phải đẩy mạnh sử
dụng các tiến bộ công nghệ sinh học để phát triển nuôi trồng thủy sản trên quy mô lớn,
giảm thuế nhập khẩu thủy sản để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết vấn đề
thiếu nguyên liệu, đa dạng mặt hàng và tăng cường chế biến hàng có giá trị gia tăng
cao. Trong kế hoạch phát triển giai đoạn 2010-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đặt mục tiêu, giá trị xuất khẩu của riêng thủy sản phải đạt tối thiểu 7 tỷ USD
(gấp đôi năm 2007), đòi hỏi ngành thủy sản phải có những bước chuyển cơ bản trong
tư duy phát triển kinh tế thủy sản bền vững.
Bên cạnh đó, gia nhập WTO, thủy sản mất lợi thế về giá
.
Do vậy, chính Việt
Nam lại đang tạo một thị trường tốt để cho sản phẩm các nước nhảy vào. Thủy sản
Việt Nam đang xuất sang các thị trường có điều kiện hơn về công nghệ, về mức sống;
và các nhà máy chế biến của nước ta đã đáp ứng được yêu cầu của họ. Song, hạ tầng
cơ sở của nhiều nhà máy vẫn là sản xuất nông nghiệp, manh mún. Điều này có thế
mạnh trong việc phát huy nội lực nhưng lại rơi vào thế yếu khi sản xuất hàng hóa với
khối lượng lớn.
Trước đây, vấn đề An Toàn Vệ Sinh sản phẩm thủy sản quyết định ở sản phẩm
cuối nhưng nay đã khác, phải "sạch" ngay từ khâu con giống, quá trình nuôi mới đến
chế biến, nếu không sản phẩm không sạch. Rõ ràng là quả bóng trong chân mình, mình
phải tự quyết định.
Nhược điểm chính của xuất khẩu thủy sản Việt Nam là chưa định hình, tập
trung sức để tạo một số mặt hàng chủ lực, chưa có các giải pháp đồng bộ (tạo nguồn
nguyên liệu lớn, ổn định, đúng tiêu chuẩn kích cỡ, độ tươi và công nghệ chế biến cao).
Chưa tập trung giải quyết tốt việc đổi mới công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với