Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nguồn gốc của tên gọi Nghệ thuật thứ bảy pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.26 KB, 7 trang )

Nguồn gốc của tên gọi Nghệ thuật
thứ bảy



Người yêu thích điện ảnh ở Việt Nam lâu nay ít khi để ý đến nguồn gốc tên gọi
“Nghệ thuật thứ bảy” dành cho điện ảnh, mặc dù thỉnh thoảng vẫn gặp trên báo chí
tên gọi này. Mươi năm lại đây lác đác xuất hiện một số tài liệu giải thích rằng:
“Sở dĩ gọi điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy vì nó ra đời sau 6 nghệ thuật có trước
nó”.
Nhưng 6 nghệ thuật có trước nó là những nghệ thuật gì, thì mỗi người liệt kê ra
những tên khác nhau.

Trong công trình “Văn học dân gian và nghệ thuật tạo hình điện
ảnh” tiến sỹ Nguyễn Mạnh Lân và tiến sỹ Trần Duy Hinh liệt kê 6 nghệ thuật
đó là: Văn học, Múa, Âm nhạc, Hội họa, Kiến trúc và Sân khấu.

Cuốn “Điện ảnh – Nghệ thuật thứ bảy” do Cao Thụy biên soạn lại liệt kê ra: “ Văn
học, Kiến trúc, Nghệ thuật tạo hình (trong đó có điêu khắc,hội họa, đồ họa, trang
trí mỹ nghệ ) Sân khấu, Múa, Âm nhạc.”

Các liệt kê trên không có sự thống nhất khi nêu tên những nghệ thuật ra đời trước
điện ảnh. Hơn nữa trong số các nghệ thuật trên không ai nêu ra “Nhiếp ảnh”
cả. Không rõ vì lý do gì, vì nhiếp ảnh không phải là một nghệ thuật hay vì nó ra
đời sau điện ảnh? Đặc biệt không ai cho biết xuất xứ của tên gọi “Nghệ thuật thứ
bảy”.

Người đầu tiên dùng cụm từ “Nghệ thuật thứ bảy” là Ricciotto Canudo (1879 –
1923). Ông là người Pháp gốc Ý, là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, nhà nghiên
cứu văn học và nghệ thuật. Cụm từ “Nghệ thuật thứ bảy” được ông dùng không
phải để đặt tên cho điện ảnh mà dùng nó khi viết về điện ảnh trong quá trình


nghiên cứu tính chất và mối quan hệ của các loại hình nghệ thuật. Lúc đầu ông
còn chưa dùng cụm từ “nghệ thuật thứ bảy” mà dùng cụm từ “ nghệ thuật thứ
sáu” để chỉ điện ảnh.

Việc nghiên cứu tính chất của các loại hình nghệ thuật đã được tiến hành từ
thời Cổ đại. Trong cuốn sách “ Phân loại nghệ thuật” (1) nhà mỹ học xô-
viết M. Kagan cho biết nhà nghiên cứu nghệ thuật người Đức Max Dessoir
(2) (1867 – 1947) phát hiện ra là vào thời “hậu Aristote” người ta đã tách ra 6
loại hình nghệ thuật và căn cứ vào tính chất của chúng xếp thành hai nhóm: 1/
Nhóm nghệ thuật tĩnh gồm có Kiến trúc, Điêu khắc và Hội họa. 2/ Nhóm nghệ
thuật động gồm có Âm nhạc , Thơ và Múa.


Sau này Friedrich Hegel ( 1770 – 1831) trong “Những bài giảng về Mỹ
học”, theo một hướng nghiên cứu khác, đã xếp 6 nghệ thuật trên thành hai
nhóm: 1/ Nhóm có kích cỡ vật thể nhỏ dần gồm Kiến trúc, Điêu khắc và Hội họa.
2/ Nhóm có khả năng biểu hiện tăng dần gồm Âm nhạc, Thơ và Múa.

Điện ảnh sau khi ra đời, nhờ sự tìm tòi sáng tạo của các nghệ sỹ, đã dần dần vươn
tới tầm cỡ một nghệ thuật. Các nhà trí thức, các nghệ sỹ, các nhà lý luận rất ủng hộ
xu hướng này và bằng những phân tích lý luận sâu sắc tác động mạnh vào quá
trình hoàn thiện nghệ thuật điện ảnh. Một trong những người đó là Ricciotto
Canudo.

Nhà đạo diễn, nhà lý luận điện ảnh Pháp Jean Epstein (1897 – 1953) đã viết:
“ Vào năm 1911 và nhiều năm sau đó, khi phim ảnh, trên thực tế và trên lý luận,
còn là trò tiêu khiển cho học sinh, là phương tiện giải trí hấp dẫn, thì Canudo đã
hiểu rằng điện ảnh có thể và cần phải trở thành một Nàng Thơ mới mà lúc đó nó
mới chỉ tồn tại trong tiềm năng. Ông đã nhìn thấy những khả năng phát triển cụ
thể của điện ảnh và những tiền đồ vô tận đang mở ra trước nó”. (3) Trong cuốn

“Lịch sử lý luận điện ảnh” (4) tác giả Guido Aristarco gọi ông là người tiên phong
đặt nền móng cho lý luận điện ảnh.

Ricciotto Canudo trong quá trình nghiên cứu tính chất của các nghệ thuật cũng sử
dụng mô hình hai nhóm nghệ thuật trên. Năm 1911 ông cho đăng bài “Sự ra đời
của nghệ thuật thứ sáu – Tiểu luận về điện ảnh”, trong đó ông bỏ “Thơ” ra,
chỉ phân tích tính chất của 5 nghệ thuật và điện ảnh được ông gọi là nghệ thuật
thứ sáu. Về sau, trong quá trình hoàn thiện lý luận của mình, ông đã đưa “Thơ”
trở lại và năm 1923 ông xuất bản công trình “ Tuyên ngôn của bảy nghệ thuật”.

Khác với các hướng nghiên cứu trước đây, khi sử dụng mô hình hai nhóm nghệ
thuật, R. Canudo cho rằng có hai nghệ thuật chính là Kiến trúc và Âm
nhạc. Kiến trúc có hai nghệ thuật phù trợ là Điêu khắc và Hội họa, tạo thành một
nhóm. Âm nhạc có hai nghệ thuật phù trợ là Thơ và Múa, tạo thành một nhóm.

Hai nhóm nghệ thuật này có những tính chất khác nhau. Nhóm I có 3 tính
chất: đó là nghệ thuật không gian, là nghệ thuật tĩnh và là nghệ thuật tạo hình.
Còn nhóm II có 3 tính chất: đó là nghệ thuật thời gian, là nghệ thuật động và là
nghệ thuật tiết tấu.

Có thể thấy rằng trong nghiên cứu của mình, khi chọn ra 6 nghệ thuật để phân
tích, R. Canudo đã kế thừa cơ sở lý luận của những người đi trước, chứ không
tùy tiện chọn ra 6 nghệ thuật nào cũng được.

Trong “Tuyên ngôn của bảy nghệ thuật”, sau khi phân tích tính chất của 6 nghệ
thuật ở hai nhóm trên, ông dành vị trí thứ bảy cho điện ảnh mà ông gọi là “Nghệ
thuật tổng thể”. Theo R. Canudo thì Điện ảnh tổng hợp các tính chất của 6 nghệ
thuật trên. Tức là Điện ảnh vừa là nghệ thuật không gian lại vừa là nghệ thuật thời
gian; vừa là nghệ thuật tĩnh lại vừa là nghệ thuật động; vừa là nghệ thuật tạo hình
lại vừa là nghệ thuật tiết tấu.


R. Canudo viết: “ Lý thuyết về nghệ thuật thứ bảy mà tôi đã trình bày lần đầu tiên
cách đây 3 năm ở khu Latinh là phù hợp với mọi logich và được biết đến trên
toàn thế giới. (…) Nhiều kẻ đã sử dụng khái niệm nghệ thuật thứ bảy cốt để kiếm
tiền mà không dám chịu trách nhiệm về ý nghĩa của từ Nghệ thuật. Chúng ta cần
Điện Ảnh để tạo nên Nghệ Thuật tổng thể, nơi hội tụ của mọi nghệ thuật”.(5)

Ông viết tiếp: “Ngày nay, “vòng chuyển động” của mỹ học khép lại đày kiêu
hãnh trong một tổng thể các nghệ thuật mang tên Điện Ảnh. Nếu chúng ta coi
hình oval như hình ảnh tượng trưng cho vòng đời , vòng chuyển động gãy khúc ở
hai cực, nghệ thuật hay mọi nghệ thuật được thể hiện theo chiều ngang trên giấy
như sau:

Đã bao thế kỷ trôi qua, cho đến ngày nay, đối với tất cả các dân tộc trên trái đất
này, hai nghệ thuật (chính) với bốn nghệ thuật phù trợ vẫn không thay đổi. Cái
được gọi là tiến triển của nghệ thuật chỉ là cách chơi chữ khó hiểu mà thôi.

Ngày nay chúng ta biết tổng hợp một cách thần kỳ vô vàn kinh nghiệm của con
người. Chúng ta biết kết hợp Khoa học và Nghệ thuật để nắm bắt và cố định nhịp
điệu của ánh sáng. Sự kết hợp đó được gọi là Điện Ảnh.”(5)


Điện ảnh không chỉ có một tên gọi là “Nghệ thuật thứ bảy”. Một số người còn đặt
cho điện ảnh những tên khác nữa. Đạo diễn điện ảnh Pháp Abel Gance (1889 –
1981) gọi điện ảnh là “ Nghệ thuật thứ sáu”. Nhà phê bình Emile Viyermose của
tạp chí Temps gọi là “Nghệ thuật thứ năm”(6) . Còn đạo diễn điện
ảnh Jean Cocteau ( 1889 – 1963) thì gọi điện ảnh là “Nàng Thơ Thứ Mười” (7).

Như chúng ta biết, theo thần thoại Hy lạp, thần Zeus có 9 cô con gái đa tài mà
thần rất yêu quý. Thần Zeus giao cho mỗi cô cai quản và bảo trợ một nghệ thuật

chữ Hy Lạp viết là “Musa”. Ở Việt Nam từ “Musa” được dịch thành “Nàng
Thơ”. Chín Nữ thần (Nàng Thơ) đó là:

1. Calliope: Nữ thần Sử thi
2. Clio : Nữ thần Lịch sử
3. Erato : Nữ thần Thơ trữ tình
4. Euterpe : Nữ thần Âm nhạc
5. Melpomene: Nữ thần Bi kịch
6. Polimynie : Nữ thần Thuật hùng biện
7. Terpsichore : Nữ thần Múa
8. Thalie : Nữ thần Hài kịch
9. Uranie : Nữ thần Thiên văn

Như vậy sau 9 Nàng Thơ, 9 Nữ thần nghệ thuật trong thần thoại Hy Lạp, Jean
Cocteau dùng “Nàng Thơ Thứ Mười” để đặt tên cho điện ảnh. Tên gọi này ít được
phổ biến, nhưng cũng được một số nước dùng, như ở Nga chẳng hạn, người viết
thường dùng “Nàng Thơ thứ mười” nhiều hơn là “Nghệ thuật thứ bảy”. Còn hai
tên gọi kia thì rơi vào lãng quên./.


×