Từ Kỹ thuật & Ma thuật đến
Nghệ thuật & tác lực qua góc
nhìn của Alfred Gell
Alfred Gell
Kỹ thuật & ma thuật cùng với Nghệ thuật & tác lực
1
- những tác phẩm cuối
cùng được Alfred Gell viết trong thập niên trước lúc qua đời vì bệnh ung thư ở
tuổi 51 - đã tạo nên một hiện tượng tác động mạnh đến các nhà khoa học xã hội và
nhân văn, đặc biệt là với giới nghiên cứu nghệ thuật, trong những năm đầu thế kỷ
XXI.
Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và tác lực của nó là một bước tiến
dài trong hành trình phát triển hàng triệu năm của loài người. Nói cách khác, kỹ
thuật và ma thuật là những yếu tố văn hóa đã được hình thành từ giai đoạn sơ khai
của loài người, trong khi nghệ thuật và tác lực của nó chính là những thành tựu
đỉnh cao mà loài người đã đạt được trong lịch sử văn minh của mình. Với sự nhạy
cảm khoa học và hệ thống kiến thức phong phú có được trong lĩnh vực nghiên cứu
của mình (nhân học), Alfred Gell đã kết nối các vấn đề lịch sử văn minh của nhân
loại với khoa học và nghệ thuật chỉ gói gọn trong một thuật ngữ: Nhân học nghệ
thuật (anthropology of art). Theo ông, “nhân học nghệ thuật tập trung vào bối cảnh
xã hội của việc chế tác, lưu hành, tiếp nhận nghệ thuật hơn là đánh giá những tác
phẩm cụ thể” vì “công việc đánh giá đó là chức năng của một nhà phê bình” (Gell,
1998)
2
. Với nhân học nghệ thuật, Gell đã giúp các nhà nghiên cứu có thể phân biệt
được giá trị của các sản phẩm kỹ thuật hay nghệ thuật mang tính ma thuật của thổ
dân khác với các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ như thế nào. Xa hơn, nhà
nghiên cứu có thể đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật đích thực của tác phẩm nghệ
thuật trong đời sống xã hội mà ông gọi đó là tác lực
3
của nó.
Trước Gell, các nhà khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) hàng đầu
trên thế giới đều quan tâm đặc biệt tới mối quan hệ xã hội giữa ma thuật, khoa học
và tôn giáo. Đã có hàng chục công trình “kinh điển” mang nội dung ma thuật,
khoa học và tôn giáo của Tylor (1871), Frazer (1900), Mauss (1902), Durkheim
(1012), Leeuw (1933), Evans-Prichard (1937), Malinowski (1948) Tambiah
(1984), ra đời chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng thật đáng ngạc nhiên,
các nhà KHXH&NV hàng đầu đó lại rất ít đề cập trực tiếp đến nghệ thuật, đặc biệt
là nghệ thuật đương đại, như cách làm của Gell. Một số công trình nghiên cứu căn
bản của các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz, Schneider, cũng chỉ
chủ yếu xoay quanh việc phân tích các yếu tố nghệ thuật mang tính biểu tượng và
ma thuật của các bộ lạc đang sống trong nền văn minh tiền công nghiệp hoặc tìm
hiểu tính biểu tượng của hệ thống thân tộc trong xã hội Hầu như chưa có một
công trình nào của họ khả dĩ có thể được sử dụng như một công cụ lý thuyết để
tiếp cận đối với nghệ thuật hiện đại và đương đại. Có lẽ vì những lý do đó mà các
công trình nghiên cứu của Gell đã nhận được nhiều sự quan tâm của giới khoa học.
Kỹ thuật và Ma thuật
Kỹ thuật & Ma thuật chỉ là một bài viết ngắn của Gell với vỏn vẹn bốn
trang, từ trang 6 đến trang 9 ở Tạp chí Nhân học ngày nay (trong tập 4, số 2, tháng
4/1988). Vì vậy, rất khó để có thể đặt nó lên ngang hàng cùng với Nghệ thuật &
Ma lực là một cuốn sách dày gần 300 trang được xuất bản sau đó 10 năm. Tuy
nhiên, ý đồ của tôi khi chọn các công trình nghiên cứu này để giới thiệu ở đây
chính là cái nhìn xuyên suốt thời gian và không gian của Gell đối với nghệ thuật
dưới góc nhìn nhân học nghệ thuật.
Kỹ thuật và ma thuật là những thành tố văn hóa mà con người đã sử dụng
ngay từ buổi bình minh của nhân loại. Thậm chí, Gell cho rằng khả năng kỹ thuật
không chỉ có ở loài người mà còn tồn tại ở nhiều loài khác như vượn người, tinh
tinh, và ông không chấp nhận giả định về việc sử dụng công cụ “là một yếu tố
duy nhất chỉ loài người mới có” (Gell, 1988).
Cái nhìn xuyên thời gian của Gell đã được chứng minh bởi trong sự phát
triển của khoa học công nghệ hiện nay, kỹ thuật vẫn là một yếu tố then chốt trong
đời sống văn hóa của con người trong thế kỷ XXI. Không chỉ có cái nhìn xuyên
suốt lịch sử hàng triệu năm tiến hóa của loài người như đã nêu, Gell còn cho
chúng ta một cái nhìn khái quát về không gian dưới góc độ nghệ thuật: Từ các
hình vẽ ma thuật của các tộc người tiền sử đến các tác phẩm kinh điển trong nghệ
thuật Phục Hưng và nghệ thuật hiện đại; từ những hình minh họa của thổ dân châu
Phi và châu Á – Thái Bình Dương đến các tác phẩm hội họa ở các trung tâm nghệ
thuật ở châu Âu, thậm chí là ngôn ngữ biểu tượng trong các chương trình quảng
cáo bia và xe hơi
Sự tách bạch về mặt thuật ngữ của Gell giữa kỹ thuật và ma thuật với nghệ
thuật và tác lực có ý đồ sâu xa bằng một cái nhìn mang tính hệ thống. Trong Kỹ
thuật & Ma thuật ông gọi đó là “hệ thống kỹ thuật” với ba trọng tâm là kỹ thuật
chế tác, kỹ thuật sản sinh và kỹ thuật mê hoặc.
Alfred (Antony Francis)
Gell (1945 – 1997) là nhà
nhân học xã hội Anh có
ảnh hưởng lớn đối với
nghệ thuật, ngôn ngữ,
biểu tượng và nghi lễ.
Ông là học trò của
Edmund Leach khi theo
học chương trình MPhil
(thạc sĩ bậc cao - ở Việt
Nam không có chương
trình này) tại ĐH
Bằng việc tìm hiểu hệ thống kỹ thuật từ kỹ
thuật chế tác đến kỹ thuật mê hoặc trong quá trình
phát triển văn minh của nhân loại, Gell đã tìm ra mối
quan hệ đặc biệt quan trọng giữa kỹ thuật và ma thuật.
Theo ông, ma thuật là, hay đã từng là, một yếu tố
trong mỗi kỹ thuật đã nêu ở trên nhưng điểm khác biệt
là ma thuật có tính biểu tượng, và “ma thuật với tư
cách là một phần phụ thêm vào quá trình kỹ thuật, tiếp
tục tồn tại bởi vì nó như là những mục đích mang tính
“biểu tượng” Suy nghĩ mang tính ma thuật hình
thành và mã hóa các yếu tố cấu trúc của hoạt động kỹ
thuật, áp đặt vào nó một bộ khung tổ chức điều chỉnh mỗi giai đoạn tiếp nối trong
một quá trình phức tạp” (Gell, 1988). Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa
Gell và các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz, Schneider, trong
nghiên cứu biểu tượng. Các nhà nhân học biểu tượng nói trên đã tiếp cận các biểu
tượng bằng việc diễn giải chúng (đó cũng là lý do nhân học biểu tượng còn được
gọi là nhân học diễn giải), trong khi Gell tiếp cận các biểu tượng bằng một cái
nhìn hệ thống từ yếu tố kỹ thuật đến ma thuật. Ông cho rằng, ma thuật “tạo ra một
tiêu chuẩn lý tưởng, không phải để đạt được trong hiện thực, mà hướng tới những
hành động kỹ thuật mang tính thực hành nhưng có thể định hướng được”(Gell,
1988).
Góc nhìn này của Gell dường như có thể khai thông được sự bế tắc mà các
nhà nhân học biểu tượng đã vấp phải khi họ bị “cuốn” theo việc diễn giải các biểu
tượng, các hành vi biểu tượng và các hệ thống biểu tượng. Việc diễn giải các biểu
tượng dù là diễn ngôn của nhà khoa học hay “nhìn qua vai” của chủ thể (như
Geertz đã thực hiện), thậm chí là triệt để tôn trọng chủ thể (thông qua phỏng vấn
trực tiếp hay quan sát tham dự) vẫn có thể dẫn dắt chúng ta lạc vào “rừng biểu
tượng” (thuật ngữ của Turner). Căn nguyên của tình trạng này chính là do đặc tính
Cambridge. Raymond
Firth chính là người
hướng dẫn luận án tiến sĩ
của ông tại trường Kinh tế
London (London School of
Economics). Alfred Gell
trở thành giảng viên của
trường này cho đến khi
ông mất.
đa nghĩa và trừu tượng của biểu tượng. Sự bế tắc đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến thoái trào của nhân học biểu tượng vào cuối thập kỷ 80 tới đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ XX.
Theo cách nhìn của Gell, nhà khoa học không nên quá lệ thuộc vào việc
diễn giải ý nghĩa của các biểu tượng, đặc biệt là đối với ma thuật. Bởi một khi yếu
tố kỹ thuật mang tính biểu tượng biến thành ma thuật thì mục tiêu căn bản của nó
vẫn chỉ là để phục vụ ý tưởng của chủ thể tạo ra nó. Nếu nhà khoa học bị “cuốn”
theo những ý tưởng đó thì vô hình trung họ lại chính là kẻ bị ma thuật chinh phục,
và khi đó, tính khách quan của khoa học sẽ không còn.
Thuật ngữ ‘ma thuật’ trong cách dùng của Gell không chỉ là các vật biểu
tượng, hành vi biểu tượng, nghi lễ biểu tượng, được tạo bởi chủ thể như các vị
thầy cúng mà các nhà nhân học biểu tượng trước ông đã nghiên cứu mà còn là mọi
loại kỹ thuật mang tính biểu tượng được tạo ra để phục vụ cho chủ thể của nó.
Theo ông: “Những nhà tuyên truyền, những người chụp ảnh và những nhà lý luận
về nền văn minh kỹ thuật là những người tạo nên ma thuật, và nếu họ không cho
đó là thế lực siêu nhiên thì chỉ vì bản thân kỹ thuật đã trở nên mạnh đến mức họ
không phải làm điều đó. Và nếu chúng ta không còn thừa nhận ma thuật một cách
rộng rãi nữa thì đó là vì kỹ thuật và ma thuật, với chúng ta là một và như nhau”
(Gell, 1988).
Nghệ thuật và tác lực
Ở trên, chúng ta đã lướt qua những nét khái lược nhất mang tính tiền đề để
đến với một hệ khái niệm mới mẻ hơn, phức tạp hơn, nhưng cũng quan trọng hơn
trong nghệ thuật. Tôi cho rằng nó quan trọng hơn là vì trước Gell chưa có một nhà
nhân học nào đề cập đến nghệ thuật và tác lực của nó như cách nhìn của ông trong
Nghệ thuật & tác lực. Trên thực tế, lịch sử nghệ thuật, nếu tính từ giai đoạn sơ
khai của loài người, đã có tuổi hàng vạn năm nếu không nói là xa hơn. Nhưng
nghiên cứu nghệ thuật thì có tuổi đời trẻ hơn nhiều và dĩ nhiên nó phải ra đời sau
khi có chữ viết. Nghiên cứu nghệ thuật là một loại hình công việc học thuật mang
tính hàn lâm nhằm tìm hiểu giá trị của các tác phẩm nghệ thuật trên nhiều khía
cạnh như bản thể luận nghệ thuật (ontology of art), mỹ học (easthetic), mỹ học
môi trường (environmental easthetic), và tất nhiên không thể thiếu lịch sử nghệ
thuật (art history) và phê bình nghệ thuật (art criticism). Nếu coi lịch sử nghệ thuật
là cách tiếp cận theo chiều dọc và phê bình nghệ thuật là chiều ngang thì việc tìm
hiểu các khía cạnh còn lại của các tác phẩm nghệ thuật chính là chiều thứ ba mà
nhà nghiên cứu phải hướng tới, và nhân học nghệ thuật theo hướng tiếp cận của
Gell nằm trong chiều kích thứ ba này.
Mặc dù nhân học nghệ thuật của Alfred Gell mới chỉ ra đời hơn một thập
niên tính từ thời điểm Nghệ thuật & tác lực được xuất bản tới nay, nhưng hướng
tiếp cận này của ông ngay lập tức nhận được nhiều sự quan tâm của giới nhân học
nói riêng và các nhà nghiên cứu nghệ thuật nói chung. Vậy nhân học nghệ thuật là
gì? Gell định nghĩa: Nhân học nghệ thuật là nghiên cứu mang tính lý thuyết về các
mối quan hệ xã hội diễn ra quanh các hiện vật (Gell, 1998. tr.7).
N hưng như thế nào là ‘mối quan hệ xã hội’ theo quan niệm của Gell?
Trong Nghệ thuật & tác lực, ông đã chỉ ra tám loại quan hệ dạng này, khởi đầu
bằng chỉ báo (index) một thuật ngữ được Charles Sanders Peirce
4
sử dụng trong lý
thuyết Ký hiệu học từ những năm đầu thế kỷ XX.
5
Dường như Gell đã có ý chọn
lý thuyết ký hiệu học để tạo nền tảng cho nhân học nghệ thuật của mình, nếu quả
như vậy, đó sẽ là một hướng đi khôn ngoan sau giai đoạn thoái trào của nhân học
biểu tượng. Các mối quan hệ xã hội tiếp theo mà ông đã chọn bao gồm: Quy gán
(abduction, có dịch giả sử dụng là quy kết), tác nhân xã hội (social agent), nghịch
biện loại suy (paradox elimination), tác nhân và đối tượng (agents and patients),
nghệ sĩ (artist), người thưởng thức/thụ hưởng (recipient), và cuối cùng là nguyên
mẫu (prototype). Tất cả các mối quan hệ xã hội này đều diễn ra quanh các hiện
vật/chủ thể (objects).
Xuyên suốt lý thuyết nhân học nghệ thuật được đề cập trong Nghệ thuật &
tác lực là hai thuật ngữ chỉ báo (index) và quan hệ nghệ thuật (art nexus). Gell đã
dành trọn chương 3 để tìm hiểu các mối liên hệ giữa hai khái niệm này với các cặp
phạm trù giữa: tác nhân với đối tượng; chỉ báo với nghệ sĩ; chỉ báo với người
thưởng thức; chỉ báo với nguyên mẫu; nghệ sĩ với chỉ báo; người thưởng thức với
chỉ báo; nguyên mẫu với chỉ báo. Thông qua các mối liên hệ này ông cho rằng các
thành tố trọng tâm của chỉ báo chính là tính logic của tiền tố và hậu tố giữa tác
nhân và đối tượng (agent and patient). Trong ba chương tiếp theo của cuốn sách
(4,5 và 6), Gell tiếp tục đề cập đến sự kết nối phức tạp giữa chỉ báo với các mối
quan hệ nghệ thuật, bản chất của chỉ báo và các vấn đề của chỉ báo (Gell, 1998.
tr.51-94). Ông cho rằng đã có sự gắn kết trật tự đối với mối quan hệ đặc biệt của
cặp phạm trù tác nhân và đối tượng. Theo đó, một cặp phạm trù tác nhân và đối
tượng này sẽ là tiền đề để nó hình thành một cặp mới mà cặp cũ sẽ là tác nhân của
cặp phạm trù mới. Sự thay thế đó được ông mô hình hóa như sau:
Từ những phân tích như vậy, Gell đã đi đến kết luận, khởi nguồn của chỉ
báo là tác lực (agency) và sự quyến rũ (captivation). Đây có thể được coi như một
chiếc chìa khoá mở ra cánh cửa của thế giới bí ẩn trong nghệ thuật vốn gây ít
nhiều lúng túng cho các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật.
Một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam
Dễ dàng nhận thấy một sự bất cân xứng trong sự phát triển giữa sáng tạo
nghệ thuật với nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam. Trong khi sáng tạo nghệ thuật
phát triển một cách hết sức nhanh chóng và khó lường thì nghiên cứu nghệ thuật ở
nước ta vẫn “dậm chân” tại chỗ với hai bộ môn khoa học đã được du nhập từ nền
khoa học và nghệ thuật hàn lâm phương Tây non một thế kỷ trước, đó là lịch sử
nghệ thuật và phê bình nghệ thuật. Cả hai bộ môn này chỉ giúp giải quyết những
vấn đề mang tính lịch đại (với lịch sử nghệ thuật) và tìm hiểu giá trị nghệ thuật
(với phê bình nghệ thuật) mà rất ít đề cập đến những khía cạnh mang tính xã hội
của nghệ thuật (chẳng hạn như tác lực của nó). Và chiều kích thứ ba như góc nhìn
của Gell chính là chiều kích xã hội của các tác phẩm nghệ thuật thông qua tác lực
của chúng.
Nếu không lưu tâm đến chiều kích thứ ba này, nhà nghiên cứu có thể vấp
phải những sự cố vô cùng đáng tiếc. Chẳng hạn, một nhà phê bình mỹ thuật viết
một tác phẩm “để đời” về một bức tranh nổi tiếng trong lịch sử được trưng bày ở
một bảo tàng lớn. Tác phẩm phê bình này dĩ nhiên có thể được coi là “kinh điển”
nếu như không có một vấn đề mang tính xã hội xen vào: Bức tranh đó là đồ giả!
Vậy bức tranh đó có thể là một đối tượng nghiên cứu hay không? Câu trả lời là
Không đối với nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật nhưng lại là Có đối
với nhà nhân học nghệ thuật. Vậy nhà nhân học sẽ làm gì với món hàng giả này?
Dĩ nhiên, anh ta sẽ phải tìm hiểu lịch sử, giá trị nghệ thuật của bức tranh thật và
hiệu ứng xã hội từ khi nó ra đời. Tiếp theo, anh ta sẽ phải tìm hiểu xem những
nguyên nhân nào khiến cho những kẻ làm đồ giả rắp tâm làm giả bức tranh đó?
Lại nữa, con đường nào và bàn tay của ai đã giúp cho bức tranh đó có một vị trí
trang trọng trong bảo tàng? Đó chính là một vài công việc trong vô số công việc
của nhà nhân học đối với một thứ “đồ bỏ” của nhà phê bình nghệ thuật. Thực tế là
tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã xảy ra việc chép tranh, trưng bày tranh giả và
đã “lừa” được công chúng và các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật
trong suốt hơn 40 năm qua!6 Hãy thử tưởng tượng xem trong hơn 40 năm qua có
biết bao nhiêu tác phẩm nghiên cứu và phê bình mỹ thuật “ca ngợi” vẻ đẹp của
những thứ hàng giả này?
Có thể nói một cách không quá lời rằng, nếu không đưa chiều kích thứ ba
(chiều kích có tính xã hội) vào nghiên cứu nghệ thuật thì một bộ môn khoa học
hàn lâm có tên gọi nghiên cứu nghệ thuật sẽ chỉ mãi là một “cậu bé” chưa trưởng
thành.
***
Từ góc nhìn của Alfred Gell soi chiếu vào thực trạng nền nghệ thuật cũng
như vai trò và vị trí của nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, chúng ta sẽ nhận thấy
các vấn đề xã hội có tầm ảnh hưởng quan trọng như thế nào đối với nghệ thuật. Ở
chiều ngược lại, chúng ta cũng có thể nhận thấy nghệ thuật tác động mạnh mẽ như
thế nào đối với xã hội thông qua tác lực của nó. Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ
thuật và tác lực đã được nêu qua hai công trình khoa học của Alfred Gell chính là
hành trình phát triển hàng triệu năm của nền văn minh nhân loại. Hy vọng trong
tương lai những trước tác quan trọng như vậy sẽ được dịch ra tiếng Việt để bạn
đọc và giới chuyên môn ở Việt Nam có thêm một loại tài liệu tham khảo, một
hướng tiếp tiếp cận mới, một phương pháp nghiên cứu mới, đối với nghiên cứu
nghệ thuật nói chung và nhân học nghệ thuật nói riêng.