Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đề tài " Hạn chế của Việt Nam giai đoan 2006 -2011 trong phát triển kinh tế '''' docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.26 KB, 13 trang )

Bài gồm 3 phần chính:
Phần 1 : Kinh tế Việt Nam và những thành tựu đạt được.
Phần 2 : Hạn chế của Việt Nam giai đoan 2006 -2011 trong phát triển
kinh tế.
Phần 3: Kết luận.
1. Những thành tựu nổi bật
Biểu đồ 1: tăng trưởng GDP (nguồn Worldbank)
Đoạn 2006 – 2007 Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên chặng đường phát triển mới, đạt
được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Sang những năm cuối của thời kỳ kế hoạch, nhất là từ Quý
II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta, nhưng Việt
Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng
khá với mức tăng trưởng bình quân trong cả thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế -
xã hội được nâng lên đáng kể. Điều này được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh
vực lớn như sau:
Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP (tính theo giá trị so sánh) năm
2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt trên
101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước
khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Hầu hết các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
Cấu trúc kinh tế đã có những thay đổi tích cực, hứa hẹn sáng sủa hơn trong tầm nhìn dài
hạn. Giao lưu kinh tế quốc tế phát triển. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt
56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỉ USD năm 2006 đã tăng lên 8 mặt
hàng năm 2010.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có
nhiều thuận lợi. Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt
11,5 tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với năm trước.
Năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỉ USD vào
năm 2009 và khoảng 11 tỉ vào năm 2010 (tăng 157,5% so với năm 2006). Thời kỳ 2006-2010,
FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm.


Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm cuối
kỳ kế hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức khoảng 28% GDP,
bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia được bảo đảm, ước tính đến
cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5% GDP. Dư nợ ngoài nước của quốc gia so
GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách tiền tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường,
góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ
thống ngân hàng thương mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng; tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế trên 8%. Cán cân thanh toán
quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế hoạch, còn 2 năm cuối (2009-2010) tuy
có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá vỡ cân đối.
Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua theo giá
hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7% GDP, gấp
hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được
cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh
xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, khu
chế xuất, cụm công nghiệp được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở tất cả các vùng, miền
trong cả nước.
Cụ thể nhìn vào thực tế 2005-2010 cuộc sống của người dân đã được cải thiện một cách đáng kể.
- Các mặt hàng ngoài thị trường gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng giúp cho người
tiêu dùng có thêm sự lựa chọn cho mua sắm.
1-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
đây là một bước ngoặt lớn, hàng loạt các mặt hàng vốn bị cấm hoặc đánh thuế quan cao đã được
chấp nhận lưu hành trong thị trường nội địa. (VD: xe máy phân khối lớn) Các mặt hàng cao cấp,
xa xỉ, hàng nhập khẩu hàng Việt Nam chất lượng cao trở nên đa dạng phong phú, các khu mua
bán, chợ được hình thành, hàng hóa trở nên phổ biến và phong phú. Các thương hiệu nổi tiếng
cũng dần xuất hiện trên thị trường. Nền văn hóa ẩm thực cũng được mở rộng, từ các món gia
truyền tới các quán đồ Nhật, đồ Tây, Trung Quốc, Nhật Bản.
Hưởng ứng mục tiêu phổ cập giáo dục bậc tiểu học, hàng loại các ngôi trường đã được
xây dựng trên khắp các vùng miền đất nước, giáo viên và giảng viên được luân phiên chuyển về

các vùng miền xa xôi dạy học. Tạo điều kiện cho mọi trẻ em đều có quyền tới trường. Nhiều học
bổng được lập nên nhằm khuyển khích việc học tập của học sinh.
- Các nhu cầu kinh tế chính được cải thiện, vấn đề về sức khỏe cũng như y tế được quan
tâm và chú trọng.
Trong giai đoạn 2006-2010, nhà nước đã cho xây dựng chuẩn nghèo mới cao gấp 2-3 lần chuẩn
nghèo vào thời điểm trước đó nhằm phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và giúp mức sống
của người dân ngang bằng các nước trong khu vực, (thành thị: từ 150.000 đồng/ng/tháng lên
260.000 đồng/ng/tháng; ở nông thôn: từ 80.000 đồng/ng/tháng lên dưới 200.000 đồng/ng/tháng)
các chuẩn này đã tính tới yếu tố vượt giá, tăng trưởng kinh tế, tăng tiền lương. Quyết định này đã
khiến số hộ nghèo tăng lên đáng kể, nhưng nó cũng khẳng định sự gia tăng thu nhập phần nào
của người dân.
Đời sống được cải thiện một cách đáng kể. Nhu cầu tối thiểu được đáp ứng từ từ. Trao
đổi hàng hóa ở những nơi không thuộc thành thị, khu đông dân cũng dần xuất hiện. Thuốc men
đầy đủ, các hiện tượng bệnh dịch nguy hiểm trong giai đoạn trước ít xuất hiện, việc tiêm phòng
được phổ biến. Tuổi thọ tăng lên khá đáng kể.
Biểu đồ 2 tuổi thọ phụ nữ
Biểu đồ 3: tuổi thọ đàn ông
Biểu đồ 4: Mức chi cho ý tế từ ngân sách nhà nước
Việc phổ cập giá dục mầm non được liên tiếp hoàn thành ở các tình và thành phố. Nạn mù chữ
thậm chí còn bị loại bỏ tại một số địa phương.
- Tăng trưởng khiến con người có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để thư giãn, giải trí và tập
trung cho các tiềm năng nghệ thuật khác.
Đời sống được cải thiện, mức nhu cầu của con người trên tháp nhu cầu của Maslow được đẩy lên
một nấc mới.
Có thể thấy rất rõ ở các thành phố lớn, tầm những năm 2000 số lượng học sinh sinh viên biết
chơi nhạc cụ là khá hiếm, các câu lạc bộ, nhóm tập luyện cũng vắng, thời kì đó, người dân dành
nhiều thời gian cho việc đi làm, các hình thức giải trí nghèo nàn, môn nghệ thuật không được
phổ biến. Nhưng bây giờ, các club, quán bar khá nhiều tại Hà Nội, Hải Phòng, HCM…, trong
một lớp học thuộc các trường cấp 3 như Chu Văn An hay Amstedam, phải có ít nhất một đến hai
học sinh biết sử dụng nhạc cụ. Các câu lạc bộ chơi Ghitar, sáo, violin tự thành lập và hoạt động

có hiệu quả. Các lớp dạy cũng xuất hiện, gia đình đầu tư nhiều hơn.
Nơi để bộc lộ và tôn vinh tài năng các nhân ngày càng đa dạng. Các cuộc thi tìm tài năng được tổ
chức như Sao Mai điểm hẹn, VTV bài hát tôi yêu, các buổi tìm kiếm tài năng của báo Hoa học
trò.
Người dân cũng dành nhiều thời gian hơn cho du lịch. Thậm chí dù hoạt động du lịch theo tour
phát triển, các hàng máy bay xuất hiện nhiều (Jetstar), có ưu tiên giảm giá và mở rộng quy mô
các chuyến bay thì vẫn không thể phục vụ hết được du khách trong mùa nghỉ mát.
Ở các vùng ngoại ô và nông thôn các hoạt động công tác văn nghệ, các cuộc thi các cấp phát
triển và được tổ chức đều đặn theo quý hoặc năm, nhân những ngày lễ lớn.
Công nghệ thông tin phát triển, ti vi và internet giúp người dân dễ dàng hơn trong việc giải trí
cũng như học tập. Số thuê bao băng Internet ở Việt Nam đã tăng lên từ 0,5 triệu thuê bao năm
2006 lên 3,8 triệu thuê bao vào năm 2010. Cũng trong năm 2010, số thuê bao sử dụng mạng 3G
của Việt Nam đạt 7,7 triệu.
- Tăng trưởng kinh tế đem lại bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội cho các cá nhân.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện tăng thu cho ngân sách nhà nước, do đó đầu tư công được tăng
lên đồng thời một phần chi phí sẽ được đâu tư vào các lính vực đảm bảo bình đẳng về kinh tế,
chính trị xã hội.
Ví dụ: Ưu ái học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, trợ cấp xã hội cho sinh viên nghèo và thuộc
vùng sâu vùng xa.
Trong Tài dự thảo báo cáo “Kết quả giám sát việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về văn hoá giai đoạn 2006-2010”, được lập bởi bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Bộ Thông
tin truyền thông, Uỷ ban Dân tộc…9 dự án được nêu ra trong đó nghiên cứu, bảo tồn một số làng
bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc thiểu số; dự án đầu tư xây dựng phát
triển hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở ở vùng sâu, vùng xa; dự án làng, bản, buôn có hoàn cảnh
đặc biệt…
Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy hoạt đông sản xuất phát triển, tăng yêu cầu về nhân công, tạo thêm
nhiều việc làm với lương cao hơn, giúp người phụ nữ có thêm cơ hội làm việc. Trong một số
trưởng hợp, người phụ nữ thoát khỏi cái bóng của chồng thậm chí trở thành nguồn thu nhập
chính trong gia đình.
- Hoạt động nhân đạo.

Theo sự tăng trưởng của kinh tế, các hoạt đông nhân đạo ngày càng được lưu tâm. Khi người dân
đã có đủ lượng thiết yếu, họ bắt đầu chia sẻ với người khác. Hoạt động bán đấu giá cuối năm.
Các thanh thiếu niên tham gia các hoạt động tình nguyện, chăm sóc trẻ em vô gia cư, người
già…
Chính quyền và nhà nước cấp trợ cấp cho người cao tuổi bị mất quá 80% sức lao động.
- Tăng trưởng kinh tế trong một khoảng thời gian dài, đều đặn chính là cơ sở để nâng cao
nội lực của nền kinh tế.
Với các nước nằm trong khu vực nghèo, thu nhập thấp, trung bình thấp nếu không đạt
được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài thì khó có thể nâng cao đời sống người dân.
Qua đó tích lũy và đầu tư cho mục đích phòng thủ, quân sự. rèn luyện quân nhân.
Nền kinh tế tăng trưởng vững mạnh tạo một vị thế ổn định trên đấu trường quốc tế.giảm
thiểu vấn đề xung đột.
2.Những hạn chế, yếu kém
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tính hiệu quả
của kinh tế thấp, đồng thời, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Hiện nay ở Việt Nam, các vấn đề về xã hội như lao động – việc làm, xóa đói giảm nghèo, công
bằng xã hội… đều đang là những vấn đề bức xúc, còn môi trường đang ở mức báo động. Theo
tính toán của các chuyên gia, thiệt hại môi trường do các hoạt động kinh tế gây ra chiếm khoảng
5,5% GDP hàng năm.
Có rất nhiều nguyên nhân tác động tới chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên
vấn đề mấu chốt tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu là năng suất lao động, hiệu quả sử
dụng vốn vật chất và năng lượng thấp. Về hiệu quả sử dụng vốn, GS.TS Nguyễn Văn Nam –
Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định: “Trong suốt thời gian vừa qua, mô
hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mới chỉ tập trung vào chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng
vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sức lao động chứ chưa tập trung vào tăng trưởng chiều sâu”.
Theo tính toán, tỷ trọng đầu tư toàn xã hội đã tăng liên tục trong vòng hơn một thập kỷ qua từ
mức 28,4% của GDP năm 1996 đến mức cao kỷ lục là 43,1% năm 2007 và 42,2% năm 2008.
Nếu năm 1997, chỉ với mức đầu tư chiếm 28,7% GDP Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 8,2%
thì năm 2008 chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng tương tự 8,5% nhưng với lượng vốn đầu tư tới
43,1% GDP.

Đồng thời, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp và hầu như không được cải thiện từ năm
2001 đến nay. Năm 2009, Việt Nam bị tụt 5 hạng so với năm 2008, trong khi các nước trong khu
vực lại cải thiện được vị thế cạnh tranh của mình trong bảng xếp hạng. Bên cạnh đó, cấu trúc đầu
vào của tăng trưởng, những bất ổn về môi trường và hệ số co giãn giảm nghèo đang giảm dần và
bất bình đẳng đều có xu hướng tăng mạnh… cũng là những nguyên nhân tác động không nhỏ tới
chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Thể hiện:
Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác động
đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp (TFP), chủ yếu là
nhân tố khoa học, công nghệ thì rất thấp. Mặt khác, chất lượng các nhân tố tác động vào mô
hình tăng trưởng trong thời kỳ 5 năm 2006 – 2010 vẫn chưa có những đột biến tích cực, biểu
hiện rõ nét nhất là nguồn vốn sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát nhiều, chất lượng nhân
lực còn hạn chế, chưa tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế và năng suất lao động.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy
sản trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra
là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Tương tự, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong
GDP chỉ tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra là khoảng 2 – 3
điểm phần trăm); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP 5 năm qua cũng chỉ tăng khoảng 0,59
điểm phần trăm. Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa
và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, nguyên nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm trong quy trình
sản xuất khá lớn, nhưng sản phẩm làm ra lại đơn điệu, chất lượng thấp, giá thành cao Trình độ
phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa
tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các thành phần kinh tế chưa
được khuyến khích phát triển trên cùng một mặt bằng về cơ chế chính sách
Ba là, nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là vật cản
kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Chỉ số xếp
hạng cạnh tranh của Việt Nam theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã giảm trong giai đoạn
2006 – 2009, từ thứ 64 xuống 75 năm 2009. Năm 2010, tuy đã tăng 16 bậc trong bảng xếp hạng
(lên vị trí số 59), nhưng 4 yếu tố cơ bản được coi là ảnh hưởng tới chỉ số cạnh tranh của Việt
Nam (gồm lạm phát, kết cấu hạ tầng, lao động có trình độ và tham nhũng) vẫn chưa được cải

thiện nhiều. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh chậm phát triển và chưa
theo kịp yêu cầu của nền kinh tế, dẫn đến hậu quả tăng chi phí trung gian và các yếu tố đầu vào,
năng lực cạnh tranh thấp.
Bốn là, tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng nhu
cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các khoản vay trong
nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy động vốn để xây dựng một
số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Gánh nặng kinh phí để chi trả khi các trái phiếu
chính phủ đến hạn thanh toán sẽ dễ tạo khả năng bấp bênh trong cân đối ngân sách, trong khi
những cân đối này và các cân đối tiền tệ, tín dụng, xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế
chưa thật ổn định và còn nhiều yếu tố có thể gây ra tái lạm phát.
Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài .Cụ thể, chất
lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Các cảng biển chưa có khả năng tiếp nhận tàu có tải
trọng lớn. Nhiều cảng hàng không thể tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu.
Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Sản lượng điện
thương phẩm bình quân đầu người đến năm 2010 chỉ ước đạt 980KWh, thấp hơn so với nhiều
nước trên thế giới. Nhiều công trình thủy lợi quá cũ, hạ tầng thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu khai
thác sử dụng tổng hợp đa mục tiêu. Việc đầu tư xây dựng mạng lưới hạ tầng thông tin, truyền
thông tới khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn chậm. Hạ tầng đô
thị, đặc biệt là giao thông, cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu,
vừa kém chất lượng đang gây ách tắc cho sự phát triển.
Nhìn một cách cụ thể hơn ta sẽ thấy:
2.1 Ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và điều kiện sống (ô nhiễm)
Về mội trường. Đi cùng với tăng trưởng kinh tế, ô nhiễm môi trường đã trử thành chi phí tất yếu
cho sự biến đôi của nó. Không khí ở các khu đô thị lớn ô nhiễm một cách nhanh chóng, thời tiết
bị biến chuyển. Các vùng cận khu công nghiệp lớn cũng không tránh khỏi được tình trạng trên.
- ô nhiễm nước: Nước thải sinh hoạt xả ra nhiều, tập trung dồn về một khu vực, không qua xử lí,
thêm vào đó, các ao hồ, sông bị lấp dẫn tới tình trặng tắc ứ, tích nước khiến nguồn nước ô nhiễm
ngày càng trầm trọng (sông Tô Lịch –HN). Các nguồn nước ngầm tại Hà Nội như Pháp Vân, Mai
Động mất khả năng khai thác, tại HCM, nước bị nhiễm mặn, không sử dụng được. Năm 2008,

câu chuyện về Vedan và sông Thị Vải đã trở thành một bằng chứng rõ nét cho vấn đề này. Sau
đó, hàng loạt các nhà điều tra đã vào cuộc và rà soát lại hệ thông sông ngòi trong nước.
- Ô nhiễm khí: Dẫu nền công nghiệp chư aphats triển nhưng hieenjtuwowngj ô nhiễm không khí
đã xuất hiện, khu vực nhà máy dệt 8-3, nhà máy cơ khí Mai Động, khu CN Thượng Đình, Khu
CN Văn Điển (HN), nhà máy Xi Măng, Thủy tinh, Sắt tráng men (Hải Phòng), nhà máy Supe
Photphat Lâm Thao, nhà máy Giấy, nhà máy Dệt (Việt Trì), Các khu CN Biên Hòa(HCM) cũng
như các khu vực khác có chỉ số ô nhiễm cao.
- Ô nhiễm đất: Hiện tượng đất bị bạc máu, vôi hóa.
- Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, lãng phí, đặc biệt các mỏ vừa và bé. Hiện tượng chặt
phá rừng xây đường, mở rộng diện tích dân cư hay chặn đầu nguồn sông để làm đập thủy điện
(nhà máy thủy điện Sơn La xây năm 2006) dẫn tới thay đổi tương đối về cảnh quan thiên nhiên
cũng như khu vực sinh thái. Đa dạng sinh học suy giảm nghiêm trọng, nhiều loài rơi vào sách đỏ
và một số loài tuyệt chủng như tê giác một sừng.
Hệ quả dẫn theo chính là các căn bênh lạ không ngừng xuất hiện. Thiên tai bão lũ, cùng với sự
nóng lên biến đổi khai hậu toàn cầu, cuộc sống dân cư cũng trở nên khó khăn. Thiên tai bất chợt
và có xu hướng tàn phá nặng nề hơn trước.
Về cuộc sống. Trước tăng trưởng kinh tế, cơ cấu thành thị, nông thôn thay đổi mạnh mẽ. Người
dân đổ xô về thành thị nhằm kiếm kế mưu sinh do đó, mật độ dân số tăng lên đột ngột, mức sống
dân cư trung bình giảm xuống. Các tệ nạn xã hội xuất hiện ở nhiều nơi. Các khu nhà trọ, nhà ổ
chuột ven ngoại thành mọc lên. Tỉ lệ người thất nghiệp tại thành thi tăng trong khi khu vực khác
lại thiếu nhân lực.
2.2Tăng trưởng kinh tế quá chú trọng vào việc tích lũy tạo nên một thứ chủ nghĩa vật chất, hám
lợi, coi thường yếu tố tinh thần, đạo đức và thẩm mĩ.
Tăng trưởng kinh tế là tăng sản lượng theo nguyên tắc tối đa hóa sản lượng cho một mức chi phí
hoặc tối thiểu hóa chi phí cho một mức sản lượng mà trong đó chủ yếu chi phí nhân công sẽ là
chi phí bị tối đa hóa đầu tiên.
Công nhân thuộc các khu công nghiệp, phân xưởng thường sẽ là nạn nhân đầu tiên của vấn đề
này.Tiền lương hạn chế tầm 750.000 đồng tới 2.000.000 làm việc theo ca 6 - 8 tiếng trên ngày
được trả cho công nhân thuộc vùng nông thôn sau khi họ đã bán ruộng cho tư nhân (hoặc bị giải
tỏa) để xây nhà máy xí nghiệp. Điều kiện lao động bị coi nhẹ, sức khỏe , sự an toàn của người

lao động không được đảm bảo. Bệnh do nghề nghiệp xuất hiện nhiều. Các doanh nghiệp khi làm
ăn chỉ coi trọng tới lãi lại làm ăn nhỏ lẻ, ham lợi nhuận dẫn tới quá trính bóc lột mạnh mẽ hơn,
một ví dụ về công nhân mỏ tại mỏ than Quảng Ninh thường mắc các chứng về phổi, tỉ lệ rủi ro bị
sập hầm cao do khai thác thôi sơ, doanh nghiệp không đủ tiền đầu tư vốn để nâng cao thiết bị -
an toàn lao động.
Nền kinh tế thi trường thúc đẩy trao đổi thương mại tự do, tiền trở nên quan trọng và có ý nghĩa
hơn bao giờ hết, cũng vì thế mà con người có xu hướng kiếm nhiều tiền hơn, một để trang trai
cho cuộc sống gia đình không thì hai, họ muốn giàu có hơn nữa. Sức mạnh của đồng tiền ngày
càng được khẳng định. Những người có tiền thường sẽ được coi trọng hơn những người không
có, cuôc sống chạy theo vật chất mà quên mất cái giá trị tinh thần , đạo đức.
2.3 Chủ nghĩa các nhân trong khi theo đuổi các lợi ích cá nhân là không giới hạn.
Khi con người đi theo vụ lợi của mình, họ bỏ qua các yếu tố xung quanh ảnh hưởng tiêu cực tới
quyết định và lợi ích của họ. Các hiện tượng tham nhũng, tệ hối lộ sinh ra tại đây. Con người chỉ
làm lợi trước mắt và tập trung làm giàu cho bản thân, các yếu tố khác không còn được để ý,
những ảnh hưởng tiêu cực từ hành động của họ tới xã hội không được để tâm một cách thiếu
trách nhiệm. Truyền thống gia đình bị lung lay, cơ cấu xã hội bị tác động.
2.4 Tăng trưởng kinh tế thường kèm theo “chủ nghĩa hợp lí” và phương pháp cho sự đổi mới
thay đổi kĩ thuật.
Tính lí trí được đề cao, đánh giá chủ quan theo cảm tính bị coi nhẹ . Con người ngày càng trở
nên cứng nhắc hơn trong cuộc sống để theo đuổi mục tiêu cố định cải thiện hay làm giàu cuộc
sống của chính mình. Ví dụ về một công ti có công nhân tai nạn ngoài mất khả năng lao động
trong một thời gian thì họ sẽ không có lương cho tới khi đi là lại hoặc công tí đó sẽ thuê nhân
viên khác thế chỗ họ để đảm bảo hiệu suất và tiến trình công việc mà không quan tâm nhiều xem
họ sau đó sẽ sống ra sao, bằng cách nào.
Một mặt khác, yếu tố nhân đạo sẽ không được để tâm khi mà con người đã cuốn vào vòng quay
đó.
2.5 Chuyên môn hóa nghề nghiệp, làng nghề thủ công, máy móc sức lao động. cái hồn sản
phẩm, câu chuyện sau giờ làm.
Để tăng năng suất lao động, việc chuyên môn hóa nghề nghiệp là tất yếu. Mỗi người làm một
khâu một giai đoạn sẽ giúp công việc hoàn tất nhanh hơn và đảm bảo độ ổn định của sản phẩm.

Dễ thấy một ví dụ ở đây là nền sản xuất gốm sứ Bát Tràng ở Hà Nội. Các khâu từ nhào bột, đóng
khuôn, tráng men, lên men, nung đều được tách biệt với những người chuyên biệt làm từng khâu.
Năng suất do đó tăng nhanh, đời sống được cải thiện nhưng thay vào đó, các nghệ nhân làm gốm
– người tạo ra các sản phẩm mang tính thẩm mĩ và chất lượng cao không còn nhiều. Khả năng
sáng tạo cá nhân bị suy giảm. Các bước làm gốm bị cố hẹp lại, máy móc và khuôn được dùng
thay cho bàn quay và bàn tay người thợ, sản phẩm đều, ổn định nhưng mất đi tâm huyết người
làm.
Cũng mộ vấn đề chuyên môn hóa phân ca, con người bị hùa đi như những cái máy, lặp lại các
công ta đơn điệu và tẻ nhạt, khiến họ gặp các vấn đề về tâm lí, ngoài ra với cùng một khung thời
gian lầm việc, tan ca, hiện tượng ùn tắc giờ cao điểm diễn ra không thể tránh. Ngoài việc biến
một xã hội thành một công xưởng khổng lồ, con người cũng trở thành những cỗ máy, những
chiếc răng cưa có suy nghĩ trong đó.
2.6 Phân hóa giàu nghèo, mâu thuẫn xã hội:
Sự phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Tiền lưu thông và đổ
dồn vầ tay các nhà tư bản thay vì được chia đều cho xã hội, Hiện tượng này có thể thấy được rõ
nét khi nhìn tổng qua vào một thành phô lớn. Đời sống thượng lưu của một số dân Hà thành so
với cuộc sống của dân di cư sống nhà tạm dựng ngoài ngoại thành.
Cùng một sự tăng trưởng nhưng lợi ích sẽ không được chia đồng đều. Vấn đề quy hoạch đất để
xây phân xưởng tạo ra một số việc làm xác định cho người dân tuy nhiên không đáp ứng được
hoàn toàn và việc mua đất xây dựng khu đô thị mới với giả rẻ khi nông dân chỉ ý thứ được cái lợi
trước mắt làm gia tăng tệ nạn và đẩy họ từ tình trạng thạm giàu về nghèo, sau đó vì đã mất đất
nên họ trở thành thất nghiệp do không biết làm gì.
2. Bài học kinh nghiệm
Từ những thành tựu đạt đuợc và những tồn tại, thách thức trong quá trình triển khai thực
hiện kế hoạch 5 năm qua, đặc biệt là trong những năm cuối kỳ kế hoạch, khi nền kinh tế nuớc ta
chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, với những chống đỡ
thành công và sớm ngăn chặn sự sụt giảm kinh tế, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích sau
đây:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy phát triển trong quá trình hội nhập luôn luôn là bài học
bổ ích trong tiến trình hướng tới mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp hiện đại. Gắn tư duy phát triển kinh tế của đất nước với những nguyên tắc và những quy
luật phát triển kinh tế khách quan là nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững trong tầm nhìn dài
hạn.
Thứ hai, nâng cao tính bền vững trong phát triển kinh tế - xã hội – môi trường, luôn coi
đây là mục tiêu của đất nước để bảo đảm thỏa mãn cuộc sống vật chất và tinh thần của thế hệ
hôm nay và các thế hệ mai sau. Hết sức coi trọng yếu tố khoa học công nghệ, kinh tế tri thức
trong mô hình tăng trưởng, lựa chọn các mục tiêu phát triển. Phát triển hài hòa, lồng ghép các
mục tiêu phát triển bền vững với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chú trọng nhân rộng mô hình
sản xuất ít tiêu tốn năng lượng, nguyên liệu, ít chất thải. Loại bỏ quan điểm tăng trưởng kinh tế
bằng bất cứ giá nào có thể gây tổn hại cho cuộc sống của thế hệ mai sau.
Thứ ba, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Qua tác động của những
biến động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu trong những năm
cuối kỳ kế hoạch cho ta thấy các cân đối vĩ mô (tài chính, đầu tư, cán cân thanh toán) đã rất hạn
hẹp, cơ chế vận hành và trách nhiệm điều hành lại không chặt chẽ, thiếu kiểm tra giám sát nên đã
gây ra những đảo lộn dù tức thời và cục bộ nhưng cũng làm giảm sức đề kháng của nền kinh tế.
Vì vậy việc cấu trúc lại nền kinh tế mà bắt đầu từ lĩnh vực tài chính, tiền tệ sẽ giúp cho nền kinh
tế đất nước hoạt động lành mạnh, bền vững hơn. Mặt khác, cơ cấu lại nền kinh tế phải theo
hướng hiện đại trên nền kinh tế tri thức, gắn cơ cấu ngành với cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao
động, liên kết để cùng phát triển cao hơn, hiệu quả hơn. Đặt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững để xây dựng cơ cấu kinh tế trong
nước phù hợp, kết nối được cơ cấu kinh tế trong nước với cơ cấu kinh tế trong khu vực và trên
thế giới.
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo điều hành nền kinh tế ở tất cả các
ngành, các cấp. Trong bối cảnh hiện nay, bước tiến vượt bậc của công nghệ tin học, truyền thông
đã làm cho thế giới như xích lại gần nhau hơn. Điều đó sẽ giúp ích rất lớn và làm cơ sở tốt cho
mỗi nước nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển phù hợp với xu thế thời đại, tận
dụng những cơ hội, loại trừ những nguy cơ để phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy,
công tác thu thập và phân tích thông tin là rất cần thiết, chiếm vị trí không thể thiếu được trong
công tác nghiên cứu xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Nền kinh tế thị trường
trong bối cảnh hội nhập quốc tế càng đòi hỏi phải tiếp cận với nhiều nguồn thông tin để so sánh,

năng cao chất lượng công tác phân tích, đánh giá, dự báo.
Thứ năm, hình thành cơ chế thị trường đầy đủ, khơi dậy các nguồn lực phát triển trong
nước và thu hút vốn nước ngoài. Đến nay Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế,
tham gia hầu hết trong các tổ chức kinh tế toàn cầu, từng bước thiết lập hệ thống các cơ chế
chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong thương mại xuất, nhập
khẩu, thu hút vốn và đầu tư. Tuy nhiên, những cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp của chúng
ta vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, làm hạn chế khả năng mở rộng các mối bang giao kinh tế quốc
tế, dẫn tới nhiều thua thiệt và thị trường trong nước cũng bị ảnh hưởng, không hoàn thiện, méo
mó, thiếu minh bạch Việc chậm xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường và chưa thực sự tôn
trọng quy luật kinh tế thị trường, cũng như sự can thiệp sâu của Nhà nước bằng những mệnh lệnh
hành chính sẽ làm cho thị trường không phát triển hoàn thiện. Do vậy việc đổi mới các cơ chế,
chính sách theo hướng đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế là bài học cần thiết để thúc đẩy
quan hệ kinh tế quốc tế, phát triển sản xuất kinh doanh trong nước.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu lực của bộ máy điều hành. Trọng tâm là phải đẩy
mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh; thực hiện quy chế
dân chủ và công khai ở cơ sở và các cấp chính quyền; kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước;
nhanh chóng tách chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh ở các bộ, ngành
Trung ương. Nhìn lại suốt thời kỳ đổi mới, những cơ chế chính sách được ban hành đã phát huy
tác dụng tối đa việc giải phóng lực lượng sản xuất, đưa đất nước vượt qua ngưỡng nước nghèo và
kém phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình. Bước tiến đó là khá lớn, tuy nhiên, so với
yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì
những cơ chế chính sách hiện tại vẫn chưa đủ sức tạo bước đột phá để phát triển cao hơn, nhanh
và chất lượng hơn. Chính vì vậy, sự đổi mới cơ chế chính sách trong bối cảnh hội nhập và toàn
cầu hóa mang tính đột phá cao là bài học thiết thực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển có chất
lượng, hiệu quả và tăng trưởng nhanh. Điều đó đòi hỏi bộ máy điều hành ở các cấp phải được đổi
mới, đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước và cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành cần phải được
đào taọ và đào tạo lại để nâng cao trình độ, có khả năng đảm trách công việc được phân công.
Ngoài ra, phạm vi quyền hạn và cơ chế trách nhiệm trong từng cương vị và lĩnh vực công tác cần
phải được xác lập rõ ràng, minh bạch từ Trung ương đến địa phương
3. Kết luận

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng xã hội trở thành mục tiêu hàng đầu của Đảng
và nước ta, về xã hội phải xử lí tốt mỗi quan hệ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, xóa bỏ mọi hình
thức đặc quyền, đăch lợi, xây dựng bình đẳng xã hội. Về kinh tế, phải thực hiện công bằng trong
cơ hội tiếp cận, các lựa chọn tham gia lợi ích cộng đồng, phân phói kết quả sản xuất kinh doanh,
thu nhập. Tận dụng các đặc điểm lợi thế của đất nước tăng cường vốn đầu tư và phát triển nguồn
lực quốc gia.
Tài liệu tham khảo: website www.gso.gov.vn
www. worldbank .org
Bộ TN & MT www.monre.gov.vn
Và các trang báo kinh tế khác: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam vneconomy.vn

×