Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo " Những căn cứ để quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.29 KB, 4 trang )



Xây dựng pháp luật
tạp chí luật học - 45

Những căn cứ để quy định giới hạn
của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Ths. Nguyễn Văn Huyên *
iới hạn của việc xét xử là chế định
pháp lí quan trọng có liên quan đến
nhiều chế định khác của luật tố tụng
hình sự. Vì thế khi quy định giới hạn của
việc xét xử phải dựa vào những căn cứ có
tính khoa học đợc rút ra từ lí luận và
thực tiễn. Chính những căn cứ này giúp
nhà làm luật cân nhắc mọi khả năng, dự
liệu các tình huống để quy định giới hạn
của việc xét xử cho mỗi cấp tòa án. Để
góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS), theo
chúng tôi cần dựa vào những căn cứ sau
đây khi quy định giới hạn của việc xét xử.
1. Căn cứ vào sự phân định chức
năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát và
tòa án trong tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự, viện kiểm sát
có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và thực hành quyền công tố
nhằm đảm bảo cho pháp luật đợc chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất còn tòa


án có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của tòa
án và viện kiểm sát vừa có điểm giống
nhau vừa có điểm khác nhau. Ngoài
nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế x hội
chủ nghĩa; bảo vệ chế độ x hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân
dân; bảo vệ tài sản của Nhà nớc, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân thì Điều 2
Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
1992 còn quy định viện kiểm sát có
nhiệm vụ bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nớc, của tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
đều phải xử lí theo pháp luật. Thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của mình, sau khi
nhận đợc bản kết luận điều tra và đề
nghị truy tố của cơ quan điều tra, viện
kiểm sát xem xét và quyết định việc truy
tố bị can. Tại phiên tòa, viện kiểm sát giữ
quyền công tố, thực hiện việc buộc tội, đề
nghị kết tội bị cáo theo nội dung của
quyết định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ
quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét
xử tuyên bố bị cáo không có tội. Nhng
viện kiểm sát không có quyền quyết định
về tội phạm và hình phạt của bị cáo.
Quyết định về những vấn đề này thuộc về
tòa án theo đúng nguyên tắc không ai có
thể bị coi là có tội nếu cha có bản án

kết tội đ có hiệu lực của tòa án (Điều
10 BLTTHS). Thực hiện chức năng của
mình, tòa án xét xử các bị cáo trong phạm
vi quyết định truy tố của viện kiểm sát.
Đây là sự chế ớc cần thiết trong tố tụng
hình sự để tránh việc lạm quyền và bảo
đảm cho tố tụng đạt hiệu quả, không để
lọt tội phạm, không làm oan ngời vô tội.
Nhng vấn đề đặt ra là mối quan hệ chế
ớc này cần phải xác định nh thế nào
cho phù hợp. Quyền quyết định truy tố
thuộc về viện kiểm sát nhng tòa án có
bắt buộc phải xét xử nh nội dung quyết
định truy tố hay không? Nếu không đồng
ý với quyết định truy tố của viện kiểm sát
thì quyền hạn xét xử của tòa án đợc thực
hiện nh thế nào? Đây chính là vấn đề
G

* Giảng viên chính Trung tâm đào tạo thẩm phán và
các chức danh t pháp khác.
Trờng Đại học luật Hà Nội


Xây dựng pháp luật
46 - tạp chí luật học

giới hạn xét xử sơ thẩm của tòa án. Xác
định nội dung vấn đề này phải dựa vào
chức năng, nhiệm vụ của tòa án và viện

kiểm sát sao cho viện kiểm sát chỉ thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và thực hành quyền công tố mà
không làm chức năng xét xử còn tòa án
chỉ thực hiện chức năng xét xử mà không
làm chức năng buộc tội. Nếu xác định
không rõ giới hạn này thì tòa án có thể
xét xử cả những bị cáo, những hành vi
của bị cáo cha bị viện kiểm sát truy tố
còn viện kiểm sát thì có thể định tội danh
trong quyết định truy tố ràng buộc tòa án
không đợc xét xử theo tội danh khác.
Làm nh thế là tòa án đ thực hiện cả
chức năng buộc tội còn viện kiểm sát đ
thực hiện một phần chức năng xét xử của
tòa án. Điều này trái với chức năng,
nhiệm vụ của viện kiểm sát và tòa án đ
đợc ghi nhận trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật tố tụng. Do vậy, để tránh
trờng hợp tòa án vừa xét xử vừa buộc
tội, viện kiểm sát vừa thực hành quyền
công tố vừa thực hiện một phần chức
năng xét xử thì việc quy định giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm
sát.
2. Căn cứ vào nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
Một trong những nguyên tắc cơ bản

của pháp luật tố tụng là nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là nguyên
tắc đợc quy định ngay từ Hiến pháp năm
1946 và đợc ghi nhận lại trong các Hiến
pháp 1959, 1980, 1992. Nó cũng đợc
quy định trong các Luật tổ chức tòa án
năm 1960, 1981, 1992, BLTTHS và các
văn bản pháp luật tố tụng khác của Nhà
nớc. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án
xét xử vụ án đợc chính xác, tránh đợc
sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân vào việc xét xử của tòa án.
Nguyên tắc này cùng với các nguyên tắc
khác hợp thành hệ thống các nguyên tắc
của luật tố tụng hình sự thể hiện những
quan điểm, t tởng chủ đạo mà tất cả
các hoạt động tố tụng đều phải tuân theo.
Trong các quy định về trình tự, thủ tục
xét xử, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của tòa án có chế định giới hạn của việc
xét xử. Chế định này đề cập những vấn
đề: Tòa án đợc xét xử những bị cáo nào,
những hành vi nào của bị cáo đ bị viện
kiểm sát truy tố? tòa án có bị ràng buộc
bởi tội danh mà viện kiểm sát truy tố hay
không? Khi viện kiểm sát rút một phần
hoặc toàn bộ quyết định truy tố trớc khi
mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa thì quyền
hạn xét xử của tòa án nh thế nào?

Những nội dung trên đây có mối quan hệ
mật thiết với nguyên tắc thẩm phán và hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Nếu quy định giới hạn của
việc xét xử phù hợp với nguyên tắc này
thì tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án xét
xử vụ án đợc chính xác, ngợc lại quy
định không phù hợp sẽ hạn chế quyền
hạn của tòa án và làm mất đi tính độc lập
của tòa án trong xét xử.
Theo quy định về giới hạn của việc
xét xử tại Điều 170 BLTTHS và hớng
dẫn tại Thông t liên ngành số 01/TTLN
ngày 8/12/1988 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
vấn đề này thì tòa án chỉ xét xử những bị
cáo và những hành vi theo tội danh mà
viện kiểm sát đ truy tố và tòa án đ
quyết định đa ra xét xử, tòa án không
đợc xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn
tội danh mà viện kiểm sát truy tố. Quy


Xây dựng pháp luật
tạp chí luật học - 47

định này buộc tòa án phụ thuộc vào sự
đánh giá vụ án của viện kiểm sát, có
nghĩa là khẳng định tội danh do viện
kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng đắn

nên tòa án chỉ xét xử theo tội danh đó và
lựa chọn mức hình phạt đ đợc quy định
trong điều luật mà viện kiểm sát đ viện
dẫn. Điều này trái với chức năng của viện
kiểm sát đ đợc pháp luật quy định vì
nh thế viện kiểm sát thực hiện một phần
chức năng xét xử, vi phạm nguyên tắc
độc lập xét xử của tòa án. Trong quá trình
giải quyết vụ án, cơ quan điều tra, viện
kiểm sát đều căn cứ vào hành vi phạm tội
của bị can để xác định tội danh mà họ đ
thực hiện. Nhng việc quyết định ngời
đó có tội hay không có tội, thực hiện tội
phạm gì, hình phạt cần đợc áp dụng với
ngời phạm tội thì chỉ thuộc về tòa án. Để
quyết định áp dụng hình phạt, tòa án
không chỉ đơn thuần căn cứ vào tội danh
đ nêu trong bản cáo trạng mà qua việc
xét xử, tòa án phải trực tiếp xem xét đánh
giá toàn bộ các chứng cứ của vụ án để
xác định cho đúng tội danh mà bị cáo đ
thực hiện. Trên cơ sở đó mới áp dụng
hình phạt tơng xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Nh vậy, tội danh do hội đồng xét xử xác
định cũng có thể trùng với tội danh nêu
trong bản cáo trạng và quyết định đa vụ
án ra xét xử nhng cũng có thể khác theo
hớng nhẹ hơn hoặc nặng hơn. Khi tòa án
xét thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh

khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà viện
kiểm sát đ truy tố hoặc cần áp dụng
khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt
mà viện kiểm sát đ đề nghị thì theo
Thông t liên ngành số 01/TTLN ngày
8/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hớng
dẫn, tòa án đợc xét xử mà không phải
báo trớc cho viện kiểm sát và những
ngời tham gia tố tụng. Quy định này là
phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, nguyên
tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Đối với việc rút quyết định truy tố của
viện kiểm sát ( một trong những nội dung
của giới hạn của việc xét xử) nếu xem xét
trong mối liên quan với nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật thì BLTTHS
quy định nhiều thủ tục mâu thuẫn nhau.
Theo Điều 169, khoản 1 Điều 195
BLTTHS và hớng dẫn tại mục III Thông
t liên ngành số 01/TTLN đ nêu ở trên
thì tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, kiểm sát
viên rút một phần quyết định truy tố thì
hội đồng xét xử vẫn xét xử toàn bộ vụ án
và có thể chấp nhận hoặc không chấp
nhận việc rút truy tố đó. Trong trờng
hợp này, tòa án không phụ thuộc vào việc
rút một phần quyết định truy tố của viện

kiểm sát, nghĩa là tòa án có quyền độc lập
ra bản án theo sự đánh giá của mình.
Nhng đối với trờng hợp viện kiểm sát
rút toàn bộ quyết định truy tố thì theo quy
định tại khoản 2 Điều 196 BLTTHS và
Thông t liên ngành số 01/TTLN nói trên
khi nghị án nếu có căn cứ xác định bị cáo
không có tội, hội đồng xét xử tuyên bố bị
cáo vô tội; Nếu có căn cứ xác định là bị
cáo có tội thì hội đồng xét xử ra quyết
định tạm đình chỉ việc xét xử vụ án và
kiến nghị với viện kiểm sát cấp trên. Nếu
viện kiểm sát cấp trên thống nhất với việc
rút quyết định truy tố của viện kiểm sát
cấp dới thì ra quyết định đình chỉ vụ án
và thông báo cho tòa án đ ra quyết định
tạm đình chỉ vụ án đó biết. Nếu viện kiểm
sát cấp trên nhất trí với kiến nghị của tòa
án thì ra quyết định hủy việc rút quyết
định truy tố của viện kiểm sát cấp dới và


Xây dựng pháp luật
48 - tạp chí luật học

chuyển hồ sơ cho tòa án đ ra quyết định
tạm đình chỉ vụ án để xét xử lại. Với
những quy định trên đây, tòa án chỉ có
quyền tuyên án khi thấy bị cáo không có
tội; Hội đồng xét xử không đợc ra bản

án khi có căn cứ xác định bị cáo có tội
mà phải quyết định tạm đình chỉ vụ án và
chờ ý kiến của viện kiểm sát cấp trên.
Điều đó rõ ràng không hợp lí vì trong
trờng hợp này viện kiểm sát cấp trên đ
trở thành cơ quan có thẩm quyền quyết
định về vụ án, phủ nhận nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật.
3. Căn cứ vào nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo đợc ghi nhận trong
Hiến pháp, BLTTHS, Luật tổ chức tòa án
nhân dân thể hiện quan điểm mở rộng và
phát triển nền dân chủ x hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền con ngời của Đảng và Nhà
nớc ta. Nguyên tắc này bảo đảm cho bị
can, bị cáo đợc tự bào chữa hoặc nhờ
ngời khác bào chữa trớc việc buộc tội
của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
Thực hiện nguyên tắc này, bị can, bị cáo
và ngời bào chữa của họ có quyền đa ra
các chứng cứ và những yêu cầu để chứng
minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Còn nghĩa vụ chứng minh tội phạm luôn
luôn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Chính quá trình chứng minh này là quá
trình tìm ra chân lí của vụ án để trên cơ

sở đó xử lí ngời phạm tội.
Nhng chân lí của vụ án chỉ có thể
đợc xác định khi quá trình chứng minh
có xem xét đánh giá mọi tình tiết, mọi ý
kiến khác nhau bao gồm cả quan điểm
buộc tội và ý kiến bào chữa. Nếu chỉ
thiên về hớng buộc tội, không chú ý đến
ý kiến bào chữa thì việc giải quyết vụ án
đó phiến diện, không khách quan.
Trong quá trình giải quyết vụ án nếu
tòa án xét xử cả ngời cha bị truy tố
hoặc xét xử cả hành vi của bị cáo theo tội
danh cha bị truy tố thì tòa án đ vi phạm
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo, tớc đi quyền bào chữa của
bị cáo, không cho họ có sự chuẩn bị ý
kiến bào chữa hoặc nhờ ngời khác bào
chữa. Trong trờng hợp này tòa án xét xử
không có sự tranh luận giữa bên buộc tội
và bào chữa nên không thể có cơ sở để
xác định đúng sự thật khách quan của vụ
án.
Theo quy định về giới hạn của việc
xét xử trong BLTTHS thì tòa án chỉ xét
xử những bị cáo và những hành vi theo tội
danh mà viện kiểm sát truy tố; tòa án
không đợc xét xử những ngời cha bị
truy tố, không đợc xét xử những hành vi
của bị cáo theo tội danh không bị truy tố.
Thực hiện quy định trên đây, nếu tại

phiên tòa mà phát hiện tội phạm hoặc
ngời phạm tội mới cần phải điều tra thì
tòa án ra quyết định khởi tố vụ án đối với
ngời mới, tội mới đó. Việc tòa án ra
quyết định khởi tố vụ án đối với ngời
mới, tội mới chỉ là sự xác định cụ thể
ngời nào có hành vi phạm tội và cũng
không xét xử ngời đó nên không vi
phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo.
Rõ ràng đối với những trờng hợp
trên nếu quy định giới hạn của việc xét xử
mà nhà làm luật không xem xét đến mối
quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo thì rất
(Xem tiếp trang 52)

×