1
Luận văn tốt nghiệp
“Giải pháp phát triển cho vay DNNVV tại NHNo &
PTNT VN chi nhánh Thanh Trì”
2
Mục lục
Luận văn tốt nghiệp 1
“Giải pháp phát triển cho vay DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh
Thanh Trì” 1
Lời mở đầu 5
CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về phát triển CHO VAY
DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA tại nhtm 6
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 7
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 7
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 7
1.2. Tổng quan về DNNVV trong nền kinh tế 8
1.2.1. Khái quát về DNNVV 8
1.2.2. Đặc điểm của DNNVV 10
1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường 14
1.3. cho vay đối với DNNVV 18
1.3.1. Khái niệm cho vay 18
1.3.2. Vai trò của vốn vay ngân hàng đối với DNNVV 20
1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng cho vay đối với DNNVV
23
1.3.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc cho vay DNNVV 26
CHƯƠNG 2:THựC TRạNG cho vay DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA TạI
NHNo & PTNT VN chi nhánh thanh trì 32
2.1. Khái quát về NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì 32
3
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh
Trì 32
2. 1.2 Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Chi nhánh Thanh Trì 35
Giám đốc 35
1. Phòng Kế hoạch nguồn vốn 37
2.Phòng Tín dụng 38
4. Phòng Kế toán- Ngân quỹ. 39
5.Phòng Hành chính quản trị. 40
2.1.3. Tình hình hoạt động của Chi nhánh trong ba năm gần đây 44
2.2. Thực trạng cho vay DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh
Trì 51
2.2.1. Điều kiện và nguyên tắc vay vốn áp dụng cho các DNNVV tại NHNo
& PTNT VN chi nhánh Thanh Trì 51
2.2.2. Quy trình nghiệp vụ cho vay các DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi
nhánh Thanh Trì 51
2.2.3. Thực trạng cho vay đối với các DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi
nhánh Thanh Trì 53
2.2.4. Đánh giá hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHNo & PTNT VN
chi nhánh Thanh Trì 60
CHƯƠNG 3:MộT Số GIảI PHáP phát triển CHO VAY DNNVV TạI
NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì 66
3.1. Mục tiêu, phương hướng cho vay DNNVV 66
3.1.1. Định hướng phát triển DNNVV của Nhà nước 66
3.1.2. Mục tiêu hoạt động chung của NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh
Trì 67
3.1.3. Định hướng đầu tư cho DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh
Thanh Trì 69
4
3.2. Một số giải pháp phát triển cho vay DNNVV TạI NHNo & PTNT VN chi
nhánh Thanh Trì 69
3.2.1. Xây dựng chiến lược Marketing với khách hàng mục tiêu là các
DNNVV 69
3.2.2. Đa dạng hoá các hình thức cho vay cho DNNVV 71
3.2.3. Lãi suất cho vay linh hoạt đối với DNNVV 72
3.2.4. Tận dụng các quỹ phát triển để cho vay DNNVV 72
3.2.5. Xây dựng văn hoá hướng vào khách hàng 73
3.2.6. Thiết lập hệ thống thông tin và hệ thống đánh giá khách hàng 74
3.2.7. Phát triển phòng tư vấn 74
3.2.8. Nâng cao chất lượng của cán bộ thẩm định tín dụng 75
3.2.9. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay đối với DNNVV 76
3.2.10. Đa dạng hoá hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu vay vốn của
DNNVV, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn 77
3.2.11. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát 78
3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển cho vay DNNVV Tại NHNo &
PTNT VN chi nhánh Thanh Trì 79
3.3.1. Đối với NHNN Việt Nam 79
3.3.2. Đối với NHNo & PTNT VN 79
3.3.3. Đối với DNNVV 80
Kết luận 82
Danh mục tài liệu tham khảo 83
5
Lời mở đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng tự
hào. Nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc tham gia
tích cực vào các diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới như APEC, ASEM, AFTA và
gần đây là WTO đã tạo điều kiện để mọi ngành nghề, mọi khu vực kinh tế ở nước ta
mở rộng hợp tác và tăng cường quan hệ với các đối tác nước ngoài. Tham gia sân
chơi chung, Việt Nam có nhiều cơ hội để học tập tiếp thu kinh nghiệm quản lý, vận
hành nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới để chọn lọc và tìm ra hướng phát
triển thích hợp nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó là những khó khăn không nhỏ mà các
thành phần kinh tế nước ta phải tìm hướng giải quyết: chất lượng sản phẩm, dịch
vụ, nhân lực, công nghệ.
Được coi là lĩnh vực nhạy cảm, là trung gian tài chính cực kỳ quan trọng,
ngành ngân hàng đã có những bước đi thận trọng, đảm bảo nâng cao trình độ, năng
lực quản lý, điều hành của ngành đồng thời giữ được vai trò điều tiết, ổn định cho
nền kinh tế. Trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, NHNo & PTNT
có nhiều lợi thế trong việc phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hướng
đến trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong
việc cấp vốn trợ giúp phát triển cho các thành phần kinh tế.
Phát huy lợi thế của ngân hàng thương mại hoạt động lâu năm, có mạng lưới
giao dịch rộng khắp, trong những năm qua, NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh
Trì đã đạt được nhiều thành tích trong việc tài trợ vốn cho các thành phần kinh tế
trên địa bàn. Ngoài việc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong cho vay các nông hộ phát
triển nông nghiệp thì hiện nay tại chi nhánh, mở rộng cho vay DNNVV đang là
hướng đi tích cực. Kết quả bước đầu thể hiện ở tỷ trọng đóng góp của hoạt động này
trong tổng thu nhập của ngân hàng tăng dần qua mỗi năm, bên cạnh đó ngày càng
có nhiều DNNVV thiết lập và duy trì quan hệ tín dụng với chi nhánh.
6
Trong quá trình thực tập tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì, được
tìm hiểu một số quy trình, thủ tục và các kết quả cho vay DNNVV em đã nhận thấy
tiềm năng phát triển của hoạt động cho vay với loại hình doanh nghiệp này. Chính
vì thế trong chuyên đề tốt nghiệp dưới đây, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển
cho vay DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì” với mong muốn có
được những nhận thức sâu sắc hơn về hoạt động cho vay DNNVV tại chi nhánh
cũng như những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế chung của thành phố.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo &
PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
Chương 3: Một số giải pháp phát triển cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về phát triển CHO
VAY DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA tại nhtm
7
Mục tiêu của chương: Chương 1 giới thiệu khái quát, đặc điểm, vai trò của
DNNVV. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến vấn đề cho vay, những nhân tố
ảnh hưởng đến việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ
quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết
với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không
phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau,
bình đẳng trước pháp luật.
Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi
ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Việc đưa ra khái niệm niệm về ngân hàng
thương mại là hết sức cần thiết. Theo Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công
ty Tài chính ban hành ngày 24/05/1990: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.”. Như vậy, ngân hàng thương mại là
một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài
chính khác.
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính của nhiều tổ chức kinh doanh
tiền tệ, những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyên tải
những khoản tiền tiết kiệm- tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu
8
cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng
như về đối tượng và phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những
nguyên nhân về lịch sử và chế độ kinh tế.
Lịch sử của ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ làm
nhiệm vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền cho người sở hữu
để nhận những khoản thù lao, trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi nghĩa là
huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng
gửi tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay sang
người đi vay, các ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay
thế cho tiền làm phương tiện thanh toán, trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc- một trong những công cụ chủ yếu để tiền
vận động qua ngân hàng và quá trình đó đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch
trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của ngân hàng
thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán
trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm hiện nay thì ngân hàng thương
mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính
mỗi nước. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi
rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh
vực hẹp theo hướng chuyên sâu.
1.2. Tổng quan về DNNVV trong nền kinh tế
1.2.1. Khái quát về DNNVV
Mỗi một quốc gia đều có căn cứ khác nhau để xác định DNNVV, tuỳ thuộc
vào điều kiện phát triển của từng nước và tuỳ vào từng giai đoạn phát triển. Tại
công văn số 681/ CP– KTN ngày 20/06/1998 của Thủ tướng Chính phủ quy định:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số
lao động hàng năm dưới 200 người, tuỳ theo từng lĩnh vực, ngành mà có giới hạn
riêng cho mỗi tiêu chí”.
9
Theo Điều 3- Nghị định của Chính phủ số 90/2001/ NĐ – CP ngày
23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thì: “Doanh nghiệp nhỏ
và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình KT – XH cụ thể của ngành, của địa
phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh
hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên”.
Với tiêu chí phân loại theo vốn và lao động thì có khoảng 80% các DNNN
thuộc nhóm các DNNVV. Nếu tính theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới (WB) và
Công ty Tài chính quốc tế (IFC) thì ngay cả một số tổng công ty của Việt Nam cũng
nằm trong nhóm doanh nghiệp quy mô vừa. Vào thời điểm năm 2002, nếu tính tất
cả các loại hình kinh doanh thì các DNNVV có trên 2 triệu đơn vị. Trong khu vực
kinh tế tư nhân, các DNNVV chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng 99% về lao
động.
1
Các DNNVV có thể tồn tại dưới các hình thức pháp lý sau: Doanh nghiệp
nhà nước Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần,
Công ty hợp danh, Hợp tác xã, Hộ kinh doanh cá thể.
Thực tế hiện nay không có một khái niệm thống nhất trên thế giới, mỗi nước
dựa vào điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cụ thể để xác định. Cụ thể:
- Philipin: vốn đăng ký dưới 60 triệu Peso và lao động thường dưới 200
người
- Thái Lan: vốn đăng ký dưới 50 triệu Baht và lao động thường dưới 200
người
- Việt Nam: vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng và lao động thường dưới 300
người. Việt Nam không có tiêu thức định tính, nhưng thực chất chỉ các doanh
nghiệp tư nhân trong nước mới thuộc diện DNNVV.
1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
10
1.2.2. Đặc điểm của DNNVV
1.2.2.1. Những lợi thế của DNNVV
Các DNNVV thu hút được số lượng lao động lớn trong đó có cả lao động
phổ thông và lao động có tay nghề, từ đó tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động.
DNNVV có vốn đầu tư ban đầu thấp, khả năng thu hồi vốn nhanh tạo điều
kiện tăng tốc độ vòng quay vốn để đầu tư vào công nghệ tiên tiến từ đó giúp mở
rộng sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Sở dĩ như vậy là vì với số
vốn đầu tư ban đầu không lớn nên các DNNVV thường chỉ có thể tham gia vào dự
án nhỏ, thời gian đầu tư không dài nên vòng quay vốn đầu tư tất yếu nhanh, từ đó
nhanh chóng đánh giá được kết quả đầu tư. Đây là điểm thu hút các nhà đầu tư đến
với khu vực này.
DNNVV phát triển rộng khắp các vùng miền của đất nước, tham gia vào
nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh
tế, tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng khác nhau, số
lượng sản phẩm ít hoặc tạo ra những sản phẩm thay thế các mặt hàng nhập khẩu với
giá cả phù hợp. Đặc điểm này là mặt mạnh của DNNVV khi cạnh tranh với doanh
nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn thường chỉ quan tâm đến nhu cầu có qui mô lớn,
sản xuất đại trà, những thị trường nhỏ thường bỏ qua. Với việc phân bố rộng khắp
đất nước, các DNNVV sẽ có khả năng khai thác tốt nhất mọi tiềm năng, nguồn lực
sẵn có của địa phương, đây là điều kiện thuận lợi cho các DNNVV hoạt động thuận
lợi.
DNNVV được tổ chức quản lý gọn nhẹ, có khả năng quan hệ trực tiếp với thị
trường và người tiêu dùng, dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu dù là
cho một nhóm khách hàng nhỏ mà doanh nghiệp lớn thường hay bỏ qua. Hơn nữa,
mô hình quản lý gọn nhẹ cho phép doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận
dụng được các cơ hội kinh doanh mới, ngay cả khi gặp biến cố của môi trường kinh
doanh cũng giúp doanh nghiệp dễ dàng thu hẹp quy mô sản xuất tránh được những
tổn thất lớn.
11
DNNVV có tính năng động và linh hoạt trước những biến đổi của thị trường,
có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh. Đây là lợi
thế của các DNNVV so với doanh nghiệp lớn, bởi vì các doanh nghiệp lớn để quyết
định thay đổi công nghệ cần có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng về vốn, nhân lực, ứng
dụng… sau đó mới đi vào thực thi, quá trình này đòi hỏi nguồn lực đầu tư là rất lớn.
DNNVV ít chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế xã hội mang tính dây
chuyền nhờ có quy mô nhỏ. Bên cạnh, đó nếu bản thân các doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả dẫn tới thua lỗ đến phá sản thì ảnh hưởng của nó cũng không gây
nên những biến động sang các doanh nghiệp khác hoặc gây khủng hoảng kinh tế.
DNNVV chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các
DNNVV đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm
vĩ mô và vi mô. Những khó khăn đó là công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình
quản lý, tiến độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động,
phương thức tiếp cận sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch
vụ tài chính, vốn đầu tư…
1.2.2.2. Những khó khăn của DNNVV
DNNVV rất hạn chế về khả năng tài chính, trước hết nguồn vốn tự có chủ
yếu là do cá nhân và các tổ chức tự nguyện đóng góp nên khả năng vay vốn của
ngân hàng cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính bị hạn chế vì thiếu tài
sản thế chấp, doanh nghiệp dễ bị tuột mất cơ hội làm ăn mới. Bên cạnh đó, hạn chế
về tài chính cũng khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc quảng bá thương
hiệu đến người tiêu dùng, các chiến lược Marketing như: chiến lược sản phẩm,
chiến lược về giá, chiến lược phân phối… đều đòi hỏi tiềm lực tài chính đủ mạnh.
Vì vậy, khả năng vươn xa ra khu vực và thế giới là rất khó. Chính bởi hạn chế về
vốn đã kéo theo khả năng cạnh tranh của DNNVV cũng thấp. Với điểm yếu này
DNNVV rất khó có thể tồn tại lâu dài trên thương trường nếu không đưa ra chiến
lược phát triển riêng.
DNNVV còn yếu ở năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh
và quản lý, để thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao như hiện nay, các
12
doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương
pháp, bí quyết sản xuất. Nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các
DNNVV Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của
các DNNVV không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan
đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Với nhiều người, mua công nghệ chỉ
đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy
đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ
và một phần là do thiếu vốn, rất nhiều DNNVV đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi
năm mua thêm một số máy móc, thiết bị vừa làm vừa cải tiến. Hậu quả của cách
làm đó là công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp này trở thành mớ hỗn
độn, chắp vá.
Năng lực quản trị doanh nghiệp yếu, thiếu đội ngũ lao động có trình độ và
kinh nghiệm. Có thể nói trình độ học vấn của người lao động và của chủ các
DNNVV còn thấp. Trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ có 6% lao
động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng
chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới hình thành những năm 90, còn thiếu
kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường
mà trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay những kỹ năng đó là rất cần thiết,
nó sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy
một mặt là do các ngành nghề kinh doanh không đòi hỏi công nhân có tay nghề cao,
mặt khác các doanh nghiệp không có chính sách đào tạo nhân lực có trình độ cao vì
như thế doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn trong khi khả năng tài
chính đang hạn hẹp, với số vốn đó họ có thể dùng để đầu tư vào dự án kinh doanh
mới. Tuy nhiên, về lâu dài không phải là hướng đi đúng của doanh nghiệp nếu công
nhân không có tay nghề thì sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường.
2
2
Nguồn: Tổng cục Thống kê
13
Nhận định về các hoạt động đào tạo cho người lao động trên thị trường lao
động nước ta hiện nay cho thấy vẫn có tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động
qua đào tạo: thừa thầy, thiếu thợ (tỷ lên đại học và trên đại học – trung học chuyên
nghiệp – công nhân kỹ thuật là 1 – 1,13 – 0,92 so với thông lệ quốc tế là 1 – 3 – 5).
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề còn thấp 13%. Việc lựa chọn ngành nghề của
học sinh, sinh viên chủ yếu chạy theo thị hiếu thị trường nhất là một số ngành nghề
“thời thượng” gây mất cân đối giữa các ngành nghề. Chất lượng giáo dục bậc cao
còn yếu kém và ngày càng tụt hậu so với thế giới, chương trình, phương pháp giảng
dạy chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết mà thiếu thực hành. Số lượng và chất
lượng của đội ngũ giáo viên, giảng viên còn hạn chế. Đặc điểm trên là nguyên nhân
mà lao động trong các DNNVV trình độ thấp và thiếu kinh nghiệm.
Hầu hết các DNNVV thành lập, hoạt động độc lập và tách biệt chưa tạo ra
được mối liên kết lẫn nhau và với các doanh nghiệp lớn. Thực tiễn phát triển kinh tế
của các nước cho thấy một nền kinh tế sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu quả, nếu
chúng không có các doanh nghiệp lớn lẫn những DNNVV. Trong cơ cấu sản xuất
của mình, các doanh nghiệp lớn ở nước ta thường hay đảm đương hay tiến hành
luôn những hoạt động phụ thuộc. Chẳng hạn, thành lập đội vận tải, đội xây dựng cơ
bản, đầu tư và điều hành căng – tin… Các hoạt động này làm tăng chi phí cố định,
do đó làm giảm hiệu quả kinh tế so với các doanh nghiệp tương tự ở các nước phát
triển. Trong khi ở các nước phát triển thì doanh nghiệp lớn sẽ sử dụng dịch vụ do
DNNVV mang lại.
Ngoài ra, các DNNVV có thể cung cấp các chi tiết hay phụ tùng với giá rẻ
hơn là doanh nghiệp lớn tự làm. Đây chính là điểm hạn chế mà các DNNVV ở nước
ta chưa thực hiện được. Chính vì chưa tạo ra được mối liên kết để thu thập thông tin
nên dẫn đến bỏ lỡ cơ hội làm ăn và thua thiệt trong kinh doanh. Do vậy, liên kết
giữa các DNNVV với doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao hiệu suất của hệ thống công
nghiệp.
14
1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường
Xác định rõ tầm quan trong của DNNVV đối với phát triển kinh tế đất nước
theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính
sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh
tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp
luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động
tích cực. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu
đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt đối xử so với DNNN giảm nhiều. Vai trò
cụ thể của DNNVV thể hiện ở một số điểm như sau:
1.2.3.1. DNNVV góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Đây là thế mạnh rõ nét của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng
ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay. Nhu cầu việc làm
cho người lao động là vấn đề cấp bách ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy các
DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông
thôn tăng thêm mỗi năm, đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp
nhà nước dư ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh
nghiệp hiện đang được triển khai. Điều cần đặc biệt quan tâm hiện nay là cùng với
tốc độ đô thị hoá, hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, số nông dân không
có đất canh tác ngày càng tăng, cần có việc làm mới. Theo số liệu điều tra, trong
những năm từ 1990 – 2003, đã có tới 687.410 ha đất được thu hồi cho các mục đích
xây dựng các khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và cho các nhu cầu công
cộng và lợi ích quốc gia khác. Theo bộ LĐTBXH, bình quân 1 ha bị thu hồi sẽ làm
cho 13 lao động nông nghiệp bị mất việc. Trong khi đó, đất chuyển sang làm công
nghiệp dịch vụ có thể tạo ra việc làm cho 50 – 100 lao động, song đó phải là lao
động có tay nghề, có chuyên môn và nghiệp vụ. Khu vực DNNVV thuộc các thành
phần kinh tế thu hút khoảng 25 – 26% lực lượng lao đông phi nông nghiệp của cả
nước, nhưng triển vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc
ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là chi phí thấp và thu hút
được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo điều tra, lượng vốn trung bình cho một
chỗ làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty
15
TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại
doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng. Tạo thêm việc làm giúp giải quyết vấn đề
xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Vấn đề đặt ra là với số lượng
lớn lao động phổ thông là chủ yếu thì các doanh nghiệp lớn thường hạn chế thu hút.
Do đó, DNNVV sẽ là giải pháp tốt nhất cho người lao động.
3
1.2.3.2. DNNVV đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Mỗi năm, DNNVV đóng góp khoảng 25% - 26% GDP của cả nước, tạo ra
khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng
lượng vận chuyển hàng hóa, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông
thôn, thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động của cả nước.
Trong thời kỳ 2001 – 2005, trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là
1.343 nghìn tỷ đồng (tương đương 85 tỷ USD), vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư
nhân là 399,8 tỷ đồng, chiếm 29,8% tổng số. Đến thời kỳ 2006 – 2010, theo dự
kiến, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phải đạt được 2.204 nghìn tỷ đồng
(tương đương 139,5 tỷ USD), trong đó vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân
phải đạt 748,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 34% so với tổng số. Thực tế cho thấy, hiệu quả
sử dụng đồng vốn của khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra 1 đồng doanh
thu, các DNNN thuộc trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong
khi đó các DNNN do địa phương quản lý đầu tư 0,220 đồng, doanh nghiệp tư nhân
chỉ cần 0,197 đồng, công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh với các DNNN do
trung ương quản lý, số vốn cố định mà DNNN do địa phương quản lý sử dụng cho 1
đồng doanh thu chỉ bằng 39%; các hợp tác xã bằng 53%, các doanh nghiệp tư nhân
bằng 35%, còn công ty TNHH chỉ bằng 33%.
4
1.2.3.3. DNNVV góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu lãnh thổ, phân bố dân cư việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến
3
Nguồn: Tổng cục Thống kê
4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
16
hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất
nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên
xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội
của nhiều vùng nông thôn đã có những thay đổi theo hướng đó: Nhiều thị trấn, thị
tứ đông đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
mới được hình thành, đi đôi với giao thông nông thôn phát triển, đường dẫn điện toả
ra nhiều vùng nông thôn… Bên cạnh đó, các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong
việc phân bố quá trình phát triển công nghiệp rộng khắp về mặt địa lý giữa các vùng
với nhau, cũng như bên trong vùng. Tuy nhiên, các DNNVV chỉ là một trong những
thành tố trong chiến lược phân bố công nghiệp theo địa bàn lãnh thổ, và thường
chúng không phải là thành tố quan trọng nhất.
1.2.3.4. DNNVV là đối tác liên kết làm tăng sức mạnh của các doanh nghiệp lớn
Trong thời đại hiện nay, khi liên kết kinh tế đã trở thành tất yếu trong quan
hệ kinh tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà đã mở ra trên phạm vi toàn cầu, thì
liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp lại càng cấp thiết. Liên kết kinh tế giữa các
DNNVV tạo nên sức mạnh của từng doanh nghiệp và của tổng thể nền kinh tế, bảo
đảm cho mỗi sản phẩm, mỗi doanh nghiệp cũng như nền kinh tế mỗi nước đứng
vững trước sự cạnh tranh có tính chất toàn cầu, hơn nữa, còn phát triển thêm thị
phần của mình trên thị trường thế giới. DNNVV có thể liên kết với doanh nghiệp
lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, đặc biệt là tạo
ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm… Các doanh nghiệp lớn góp phần bảo
đảm cho DNNVV nhu cầu về tài chính, công nghệ, thị trường, kể cả về kinh nghiệm
quản lý… Một ví dụ như lương thực, một loại hàng xuất khẩu hàng đầu của nước ta.
Thực tế cho thấy, rào cản lớn nhất trong hội nhập của lương thực nước ta là tình
trạng sản xuất cá thể; lương thực nước ta không thể nâng cao chất lượng đáp ứng
yêu cầu của thị trường thế giới, nếu không có sự liên kết giữa nhà nông với hợp tác
xã và doanh nghiệp theo hướng nhà nông tham gia hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản
xuất với kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến và mỗi hợp tác xã hoặc cụm liên kết là một
vùng nguyên liệu của một nhà doanh nghiệp, trong đó có cả DNNVV và doanh
nghiệp lớn.
17
1.2.3.5. DNNVV góp phần nâng cao năng lực nhà kinh doanh và nhà quản trị
Khi hoạt động tích cực, lành mạnh, một trong những đóng góp quan trọng
của khu vực DNNVV là phát triển nhân tố con người. Trong thực tế, DNNVV
chẳng những cung cấp sản phẩm cho nền kinh tế, mà còn là nơi đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện một đội ngũ doanh nhân mới phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường,
một yếu tố đang thiếu thốn nghiêm trọng nơi các nước đang phát triển, đặc biệt là
nước ta. Rồi đây, có những DNNVV vẫn tiếp tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc
vì quy mô này phù hợp với khả năng kinh doanh, ngành nghề đang theo đuổi,
nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có quy
mô lớn. Để rồi các chủ DNNVV trở thành những chủ doanh nghiệp lớn hay nhà
công nghiệp lớn, và sẽ đảm đương những vị trí kinh tế xã hội quan trọng. Họ được
tôi luyện theo trình tự từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công hay bán thủ công sang
hiện đại, từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài, do đó kinh nghiệm và
kiến thức kinh doanh của họ là một vốn quý cho nền kinh tế nói chung. Đó là những
gương doanh nhân thành đạt do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ. Dù ở quy mô
nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh
tế của đất nước.
1.2.3.6. DNNVV còn góp phần tiết kiệm vốn
Trong các nước phát triển, vốn là nguồn lực khan hiếm nghiêm trọng. Do đó,
yêu cầu tiết kiệm vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu. Trong quá trình góp
phần tiến lên công nghiệp hoá đất nước, các DNNVV có thể hoàn thành nhiệm vụ
của mình với việc tiết kiệm vốn, nghĩa là phát triển lên, sản xuất được nhiều hàng
hoá hơn, và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Không phải tất cả các DNNVV đều
tiết kiệm được vốn. Một số DNNVV sử dụng nhiều lao động đồng thời lại trang bị
máy móc thiết bị do việc sản xuất sản phẩm và quy trình kỹ thuật bắt buộc, dó đó
không tiết kiệm được vốn. Một số doanh nghiệp khác trang bị những máy móc thiết
bị hoạt động không đều, không hiệu quả, khiến cho chi phí về máy móc trong giá
thành sản phẩm cao, cũng không phải là doanh nghiệp tiết kiệm vốn. Ngược lại,
những DNNVV có những nhà máy nhỏ, có thời hạn hoạt động ngắn hơn những
18
doanh nghiệp lớn, có thể đưa vào sản xuất sớm hơn, không để xảy ra tình trạng máy
móc thiết bị nhàn rỗi.
1.3. cho vay đối với DNNVV
1.3.1. Khái niệm cho vay
Cho vay được coi là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong các hoạt động của
ngân hàng, chỉ khi các ngân hàng thực hiện tốt nghiệp vụ này thì hoạt động ngân
hàng mới tiếp tục tồn tại và thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm
xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế. Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất, hoạt động quan trọng nhất của
các ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn
nhất nhưng lại hàm chứa rủi ro cao nhất cho các NHTM.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, cho vay là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và
các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức
cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian hạn nhất
định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
- Xem xét cho vay như là một chức năng cơ bản của ngân hàng, trên cơ sở
tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì cho vay được hiểu như sau:
cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân
hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các
chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành
theo quyết định số 1627/2001/ QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước, định nghĩa như sau: “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một số khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi.”
19
Có thể nói, cho vay ra đời và phát triển như là một tất yếu khách quan của
nền sản xuất xã hội và ngày càng được mở rộng. Sở dĩ như vậy là do khi nền sản
xuất hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định trong xã hội sẽ có sự phân hoá
thành tầng lớp giàu và nghèo. Những người có thu nhập cao, có nhiều vốn và những
người có thu nhập thấp thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn giữa một bên thiếu vốn
và một bên thừa vốn, hoạt động cho vay ra đời. Ngân hàng đứng ra là chủ thể chính
của quan hệ cho vay.
Phân loại các hình thức cho vay thường được dựa vào một số tiêu thức nhất
định. Việc phân loại cho vay là tiền đề thiết lập các qui trình cho vay thích hợp và
nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Dưới đây là một số cách phân loại thông
dụng:
- Căn cứ vào thời hạn cho vay được chia thành 3 loại sau:
+ Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp tạm thời thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cần
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
+ Cho vay trung hạn: theo quy định của ngân hàng Nhà nước cho vay trung
hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Vốn vay chủ yếu được sử dụng để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Đây cũng là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp,
đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
+ Cho vay dài hạn: có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến
20- 30 năm nhằm đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp lớn.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay chia thành hai
loại:
+ Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng.
20
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
+ Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Theo hình thức này còn chia thành cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ,
cho vay trả góp, cho vay trả nợ nhiều lần.
+ Cho vay không có thời hạn cụ thể: ngân hàng có thể yêu cầu người đi vay
trả nợ tự nguyện, trả nợ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý.
- Căn cứ theo hình thức bao gồm: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê.
- Ngoài ra còn có một số cách phân loại khác: phân theo mục đích (sản xuất,
cá nhân), phân loại theo rủi ro tín dụng (tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề),
phân theo ngành nghề kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp) .
1.3.2. Vai trò của vốn vay ngân hàng đối với DNNVV
Với mục tiêu là trợ giúp phát triển DNNVV theo các Nghị quyết của Đảng
và chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian qua ngành ngân hàng đã có những chuyển
biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hoạt động trong việc đổi mới cơ chế chính
sách cho vay để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, nhất là DNNVV tiếp cận
với vốn vay ngân hàng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Vai trò cụ thể của vốn vay ngân hàng
đối với DNNVV như sau:
1.3.2.1. Vốn vay ngân hàng là nguồn hỗ trợ thúc đẩy sự hình thành và phát triển
của DNNVV
Ngân hàng với vai trò là tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu
là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế. Một bên là tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt chi tiêu, còn một
bên là cá nhân tổ chức thặng dư trong chi tiêu. Sự tồn tại giữa hai loại cá nhân và tổ
chức trên hoàn toàn độc lập với nhau. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nơi thặng dư
sang nơi thâm hụt nếu cả hai cùng có lợi. Cả hai đều có nhu cầu muốn đồng vốn của
mình sinh lời. Nơi thừa vốn sẵn sàng cho vay để kiếm lãi, còn nơi thiếu vốn cần vay
thêm để mở rộng sản xuất cũng vì mục đính sinh lời.
21
Cũng bởi lẽ như vậy mà khi có một doanh nghiệp mới được hình thành thì sẽ
phải đầu tư một khoản vốn khá lớn từ việc thuê và xây dựng mặt bằng nhà xưởng,
mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, đào tạo nhân công… Cùng một lúc phải đầu
tư một lượng vốn lớn như vậy thì sự trợ giúp của ngân hàng là vô cùng cần thiết. Sự
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng như vậy đã tạo điều kiện cho rất nhiều
các doanh nghiệp được ra đời. Hơn thế nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh
doanh nghiệp nhiều lúc cũng cần một khoản vốn nhỏ để giải quyết sự thiếu hụt tạm
thời trong ngắn hạn, đôi khi lại là một khoản vốn lớn để đầu tư vào dự án mới.
Do thị trường chứng khoán còn chưa phát triển tối đa để phát huy hết chức
năng là kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, Chính phủ cũng đã đưa ra nghị
định 90/ NĐ- CP cho phép doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, nhưng cũng chỉ có
những công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Còn một
lượng lớn các DNNVV đều không đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường chứng khoán
nên nguồn vốn chính là vốn vay ngân hàng.
1.3.2.2. Vốn vay ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, khuyến khích
phát triển lợi thế về nguồn lực và kỹ thuật đối với DNNVV
Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
- hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước theo hướng nâng cao tỷ trọng của ngành công
nghiệp và dịch vụ thông qua việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, mở rộng nghề
truyền thống để tận dụng và nâng cao lợi thế so sánh. Với việc tác động vào cơ cấu
sản xuất kinh doanh của các DNNVV để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Với việc mở rộng hay thu hẹp ngành nghề sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý
cho sự phát triển kinh tế bền vững. Có thể nói nhà nước đã tận dụng các công cụ
quản lý vĩ mô mà trong đó vốn vay ngân hàng là một công cụ quan trọng đã được
áp dụng hiệu quả. Các Ngân hàng có thể sử dụng những công cụ đó như chính sách
cho vay của mình để nhằm nới lỏng hay thắt chặt cho vay, sử dụng lãi suất như là
một đòn bẩy khuyến khích các ngành nghề thiết yếu. Bên cạnh đó, một mặt các
ngân hàng cũng có thể sử dụng các chính sách khác như đặt ra yêu cầu cho khoản
vay, lãi suất cho vay ưu đãi, thủ tục cho vay đơn giản và nhanh chóng hơn… nhưng
mặt khác các DNNVV cũng có lợi thế là dễ dàng chuyển hướng kinh doanh. Do đó,
22
vốn vay ngân hàng đã phát huy được hết vai trò to lớn của mình. Với một chính
sách cho vay linh hoạt và hợp lý sẽ điều chỉnh mối quan hệ cho vay giữa các doanh
nghiệp và ngân hàng.
1.3.2.3. Vốn vay ngân hàng cung cấp vốn đầu tư cho DNNVV cả về chiều rộng và
chiều sâu, đảm bảo cho các DNNVV hoạt động có hiệu quả
Quy luật cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm ra cho
mình một hướng đi riêng để có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh của các doanh
nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể từ cạnh tranh về giá đã chuyển sang cạnh tranh
về chất lượng, sản phẩm và mẫu mã. Làm thế nào để tạo thị phần, tạo hình ảnh,
niềm tin cho khách hàng. Một khó khăn mà các DNNVV phải đối mặt dễ nhận thấy
nhất là sự thiếu hụt về vốn. Vốn là điều kiện để các doanh nghiệp đổi mới thiết bị
công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập cho
người lao động Cũng có rất nhiều hình thức và phương pháp huy động vốn mới
cho các doanh nghiệp như: vay vốn ngân hàng, thuê tài chính, liên doanh, liên kết,
vay người thân bạn bè, cổ phần hoá doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp để khắc
phục hạn chế của mình. Nhưng thực tế một số hình thức còn rất nhiều hạn chế. Do
vậy, vốn vay ngân hàng được coi là giải pháp khả thi nhất, ở Việt Nam hiện nay chỉ
có vốn vay ngân hàng mới có thể đáp ứng những nhu cầu trên của các doanh nghiệp
đặc biệt là DNNVV. Sở dĩ như vậy là ngân hàng đóng vai trò là trung gian tài chính,
mục tiêu hoạt động tập trung huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để cung cấp cho các
thành phần kinh tế. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại còn có khả năng huy động
được nguồn vốn rẻ với việc đa dạng hóa hình thức huy động, có các hình thức
khuyến mại phong phú nên khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Điểm
nữa là với ưu thế về mạng lưới chi nhánh rộng khắp, tạo lập được nhiều kênh huy
động vốn và cung cấp vốn cho các DNNVV. Do vốn vay ngân hàng là nguồn hình
thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Như vậy, vốn vay ngân hàng
góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế, đầu tư cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được liên tục và dần trở thành trợ thủ đắc lực không thể thiếu của
các doanh nghiệp.
23
1.3.2.4. Vốn vay ngân hàng là nguồn lực hỗ trợ cho các dự án tạo việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động
Với việc tăng nguồn vốn cho DNNVV không chỉ làm tạo việc làm mà còn
làm cho năng suất lao động tăng lên từ đó tăng thu nhập cho người lao động. Sở dĩ
nói như vậy là bởi khi nước ta bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường thì phải
đối mặt với mặt trái của nền kinh tế như thất nghiệp, lạm phát và nghèo đói. Vốn
vay ngân hàng có vai trò hết sức hiệu quả trong việc đầu tư vào các dự án phát triển
xã hội như tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế. Bên cạnh
việc hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nhưng các ngân hàng cũng dành một lượng
vốn lớn để hỗ trợ các dự án mang tính xã hội như cho vay tạo công ăn việc làm,
chương trình kinh tế biển, chương trình mía đường… Từ các dự án này mà rất nhiều
người đã có việc làm, các gia đình nghèo đã cải thiện được cuộc sống của mình.
Bên cạnh đó các DNNVV khi có thêm nguồn vốn đầu tư vào sản xuất kinh
doanh thì sản phẩm tạo ra nhiều và chất lượng cũng nâng cao, đáp ứng được nhu
cầu thị trường từ đó doanh thu tăng lên và thu nhập người lao động tăng theo. Do
vậy, vốn vay ngân hàng có ảnh hưởng quyết định đến quá trình tái sản xuất nói
chung và DNNVV nói riêng, góp phần giải quyết các vấn đề bức thiết hiện nay.
1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng cho vay đối với DNNVV
1.3.3.1. Chỉ tiêu phản ánh số lượng khách hàng
- Số lượng khách hàng là tổng số DNNVV có quan hệ tín dụng với ngân
hàng.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng khách hàng:
Mức tăng, giảm số lượng = Số lượng khách hàng - Số lượng khách
hàng
khách hàng DNNVV DNNVV năm t DNNVV năm (t-
1)
1.3.3.2. Doanh số cho vay đối với DNNVV
- Khái niệm: Doanh số cho vay là tổng số tiền ngân hàng cho vay trong kỳ,
phản ánh khái quát về hoạt động cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ nhất
định, thường tính theo năm tài chính.
24
- Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng:
+ Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối:
Giá trị tăng trưởng = Tổng doanh số cho vay - Tổng doanh số cho vay
doanh số tuyệt đối đối với DNNVV năm (t) đối với DNNVV năm (t-1)
+ Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tương đối:
Giá trị tăng trưởng Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối * 100%
doanh số tương đối =
Tổng doanh số cho vay DNNVV năm (t-1)
+ Chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng:
Tổng doanh số cho vay DNNVV * 100%
Tỷ trọng =
Tổng doanh số của hoạt động cho vay
1.3.3.3. Chỉ tiêu phản ánh dư nợ cho vay đối với DNNVV
- Khái niệm: Dư nợ cho vay DNNVV là số tiền doanh nghiệp đang nợ ngân
hàng tại một thời điểm. Chỉ tiêu này thường được sử dụng kết hợp với chỉ tiêu
doanh số cho vay nhằm phản ánh tình hình mở rộng cho vay DNNVV của ngân
hàng.
- Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ:
+ Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tuyệt đối:
Giá trị tăng trưởng = Tổng dư nợ cho vay - Tổng dư nợ cho
vay
dư nợ tuyệt đối DNNVV năm t DNNVV năm (t-
1)
+ Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tương đối:
Giá trị tăng trưởng Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối * 100%
dư nợ tương đối =
Tổng dư nợ cho vay DNNVV năm (t-1)
+ Chỉ tiêu phản tỷ trọng:
Tổng dư nợ cho vay DNNVV * 100%
25
Tỷ trọng =
Tổng dư nợ của hoạt động cho vay
- Một số chỉ tiêu khác
+ Hệ số thu nợ: Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả cho vay trong việc thu nợ của
ngân hàng. Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định
thì ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Hệ số này càng cao càng tốt.
Doanh số thu nợ của DNNVV *100%
Hệ số thu nợ =
Doanh số cho vay của DNNVV
+ Tỷ lệ nợ quá hạn: Chỉ tiêu này cho thấy khả năng thu hồi vốn của ngân
hàng đối với các khoản vay. Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng cho
vay cũng như rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất
lượng cho vay càng kém và ngược lại.
Nợ quá hạn của DNNVV *100%
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ của DNNVV
+ Vòng quay vốn tín dụng: Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín
dụng của ngân hàng, thời gian thu hồi nợ của ngân hàng nhanh hay chậm. Vòng
quay vốn càng nhanh thì được coi là tốt và việc đầu tư càng được an toàn.
Doanh số thu nợ của DNNVV
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân của DNNVV
Dư nợ bình quân được tính theo công thức sau:
Dư nợ đầu kỳ + dư nợ cuối kỳ
+ Dư nợ bình quân =
2
1.3.3.4. Thu từ hoạt động cho vay DNNVV
Bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào khi đã đầu tư đều kỳ vọng vào một nguồn
thu nhập trong tương lai, các ngân hàng cũng vậy, việc mở rộng cho vay các