Luận văn tốt nghiệp
Lý thuyết tài chính tiền tệ - nợ công ở Việt Nam
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG 3
1. Nợ công 3
1.1 Khái niệm 3
1.2. Phân loại 5
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công 6
1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công 7
1.5. Quản lý nợ công 8
2. Khủng hoảng nợ công 9
2.1. Khủng hoảng nợ công là gì? 9
2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG 11
1. Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới 11
1.1. Khủng hoảng nợ công 11
1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả 14
2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam 15
2.1. Tình hình sử dụng nợ công 17
2.2. Tình hình trả nợ công 18
2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam 18
2.3.2. Cơ cấu nợ 18
2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công 20
3 Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam 21
KẾT LUẬN 25
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng và
chất , kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng
cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay, toàn cầu hóa
với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng
cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Không
chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra
nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát
huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này
đã thực sự trở thành “một sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời
gian trở lại đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn không
ít rủi ro, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến với quốc gia này
có thể là nguyên nhân làm lung lay pháo đài kinh tế của quốc gia khác trong mối quan
hệ tác động qua lại giữa chúng. Một trong những biểu hiện rõ nét và đặc trưng nhất của
mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu.
Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp
các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ
“bong bóng thị trường bất động sản Mỹ” thì sang đến cuối năm 2009, hệ thống kinh tế
toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước nguy cơ công phá mạnh mẽ của khủng hoảng
nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ
công nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến
là các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn
nhức nhối trong thời gian kéo dài.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 3
Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình
hình nợ công của các nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói
cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB,…để giảm thiểu
nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước
khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn
biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công
toàn cầu.
Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng
xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế
giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó
có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công và rút ra bài học
kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách
đối với nước ta trong thời điểm hiện tại.
Để làm rõ vấn đề này, bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ đi sâu phân tích cơ sở,
thực trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công, phân tích và đánh giá sơ
bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý, hiệu
quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng hoảng nợ
công và thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên nhân cùng những
đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số hướng đi khả thi nhằm
góp phần quản lý có hiệu quả nợ công trong nước.
Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài
làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm
thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi
tích cực từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
* *
*
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 4
CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG
1. Nợ công:
1.1 Khái niệm:
Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về
nợ công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB), nợ công là toàn bộ những
khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
- Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ và
các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc
Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các doanh nghiệp Nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài
của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của
khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó:
- Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương, các tổ
chức tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay
mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển)
- Khu vực phi tài chính công gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa
phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.
Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam: Nợ công bao gồm: nợ
chính phủ; nợ được Chính phủ bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương.
Như vậy, xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất giữa:
“Nợ chính phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong ba
yếu tố cấu thành nên nợ công.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 5
Đối với ba cách định nghĩa trên, tuy mỗi cách mang tính đặc thù riêng và
thích hợp để sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau song chúng đều có
chung một số đặc điểm như: là khoản tiền nợ liên quan đến chính phủ và hoạt động
của chính phủ, mục đích là để tài trợ bù đắp cho thâm hụt ngân sách Do đó, để
đơn giản hóa cách thức tiếp vận vấn đề và đảm bảo tính logic khi phân tích, nghiên
cứu khủng hoảng nợ công ở các phần tiếp theo, có thể hiểu khái quát về nợ công
thông qua khái niệm sau:
Nợ công, còn gọi là Nợ chính phủ hay Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.
Sử dụng cách định nghĩa này, ta cần quan tâm tới một số lưu ý sau đây:
- Khái niệm đưa ra đã đồng nhất Nợ chính phủ với Nợ công và Nợ quốc gia.
- Định nghĩa này được áp dụng tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, những
nước đi theo hướng kinh tế thị trường thực chất, không tồn tại thành phần doanh nghiệp
đặt dưới sự lãnh đạo kiểm soát trực tiếp của Nhà nước
- Thâm hụt Ngân sách Nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách Nhà nước, là
tình trạng khi tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu trong
cân đối (thu "không mang tính hoàn trả") của Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu
công bất hợp lý. Bởi lẽ mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi nên khi thu không đủ
chi, Nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công. Cũng theo cách tiếp cận này, nợ
công có thể được tính bằng thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó.
Ví dụ:
Năm
Thâm hụt Ngân
sách
Nợ công
1 1 triệu USD 1 triệu USD
2 1.2 triệu USD 2.2 triệu
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 6
USD
3 1.3 triệu USD
3.5 triệu
USD
Trên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất để
đảm bảo tính chặt chẽ trong phân tích, Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng có nhiều luồng tư
tưởng và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về cùng một hiện tượng, sự việc.
Trong trường hợp này, mỗi khu vực, quốc gia có một góc độ đánh giá khác nhau về tình
hình nợ công. Căn cứ vào cơ cấu nợ công của mỗi quốc gia, ta sẽ nhận dạng: quốc gia
này sử dụng định nghĩa nào đối với vấn đề nợ công của mình.
1.2. Phân loại:
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành nhiều
bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau đây là
ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với các khoản nợ công của
mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu: của quốc gia đó.
Phân loại theo nguồn vay nợ:
- Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước
- Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước,
trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc
nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa đổi; bởi lẽ, thiếu sót
này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ công của một quốc gia,
gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp thời và đúng đắn tình trạng
nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng phó kịp thời và hợp lý.
Phân loại theo chủ thể nợ:
- Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 7
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy
định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ công bao gồm
khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong
và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.
Phân loại dựa vào thời hạn nợ:
- Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
- Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
- Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so
với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và
làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định nền
kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố ảnh hưởng đến nợ
công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải quyết kịp thời các
tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này.
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản
chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản ảnh giá
trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách thâm
hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết
định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi lãi suất
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 8
giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính phủ khó khăn
hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một
là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ
công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc cấp
bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của
chính phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác
nhau đề đối tượng hưởng lãi.
Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động
của tỉ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng)
hoặc giảm đi (khi tỉ giá giảm).
1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công
Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức
vay nợ được chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua phát
hành trái phiếu) và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay nợ có ưu,
nhược điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, trong điều kiện
xếp hạng tín dụng và vị thế nhất định của mỗi quốc gia.
Vay nợ gián tiếp:
Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân
để bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín
phiếu, trái phiếu, hình thức chứng chỉ Trái phiếu trong trường hợp này được
hiểu theo nghĩa rộng, gồm có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa
phương (Municipal Bonds), trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái
phiếu công trình. ; trong đó, trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là
không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để
thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 9
(thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát
hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán.
Vay trực tiếp
Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ của mình, Chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các khoản
thâm hụt đáng kể thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương
mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á,…). Các nguồn vay này tồn tại dưới một số hình thức
phổ biến như: Vay viện trợ phát triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay
vay ưu đãi. Thông thường, các hình thức trực tiếp này được Chính phủ của các
nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì những nước này khó có khả năng vay
nợ bằng phát hành trái phiếu chính phủ.
Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ
sung đều đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển.
Nguồn vay này có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ
đa phương, viện trợ không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.
.1.5. Quản lý nợ công:
Nhìn lại lịch sử nền kinh tế thế giới từ trước tới nay, có thể thấy nợ công là một
bộ phận thường trực trong các kế hoạch phát triển kinh tế và chưa bao giờ vắng bóng
trong dự toán ngân sách Nhà nước của bất cứ quốc gia, châu lục nào. Do tính chất cần
thiết khách quan và không thể thay thế được của nó, nhiệm vụ quản lý nợ công đang trở
nên ngày càng quan trọng. Thứ nhất, quản lý nợ công, cụ thể là đưa ra cấu trúc các
khoản nợ giúp ngăn chặn lây lan sự bất ổn kinh tế. Thứ hai, chính sách quản lý nợ công
thận trọng giúp giảm thiểu những cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt nguồn từ
khâu quản lý nợ yếu kém. Thứ ba, một cơ chế quản lý tốt sẽ giúp chính phủ xác định
được: vay nợ bao nhiêu là hợp lý để vừa đảm bảo nhu cầu của chính phủ, vừa vay được
với chi phí thấp và giảm thiểu rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng, không phải mọi khoản nợ công
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 10
đều mang tính tiêu cực. Do đó, vấn đề đặt ra trước hết là phải quản lý nợ công như thế
nào cho hiệu quả.
Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF/WB-2001 chỉ rõ: “mục tiêu của quản lý nợ
công là đảm bảo nhu cầu tài chính của chính phủ được đáp ứng với chi phí thấp nhất
trong trung và dài hạn phù hợp với mức độ rủi ro”. Thông qua chính sách và kế hoạch
phát triển riêng của từng quốc gia, mục tiêu này đã được cụ thể hóa, thể hiện thông qua
các nội dung chủ yếu trong quản lý nợ công, bao gồm:
- Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với vấn đề cơ cấu, quy
mô và sử dụng nợ công.
- Nâng cao và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công
- Xây dựng các chiến lược quản lý nợ cụ thể và hiệu quả.
- Xây dựng các mô mình quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý nợ.
- Đề xuất và thực thi phát triển thị trường chứng khoán Chính phủ
2. Khủng hoảng nợ công
2.1. Khủng hoảng nợ công là gì?
Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng góc
độ nhìn nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt nghĩa theo các cơ
sở khác nhau. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt
ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết
và trả nợ của chính phủ, dẫn đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm
trọng.
Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung,
khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ
đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 11
Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ khất lại, Detragiache và Spilimbergo
(2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy ra nếu một trong hai hoặc cả hai
điều kiện sau đây xảy ra:
- Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song
phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái
phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ.
- Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong
Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của Ngân hàng Thế giới (WB).
Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá
sản”, Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những
khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện
“tiền phá sản” của trái phiếu chính phủ. Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ năm
1994 đến năm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm uy
tín và năng lực của thị trường trái phiếu Chính phủ.
Trong thời điểm hiện nay, định nghĩa về nợ công của tổ chức Standard and
Poor’s, quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân hàng thế giới WB là một số cách giải thích
được ưa thích trích dẫn và sử dụng nhiều hơn cả.
Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào
khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các
nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn
(vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây,
tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia là không có
khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ
gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời
gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ
bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất
thường với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là một trong những dấu hiệu
báo trước cho những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn
đến nguy cơ khủng hoảng nhanh chóng.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 12
Dù các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách khác
nhau, có thể thấy rõ rằng mọi định nghĩa đều bao chứa những nội dung cơ bản
tương đồng. Đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ một quốc gia không
thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác.
2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công
Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan
trọng mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới.
Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy
giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh
tế.
Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc
gia đang phát triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường
xuyên tái diễn ở các quốc gia thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn
toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng
một cách tương đối cao và ổn định.
Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một
thời gian, kéo theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính
trị - văn hóa - xã hội.
Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ
quốc gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín
nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia,
niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành
mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG
1. Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới
1.1. Khủng hoảng nợ công.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 13
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một
hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát
triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế
phát triển đã tăng lên đáng kể.
Từ đó tới nay, thế giới nhiều lần chứng kiến các cuộc khủng hoảng nợ công riêng
lẻ như khủng hoảng nợ công Tunisia (1991), Argentina (1995); Brazil (2002);…
Tùy thuộc vào chế độ quản lý nợ công và chu kỳ kinh tế, hoàn cảnh lịch sử riêng của
từng quốc gia, nợ công xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau, dẫn đến việc được
giải quyết bằng các biện pháp vụ thể riêng biệt. Các quốc gia mắc phải khủng hoảng
nợ này chủ yếu là các nước đang phát triển, nền kinh tế còn nhiều lỗ hổng và thiếu
sót, nhu cầu vốn cho đầu tư lớn,…
Năm 2009, khủng hoảng nợ công vẫn tiếp diễn, song lần này, nó lan rộng với tốc
độ chóng mặt trên một phạm vi rộng lớn với đối tượng là các nước đang phát triển
thuộc phương Tây giàu có. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp 2009 mau chóng được
xác nhận dưới phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều là: nợ công châu Âu 2010 và tiềm ẩn
nguy cơ dẫn đến nợ công toàn cầu nếu không có những biện pháp kịp thời và hợp lý.
+ Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi
phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng
01/2010, lên 9.73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26.65%/năm ở tháng
07/2011.
Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn
tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính
nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức khoảng
120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của
nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới.
Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ thì cũng
không có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng
hoảng nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các
cổ phiếu ngân hàng, và trái phiếu.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 14
Thật khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ
và do đó, nhiều nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu
chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều này không những chỉ đẩy giá vàng
tăng mà còn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý trở thành nạn
nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.
+ Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng
như báo chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị
trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời
hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là 4,93%, cao hơn
nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang
đánh giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.
Thực tế không thể phủ nhận là Ý có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm
và có một chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường
hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại
lớn Ý là nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô
khoản nợ của nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước
này vốn dĩ là chậm chạp còn dân số Ý thì thuộc nhóm dân số già.
+ Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như
trường hợp Hy Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá
sớm.Trước tiên, đó là một thị trường bất động sản bong bong.Trong một thập
niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4 lần, thậm chí còn
đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như
Los Angeles.
Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống
ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành
ghánh nặng cho ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các
biện pháp kinh tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU,
nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít
nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000
biên chế trong các cơ quan nhà nước…
+ Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức
8,6 % GDP, cao hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ
công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên tới 84% GDP.Nghiêm trọng hơn, 70%
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 15
các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài.Điều này đòng nghĩa với
việc quốc gia này khó có thể xoay xở hay trì hoãn khi nợ đáo hạn.
+ Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nợ công
với bong bong nhà đất khổng lồ và các vấn đề lien quan đến các khoản nợ
tăng lên với mức đọ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS)
kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312
điểm phần trăm, cao chưa từng có từ trước đến nay. Như vậy cứ 10 triệu euro
nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.
1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả:
* Nguyên nhân:
- Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong khủng
hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.
- Một điều bất cập là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân
của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường
hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong
khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước
ngoài.Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách,
kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong
nước thay thế.
- Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công
- Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm
vấn đề.
- trong suốt thời gian dài Chính phủ Hy Lạp đã phải ngụy tạo các báo cáo về
tình hình kinh tế trong nước, sắp xếp lại các giao dịch nhằm che dấu mức
vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của EU và có
thể chi tiêu cao hơn.
* Hậu quả:
- Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau. các ngân hàng không tin
tưởng nhau, thành ra ngày càng ít cho mượn tiền nhau. Vừa lo ngại về khủng
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 16
hoảng nợ kéo dài, các thị trường chứng khoán châu Âu còn sợ là kinh tế Mỹ
sẽ lại lâm vào suy thoái, nhất là sau khi ngày thứ sáu vừa qua, các số liệu về
việc làm ở Mỹ không lấy gì là khả quan.
- Khủng hoảng nợ công tại châu Âu ngày càng trầm trọng, Một đợt tháo
chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu các ngân hàng khu
vực châu Âu là hoàn toàn có thể và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền
kinh tế khác.
- Tình hình trên các thị trường tài chính đã trở nên căng thẳng, khủng hoảng
nợ công sẽ gây ra thiệt hại lớn cho các ngân hàng châu Âu và từ đó sẽ lan ra
toàn cầu.
- vấn đề nợ công nghiêm trọng tại phương Tây giống như một hành tinh có
quỹ đạo bay hướng thẳng về Trái Đất. Hành tinh đó quá to để có thể né
tránh, cũng như quá khó để xác định chính xác mức độ thiệt hại sau cú va
chạm, trong đó không thể nào không kể đến Châu Á. Tình trạng trên đã tác
động mạnh đến nền kinh tế châu Á, giá chứng khoán tại các thị trường đều
giảm.
2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam.
- Nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001 lên
56.7% GDP vào năm 2010. Quy định nợ công ở mức an toàn là 50% nhưng
liên tiếp 2 năm 2009 và 2010 tỷ lện này đã vượt ngưỡng an toàn đề ra đây là
vấn đề hết sức nghiêm trọng mà việt nam cần phải giải quyết trong thời giàn
tới.
- Với tỷ lệ nợ công này và năm 2009 là 52,6% , thì tỷ lệ nợ công việt
nam đã đứng thứ 44 trên thế giới và đứng thứ 2 đông nam á sau phillipine.
Cao hơn rất nhiều so với các nước mới nổi và đang phát triển trong khu vức
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 17
- Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt
ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 6,2% GDP .
chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày
càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ
công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư
ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh
niên và mức thâm hụt đã vượt qua ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ
quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Theo báo cáo của
Bộ Tài Chính, ước tính đến ngày 31.12.2010 nợ công là 56,7% GDP; trong khi
Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.
- Tuy nhiên, các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là vay dài hạn, với lãi suất
ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho ngân sách nhà nước về nghĩa vụ
trả nợ đến hạn.
Việt Nam là một nước đang phát triển nên rất cần nguồn vốn để đầu tư phát
triển thì nợ công vẫn là nguồn tài chính quan trọng cho việc chi đầu tư phát triển
và bù đắp thâm hụt ngân sách.
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 18
- Nợ công vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước ngoài
của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. Hình thức huy động vốn
ngày càng đa dạng và linh hoạt.Thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công
tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận thông lệ quốc tế.
- Tuy vậy, việc gia tăng nợ công vẫn tạo ra những nguy cơ rủi ro cho nền
kinh tế vĩ mô. Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng,
thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng cách vay trong nước và vay
nước ngoài. Việc quản lý và chất lượng sử dụng nguồn vốn vay của Việt
Nam hiện nay rất yếu kém. ), Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc
nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân
sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền
vững của nợ công .
Các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần được
tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong
phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn
chế và quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực cán bộ
cần được cải thiện.
- Cạnh đó còn những tồn tại cơ bản là thị trường trái phiếu trong nước phát
triển còn hạn chế. Công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản
vay ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào.
2.1. Tình hình sử dụng nợ công
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn diễn ra khá thường
xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải
ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng
47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển
tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự
thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh
nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng
phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu
tư. Việc phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ trương huy động và sử dụng vốn
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 19
cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao,
chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR. Năm 2009, trong
khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại
chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6
của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng
vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3
đồng vốn nữa.
2.2. Tình hình trả nợ công
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và
hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam
dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm
dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi
đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với
gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại
nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng
vốn vay vào các dự án đầu tư. Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào
đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các
khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công.
Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam
Sau khi nghiên cứu về thực trạng của nợ công Việt Nam, chúng ta thấy nổi cộm
lên các vấn đề như sau :
2.3.1. Số liệu thống kê.
Chúng ta có thể thấy rằng có 1 sự khác biệt lớn về số liệu nợ mà việt nam cung
cấp so với số liệu mà các tổ chức thế giới (như WB…) đã đưa ra, điều này xuất
phát từ 3 yếu tố chính sau:
Việc nhìn nhận về nợ công: Nước ta bóc tách nợ công thành 2 bộ phận gồm
khu vực Nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế công (có sự
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 20
góp vốn, góp mặt của Nhà nước)… đưa ra vấn đề này để thấy rằng có nhiều
công ty quốc doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công
ty bị phá sản, Nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các công
ty ấy.
Do đó, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam, không thể tìm thấy ở Thái
Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Và số liệu nợ mà Bộ Tài
chính Việt Nam công bố hiện nay là nợ Nhà nước chứ không phải là nợ
công.Nợ công thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều. Thống kê tài chính Việt Nam
hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước, nên cũng khó lòng cho thấy
toàn cảnh vấn đề tài chính công vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất lớn
và Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không
phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt
Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng trên thực tế về
mặt nợ công
Sự thiếu minh bạch, công khai trong vấn đề nợ công của nhà nước: Bài học
lớn mà chúng ta nhận được từ hi lạp đó là vấn đề niềm tin và sự minh bạch.
Có thể thấy tình trạng tồi tệ mà hy lạp gặp phải là hậu quả của việc thiếu
minh bạch, chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới
đầu tư quốc tế mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy
Lạp rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008
được Hy Lạp công bố là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch
Hy Lạp là bài học nhỡn tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên
thực lực kinh tế.và ở việt nam chúng ta vẫn thấy quá nhiều cái bí và mật bên
trong số liệu ma nhà nước công bố. và câu hỏi chúng ta đặt ra là vậy con số
nợ thực tế của VN là bao nhiêu, nếu nhà nước vẫn để câu hỏi này bỏ ngò thì
vấn đề của việt nam cũng sẽ là không nhỏ trong tương lai gần.
Những hạn chế trong phương pháp tính nợ: Trong nợ công còn có 1 bộ phận
là phần quỹ hưu trí – đây là cách tính nợ công tiêu chuẩn của Liên Hiệp
Quốc, vấn đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ công ở Việt Nam. Cách tính
nợ công của Việt Nam chưa phản ánh chân thực một phần quan trọng: Đó là
nợ phải trả trong tương lai khi công chức về hưu. Phần này có thể rất lớn (ở
Singapore chiếm tới 50% GDP). Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn
quốc tế, thì mỗi khi một công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về
hưu, còn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi, Chính phủ phải đóng vào
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 21
quỹ này. Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, nên Nhà
nước hàng năm lấy tiền ngân sách ra chi trả mà quên đi quỹ kia, chứng tỏ
theo cách tính này thì những nước như việt nam đang tính thiếu phần nợ
công trong nước.
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các
nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn
quốc tế. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có
tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này
là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi
không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo
nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện
công chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng
hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ Nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể,
do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước.
Qua những phân tích trên ta thấy rằng còn rất nhiều vấn đề trong số
liêu nợ công của VN đòi hỏi các cấp ban ngành cần có sự xem xét lại
cũng như có những điều chỉnh hợp lí.
2.3.2. Cơ cấu nợ:
Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và
chiếm tỷ trọng cao nhất. Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng
hiện nay ở Việt Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các
nhà kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và
mức độ nghiêm trọng của nợ công của quốc gia.
Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ
công; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ
trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho
thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi
ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay
phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế.
2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 22
Việt Nam sử dụng nợ công không mấy hiệu quả. Vì thực tế thì nguồn tiền có
được chúng ta đã và đang sử dụng dàn trải thiếu trọng tâm trọng điểm và
mang lại hiệu quả thấp có những trường hợp còn không mang lại hiệu quả.
Đề thấy rõ hơn chúng ta tìm hiểu 1 chút về hệ số ICOR-(Incremental Capital
– Output Rate), đo lường về hiệu quả đầu tư. ICOR càng cao thì chứng tỏ
hiệu quả đầu tư càng thấp:
ICOR = (Kt-Kt-1) / (Yt-Yt-1)
Trong đó: (k: vốn đầu tư, y: sản lượng)
Chỉ số ICOR năm 2010 của VN là 6,9, nói đơn giản là phải bỏ ra 6,9 đồng
vốn đầu tư mới được 1 đồng tăng trưởng
Đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả
và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với tiêu chuẩn đưa ra
thì VN đầu tư không hiệu quả và so sánh với các nước trong khu vực, ICOR
của Việt Nam gần gấp đôi có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.
Vì thế vấn đề ở đây là nếu số tiền được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải
khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích
cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ
có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. Nhưng, một khi đầu tư
không hiệu quả thì cần phải cân nhắc kĩ về việc vay nợ.
3 Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ, đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan quản lý nợ nước ngoài. Nghiên cứu đề xuất mô hình đổi mới tổ chức
quản lý nợ theo hướng hiện đại và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tiếp tục điều chỉnh và sắp xếp lại một cách hợp lý cơ cấu tổ chức quản lý nợ
trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự phân công đúng
người, đúng việc, tránh chồng chéo, trùng lặp. Để đưa ra một mô hình quản
lý nợ công hợp lý cho Việt Nam hiện nay chúng ta không chỉ dựa vào Luật
quản lý nợ công; mà còn phải rút kinh nghiệm thực tiễn từ cách quản lý nợ
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 23
công trên thế giới để tránh đi vào vết xe đổ khủng hoảng nợ công của các
nước.
Cung cấp đầy đủ trang thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử
dụng hệ thống thông tin, hiện đại hóa quy trình thu thập, tổng hợp, phân tích
cơ cấu nợ để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ tiên tiến. Thủ tướng đã chỉ định Bộ
tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây
dựng những cơ chế phối hợp trong việc quản lý thông tin nợ quốc gia, tăng
cường đầu tư cung cấp đầy đủ những phương tiện, thiết bị nhằm phục vụ cho
đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên cập nhật các phương
pháp thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ một cách tiên tiến mang tính
chính xác cao cũng như phù hợp với điều kiện đất nước để có thể đưa ra
những con số phản ánh đúng thực trạng của nợ nước ngoài cho các cấp lãnh
đạo có thể có những quyết định đúng đắn.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường phổ biến kiến thức về quản lý
nợ nước ngoài cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các ban quản lý dự án
và đơn vị sử dụng vốn vay nước ngoài. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính
với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây dựng đề
án đào tạo cán bộ, tăng cường phổ biến kiến thức cho các đối tượng có liên
quan. Từ đó hình thành một đội ngủ cán bộ có đầy đủ trách nhiệm và chuyên
môn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Cần có một
chế tài nghiêm khắc với những cán bộ quản lý nợ công khi họ mắc những sai
phạm. Tổ chức kiểm điểm và xử lý nghiêm túc các sai phạm của tập thể và
cá nhân có liên quan để tránh trường hợp như Vinashin, khi vụ việc vỡ lỡ thì
trách nhiệm bị đùn đẩy.
Tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công
đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
Nâng cao khả năng quản lý vốn vay. Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và
hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở kiểm soát thâm hụt ngân sách hợp lý và
có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả. Tiếp tục nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay. Tránh việc vay nợ quá nhiều, đầu tư công quá lớn
và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài hạn bằng vốn vay ODA
**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**
TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626
NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 24
ở Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu quả đầu tư,
khả năng trả nợ.
Duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn: Tổ chức thực hiện thanh toán trả
nợ nước ngoài, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá
hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế. Vận dụng linh hoạt các biện
pháp mua lại nợ, chuyển đổi nợ tay ba, giảm nợ đặc biệt trên cơ sở nghiên
cứu thận trọng các cơ chế quốc tế phù hợp có khả năng cho phép bằng cách
thay đổi cơ cấu nợ để đạt được danh mục nợ tối ưu. Có chính sách điều
hành tốt kinh tế vĩ mô để tăng thu ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế,
đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tăng cường dự trữ ngoại tệ để cải
thiện chỉ số nợ nước ngoài và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Thành lập Quỹ tích lũy trả nợ :Quỹ này được hình thành nhằm đảm
bảo khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản vay nước ngoài của
Chính phủ về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà
nước phát sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. Cùng với quyết nghị
thành lập Quỹ này, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính thực hiện quản lý Quỹ
tích lũy trả nợ với nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi của Quỹ, sử dụng nguồn vốn của Quỹ đúng mục đích, bảo đảm tập trung
đầy đủ, kịp thời các nguồn thu của Quỹ nợ công.
Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý
nợ công, quản lý rủi ro tài khoá, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài
chính quốc gia.
Tăng cường giám sát hiệu quả của việc sử dụng vốn: giám sát các dự
án được đầu tư bằng nguồn vốn chính phủ cũng như hoạt động của khu vực
kinh tế nhà nước thông qua cơ quan kiểm tra - thanh tra độc lập.
Tăng cường quản lý rủi ro và giám sát nợ công: tất cả các cơ quan,
các tổ chức cơ quan nhà nước có liên quan đều có quyền và trách nhiệm
trong việc quản lý nợ công.
Phải minh bạch, công khai rộng rãi các thông tin về nợ công: vốn vay
trong nước, vay nước ngoài, trả nợ gốc, trả nợ lãi trong quyết toán NSNN,