Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CÔNG TÁC CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI UBND PHƯỜNG VĨNH ĐIỆN, THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.26 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện thế giới đang bước vào giai đoạn toàn cầu hóa sâu sắc, vấn đề
cải cách nền hành chính Nhà nước, trong đó có cải cách thủ tục hành chính là nhiệm
vụ cần thiết. Nhận thức rõ yêu cầu đó, Hội nghị TW 5 khóa X, Đảng ta đã ra Nghị
quyết “Ðẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ
máy nhà nước”. Trong Nghị quyết, Trung ương xác định rõ các mục tiêu và yêu cầu
phải đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại,... và yêu cầu tập trung hoàn thiện chức năng, nhiệm
vụ, quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và của cả bộ
máy hành chính nhà nước thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng.
Trong nội dung cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách thủ tục hành chính
là nhiệm vụ quan trọng và cơ bản nhất. Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, thủ tục
hành chính hiện vẫn còn rất rườm rà, phức tạp; việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ còn
thiếu khoa học; thu lệ phí, phí ở nhiều nơi còn chưa đúng quy định; mặt khác, nhiều
cán bộ, công chức ở bộ phận tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính còn có thái độ
thiếu tôn trọng công dân, tổ chức đến liên hệ công việc, còn tồn tại tình trạng cửa
quyền, sách nhiễu... Với tình hình giải quyết công việc như vậy chẳng những làm tốn
thời gian, tiền bạc, công sức của nhân dân, tổ chức, nhà nước mà còn là môi trường
phát sinh tệ quan liêu, tham nhũng,... làm mất lòng tin đối với nhân dân.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành
chính Nhà nước ở địa phương (kèm theo Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày
04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ). Đây là bước tiến quan trọng trong cải cách thủ
tục hành chính, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu cải cách nền hành chính Nhà
nước giai đoạn 2001 - 2010. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Quyết định số
93/2007/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên
thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Căn cứ Quyết định này, Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 3960/QĐ-UBND ngày
05/12/2011 ban hành danh mục và thời gian giải quyết các thủ tục hành chính thực


hiện theo cơ chế một cửa tại UBND các huyện, thành phố và UBND các xã, phường,
thị trấn (có hiệu lực 05/12/2011 và thay thế Quyết định số 3129/QĐ-UBND ngày
24/9/2008), Quyết định số 1481/QĐ-UBND ngày 09 tháng 5 năm 2012 ban hành Quy
định về việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
1


Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện là một cơ quan nằm trong hệ thống bộ máy
hành chính nhà nước, do vậy cũng không nằm ngoài yêu cầu khách quan này. Trải
qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện đã không
ngừng cải cách theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp
trên để phù hợp với điều kiện thực tế, đã thúc đẩy nền kinh tế thị trấn phát triển, nâng
cao đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần.
Nằm trong sự vận động, phát triển chung của bộ máy hành chính Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính ở Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện là cần thiết, cấp bách,
mang tính liên tục. Qua nghiên cứu học tập môn quản lý nhà nước của chính quyền
cấp xã, đặc biệt là sau khi nghiên cứu chuyên đề về cải cách hành chính nhà nước,
trong đó có nội dung cải cách thủ tục hành chính nhà nước theo cơ chế “một cửa”,
bản thân tôi đã nhận thức được đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết. Với
mục đích nhằm nâng cao nhận thức của bản thân và đóng góp phần nhỏ công sức của
mình nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý hành chính nhà nước ở Ủy ban nhân
dân thị trấn Vĩnh Điện, thông qua học tập và nghiên cứu giáo trình, vận dụng thực tế,
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” để
làm đề tài thực tế của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nâng cao nhận thức giữa lý luận và thực tiễn, thực hiện học đi đôi
với hành, nắm được mục tiêu, nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện trong thời gian qua, thấy được thực trạng

công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa của Ủy ban nhân dân thị
trấn, qua đó nêu lên những phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp cụ thể để
góp phần nhỏ bé của mình phục vụ nhiệm vụ công tác tại Ủy ban nhân dân thị trấn
được tốt hơn.
3. Yêu cầu nghiên cứu
- Nêu ra những lý luận chung về thủ tục hành chính và cơ chế “một cửa”
- Nêu ra thực trạng về cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại
UBND thị trấn Vĩnh Điện, từ đó đánh giá những kết quả, hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của những kết quả đó.
- Nêu lên những phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu
quả cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND thị trấn Vĩnh Điện,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

2


4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những thủ tục hành chính được giải quyết tại UBND
thị trấn Vĩnh Điện theo mô hình “một cửa”. Tổng hợp tình hình thực tiễn để cung cấp
những căn cứ chính xác cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa” ở địa phương.
Về thời gian: Tập trung lấy số liệu thực tế từ năm 2008 (năm thành lập Bộ phận
Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thị trấn Vĩnh Điện) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng
các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu lý thuyết, khảo
sát tình hình thực tiễn để nghiên cứu.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì nội dung của đề tài được trình bày chủ yếu

trong 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cải cách thủ tục hành chính và cơ chế “một
cửa”.
Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại
UBND thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa” tại UBND thị trấn
Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
VÀ CƠ CHẾ MỘT CỬA
1. Cải cách thủ tục hành chính và sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính
1.1. Khái niệm thủ tục hành chính
Trong hoạt động quản lý nói chung và trong hoạt động của cơ quan nhà nước nói
riêng, để giải quyết được bất cứ công việc nào cũng đều cần có những thủ tục phù
hợp, theo quan niệm chung cho rằng: Thủ tục có nghĩa là phương thức, cách thức giải
quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất. Cũng có thể hiểu
thủ tục là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định để giải quyết công việc.
Hoạt động quản lý Nhà nước cần phải tuân theo những quy tắc pháp lý, quy định
và trình tự, cách thức khi sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công
việc. Thủ tục hành chính là một loại thủ tục gắn với hoạt động của cơ quan hành
chính Nhà nước. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thủ tục hành chính dựa trên
những góc nhìn khác nhau, nhưng có thể hiểu một cách chung nhất: “Thủ tục hành
chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời gian, về không gian
khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy nhà nước, là cách thức giải quyết

công việc của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan,
tổ chức và cá nhân công dân”.
Thủ tục hành chính là bộ phận cơ bản của thể chế hành chính Nhà nước, là công
cụ của cơ quan hành chính Nhà nước được sử dụng để giải quyết công việc cho công
dân, tổ chức, là cơ sở để xác định tính hợp pháp của nền công vụ. Do vậy, thủ tục
hành chính đơn giản, thuận tiện, công khai và dân chủ sẽ góp phần tăng cường hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước, rút ngắn khoảng cách giữa
Nhà nước và nhân dân, củng cố sức mạnh Nhà nước, lòng tin của nhân dân và góp
phần phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính là một bộ phận của cải cách thể chế hành chính Nhà
nước, nhằm xây dựng và thực thi thủ tục hành chính theo những chuẩn mực nhất định.
Đơn giản, gọn nhẹ, vận hành nhịp nhàng; hoạt động theo đúng quy trình, quy phạm
thích ứng với từng loại đối tượng, từng loại công việc, phù hợp với điều kiện thực tế
và đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách
thủ tục hành chính thực chất là cải cách trình tự thực hiện thẩm quyền hành chính

4


trong mối liên hệ tới quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức và trong nội bộ cơ quan
hành chính Nhà nước.
Mục tiêu và yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính là phải đạt được sự chuyển
biến căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc của công dân, tổ chức. Cụ
thể là phải phát hiện và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu tính đồng bộ, chồng
chéo, rườm rà, phức tạp đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công
việc giữa cơ quan nhà nước với nhau và giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, công dân;
xây dựng và thực hiện các thủ tục hành chính giải quyết công việc đơn giản, rõ ràng,
thống nhất, đúng pháp luật và công khai; vừa tạo thuận tiện cho cá nhân, tổ chức có
yêu cầu giải quyết công việc; vừa có tác dụng ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu,

tham những của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước; đồng thời đảm bảo được
trách nhiệm quản lý Nhà nước, giữ vững được kỷ cương, pháp luật. Chúng ta đang
trong thời kỳ hội nhập, muốn thành công phải xây dựng được một hệ thống thủ tục
hành chính thực sự thông thoáng, dễ thực hiện, tạo môi trường pháp lý để thu hút
nước ngoài. Vấn đề này đã được nghị quyết của Đại hội Đảng khóa VI đề cập và
khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính. Đó cũng chính là một trong
những mục tiêu quan trọng, là nấc thang trong cải cách hành chính để hoàn thành
chương trình cải cải tổng thể nền hành chính Nhà nước giai đoạn 2000-2010 và giai
đoạn 2011-2020 được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên giải quyết cùng với cải cách tổ
chức bộ máy, tài chính công và cải cách về đội ngũ cán bộ, công chức.
1.3. Nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc được ghi nhận
trong Hiến pháp, Luật và các văn bản pháp quy. Các nguyên tắc đó bao gồm:
- Chỉ có cơ quan Nhà nước do pháp luật quy dịnh mới được thực hiện các thủ tục
hành chính nhất định, và phải thực hiện đúng trình tự với những phương tiện, biện
pháp và hình thức được pháp luật cho phép.
- Khi thực hiện thủ tục hành chính phải đảm bảo chính xác, khách quan, công minh.
- Thủ tục hành chính được thực hiện công khai.
- Các bên tham gia thủ tục hành chính bình đẳng trước pháp luật.
- Thủ tục hành chính được thực hiện đơn giản, tiết kiệm.
Những nguyên tắc trên đây có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống
nhất để đảm bảo tính hữu hiệu, hiệu quả trong mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với
nhau và giữa cơ quan nhà nước với tổ chức công dân trong việc phối kết hợp giải
quyết công việc của tổ chức, cá nhân. Như vậy, để cải cách thủ tục hành chính đạt
5


hiệu quả cao là khâu đột phá của cải cách nền hành chính quốc gia thì thủ tục hành
chính đảm bảo phải được xây dựng và thực hiện theo các nguyên tắc trên.

1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
Trước hết, xuất phát từ vai trò của thủ tục hành chính đối với Nhà nước và Nhân
dân. Thủ tục hành chính có một ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện các lợi ích xã hội,
nó đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và Nhà nước cũng như quyền ưu
tiên các lợi ích. Nếu bỏ qua thủ tục hành chính thì trong nhiều trường hợp quyết định
hành chính có thể bị vô hiệu hóa. Với vai trò là một bộ phận quan trọng của thể chế
hành chính, là một trong những mục tiêu mà cải cách hành chính nhà nước đặt ra
trong chương trình cải cách tổng thể hành chính Nhà nước. Thủ tục hành chính là
công cụ để cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng, thẩm quyền, trách
nhiệm. Tùy vào sự phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ mà thủ tục hành chính
phải thích ứng kịp thời phục vụ hoạt động quản lý. Điều này có ý nghĩa đối với lý
luận cải cách thủ tục hành chính trong thời kỳ hội nhập. Cụ thể là:
- Thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy định trong các
quyết định hành chính được thực thi thuận lợi. Thủ tục càng có tính cơ bản thì ý nghĩa
càng lớn vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối cùng của quyết
định hành chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng. Khi thủ tục bị vi phạm thì có
nghĩa hiện tượng vi phạm pháp luật xuất hiện và gây hậu quả nhất định. Ví dụ: Tuyển
dụng cán bộ công chức vào làm việc nhưng vi phạm thủ tục thi tuyển dẫn đến người
có năng lực trình độ lại không được tuyển. Điều đó làm ảnh hưởng đến chất lượng của
đội ngũ cán bộ công chức, gây khó khăn trong giải quyết công việc, làm giảm hiệu
quả, hiệu lực quản lý Nhà nước.
- Thủ tục hành chính là cơ sở đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được
thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do việc
thực hiện các quyết định hành chính tạo ra. Trong giai đoạn hiện nay, một số ngành
chức năng quy định thủ tục theo mẫu in sẵn trong phạm vi ngành và lưu hành trên
toàn quốc, do đó một công vụ ở bất cứ địa phương nào cũng đòi hỏi các cơ quan hành
chính áp dụng các biện pháp thích hợp và thống nhất.
- Thủ tục hành chính khi xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo ra khả
năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại
hiệu quả thiết thực cho Nhà nước. Nó liên quan đến quyền lợi của công dân, do đó khi

xây dựng và vận dụng tốt vào đời sống nó sẽ có ý nghĩa thiết thực, làm giảm sự phiền
hà, củng cố quan hệ giữa nhà nước và công dân. Công việc có thể được giải quyết
nhanh chóng, chính xác theo đúng yêu cầu của cơ quan nhà nước, góp phần chống tệ
nạn tham nhũng,...sách nhiễu nhân dân. Ở những nơi thủ tục hành chính vận dụng
6


không hợp lý do căn bệnh cửa quyền, quan liêu chưa được khắc phục. Ngược lại, ở
nơi nào thực hiện giảm nhẹ các thủ tục hành chính, tập trung vào “một cửa” để giải
quyết yêu cầu của dân thì ở đó hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng lên rõ
rệt, công việc được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi và ở đó lòng tin của nhân dân
vào cơ quan nhà nước được khôi phục, củng cố và nâng cao.
- Thủ tục hành chính là một bộ phận của pháp luật hành chính nên việc xây dựng
và thực hiện tốt các thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình triển
khai và thực thi luật pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Trên thực tế,
Đảng và Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều phương pháp, biện pháp nhằm cải cách
thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, thông thoáng góp phần cho kinh tế phát
triển. Ví dụ: chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để thu hút vốn
đầu tư nhưng thủ tục thành lập doanh nghiệp của chúng ta thì quá nặng nề, nhiều
bước, yêu cầu nhiều loại giấy tờ… Điều này gây tâm lý chán nản cho nhà đầu tư, do
đó môi trường đầu tư của Việt Nam mất đi tính cạnh tranh so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Đứng trước vấn đề đó, chúng ta cần tích cực cải cách thủ tục
hành chính trên tất cả các lĩnh vực và tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt.
- Thủ tục hành chính trên một phương diện nhất định là biểu hiện trình độ văn
hóa của tổ chức. Đó là văn hóa giao tiếp trong bộ máy Nhà nước, văn hóa điều hành.
Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển. Vì vậy, cải cách thủ
tục hành chính sẽ không đơn thuần chỉ liên quan đến pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa, mà còn liên quan đến sự phát triển chung của đất nước về các mặt chính trị,
văn hóa giáo dục và đến sự mở rộng giữa nước ta với các nước trong thời kỳ hội nhập.
Cải cách thủ tục hành chính thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân và là

cơ sở để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Việt Nam.
Bên cạnh đó, cải cách thủ tục hành chính nói riêng và cải cách hành chính nói
chung là một nhu cầu tất yếu khách quan của mọi quốc gia. Xã hội luôn vận động và
phát triển không ngừng, nhu cầu người dân ngày càng đa dạng, với vai trò là đầu mối
cung cấp các dịch vụ công và quản lý xã hội đi vào nề nếp, trật tự thì đòi hỏi hệ thống
quản lý hành chính của mỗi quốc gia cần phải thay dổi, cải tiến để thích ứng và đáp
ứng tốt các nhu cầu phát triển của xã hội, mà trước hết là những nhu cầu thiết yếu
đảm bảo cho đời sống của nhân dân được ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Ở
Việt Nam, do yêu cầu đổi mới của Đảng từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã đặt ra
nhiệm vụ phải đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, thực hiện một cuộc cải cách lớn các cơ quan nhà nước với trọng tâm
là xây dựng hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương đến
cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực và hiệu quả. Đến nay, chúng ta đang từng

7


bước xây dựng một nền hành chính phát triển thay thế cho nền hành chính truyền
thống để phù hợp với xu hướng thời đại, thay đổi vai trò của quản lý.
Một lý do quan trọng, để Toàn Đảng, toàn dân ta cần phải chung tay tiếp tục đẩy
mạnh cải cải thủ tục hành chính đó là: Hiện nay, thủ tục hành chính là một bộ phận
của thể chế hành chính. Thủ tục hành chính là công cụ để cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm. Tùy vào sự phát triển kinh tế xã
hội của từng thời kỳ mà thủ tục hành chính phải thích ứng kịp thời phục vụ hoạt động
quản lý. Điều này có ý nghĩa đối với lý luận cải cách thủ tục hành chính trong thời kỳ
hội nhập. Nhưng trên thực tế công tác cải cách thủ tục hành chính trong những năm
qua đã đạt được những kết quả đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển, thể hiện ở một số điểm sau:
- Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn mang nặng giải pháp tình
thế, thiếu tính tổng thể. Thủ tục hành chính là biểu hiện tập trung nhất của hoạt động

Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay bài toán về mức độ và
phương pháp can thiệp phù hợp của Nhà nước trong từng lĩnh vực quản lý cụ thể hầu
như chưa được giải đáp một cách thỏa đáng như lĩnh vực: đầu tư trực tiếp nước ngoài,
đất đai… Tầm tư duy, tổng kết thực tiễn xây dựng chính sách vĩ mô vẫn nằm trong
tình trạng bất cập, nặng nề về đề phòng, trói buộc, thiếu sự chủ động, thông thoáng.
Vì vậy, thủ tục hành chính nhìn chung chưa ổn định, chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà
đầu tư. Các biện pháp cải cách thủ tục hành chính thì vẫn mang nặng tính thử nghiệm,
phương châm cải cách là vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa học hỏi, quá trình cải cách
gặp nhiều lúng túng, bị động trước những thay đổi của tình hình trong nước và quốc
tế.
- Chất lượng dịch vụ hành chính công mà Nhà nước cải cách cho nhân dân còn
thấp, chưa đáp ứng được sự mong mỏi của nhân dân. Hiện tượng tham nhũng, hối lộ,
lãng phí trở thành quốc nạn. Người dân đến cơ quan nhà nước thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình nhưng bị đối xử như người đi xin, đi nhờ vả.
- Cải cách thủ tục hành chính vẫn chưa tương xứng trong tất cả các lĩnh vực.
Hiện tại không phải mọi lĩnh vực đều đạt được những thành tựu trong cải cách thủ tục
hành chính mà còn nhiều lĩnh vực khác như: khiếu nại tố cáo, hộ khẩu, hộ tịch, đầu tư
nước ngoài… mức độ cải cách vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
Những yếu kém trong phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của cán bộ công chức
trở thành lực cản làm cho thủ tục hành chính khó đi vào đời sống.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Đảng và Nhà nước ta luôn coi cải cách hành
chính là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trong hàng đầu cần đẩy mạnh
thực hiện và tiếp tục cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách thủ tục hành chính
8


trong thời kỳ hội nhập để tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, nâng cao tính cạnh
tranh về môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Giúp Việt Nam có thể hội nhập bền vững và nắm bắt những cơ hội tốt để phát
triển. Do đó, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực là nhiệm vụ

quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng như tất cả các ngành, các cấp. cải cách thủ tục
hành chính giữ một vị trí quan trọng trong công tác cải cách hành chính, và có một ý
nghĩa lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nó được coi là khâu đột phá
trong cải cách nền hành chính quốc gia, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” là một trong những giải pháp để cải cách
hành chính mà Nhà nước ta hướng tới, từ khi ra đời lần đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nghị quyết số 366/HĐBT ngày 7-11-1991, của Hội
đồng Bộ trưởng ban hành chế độ thẩm định các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp lý như Nghị quyết số 38/CP ngày
4-5-1994; Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 4-9-2003, ban hành thực hiện cơ chế
“một cửa” tại cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương, cho đến nay nó đã được
nhân rộng khắp các lĩnh vực ở mọi cấp, mọi ngành vì những ưu điểm của cơ chế này
mang lại.
2. Cơ chế một cửa
2.1. Khái niệm
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết
phải cải cách thủ tục hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Yêu cầu chung của cải cách thủ tục hành
chính là giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà và phức tạp, chồng chéo dễ bị lợi dụng
để tham nhũng, gây khó khăn và cản trở việc giải quyết công việc chung, làm ảnh
hưởng đến quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, công dân. Cơ chế “một cửa”, “một
cửa liên thông” là một giải pháp đổi mới về phương thức làm việc của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong quan hệ
giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, công dân.
Nhận rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ tục hành
chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 về cải cách một
bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết tốt hơn
các công việc của công dân, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Cùng với
yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính ở nước ta từng bước được
định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm

bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Trên
lộ trình thực hiện Nghị quyết 38/CP của Chính phủ, cơ chế “một cửa” đã ra đời và
được thí điểm rộng rãi trên cả nước. “Cơ chế “một cửa” là cơ chế giải quyết công
9


việc của tổ chức, cá nhân bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc trách
nhiệm, thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận
giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối duy nhất là
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước đó”.
Việc cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện
cơ chế “một cửa”, được triển khai mạnh trong quá trình thực hiện Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước trong hai giai đoạn 2001-2010 và 2011-2020.
2.2. Nguyên tắc thực hiện
Việc tuân thủ các nguyên tắc này khi thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế “một cửa” là rất cần thiết và không thể thiếu nhằm đảm bảo thực hiện thống
nhất, chính xác, có hiệu quả cơ chế “một cửa” tại tất cả các cơ quan hành chính nhà
nước. Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.
Thứ hai, công khai các thủ tục hành chính, mức thu phí, lệ phí, giấy tờ, hồ sơ và
thời gian giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
Thứ tư, bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, đảm bảo sự phối hợp giải quyết công việc giữa các bộ phận, cơ quan
hành chính nhà nước để giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân.
2.3. Phạm vi và quy trình thực hiện cơ chế “một cửa”
2.3.1. Phạm vi thực hiện
Cơ chế “một cửa” được áp dụng đối với các cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 3
Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg, ngày 22/6/2007 của
Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ các quy định của

pháp luật và tình hình thực tế của địa phương quyết định những loại công việc thực
hiện theo cơ chế “một cửa” để giải quyết một số lĩnh vực công việc liên quan trực tiếp
tới tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật cùng thuộc trách nhiệm, thẩm quyền
của nhiều cơ quan hành chính nhà nước. Bao gồm các cơ quan sau:
- Văn phòng UBND, các sở và cơ quan tương đương (sau đây gọi là cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh) thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi là UBND cấp tỉnh);
- UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là UBND cấp huyện);
- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là UBND cấp xã);
10


- Các cơ quan được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc đặt tại địa phương của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
2.3.2. Quy trình giải quyết hồ sơ hành chính theo cơ chế một cửa
- Tổ chức, cá nhân có yêu cầu giải quyết công việc được quy định áp dụng cơ
chế “một cửa”, “một cửa liên thông” liên hệ, nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả của một cơ quan hành chính nhà nước theo quy định.
- CB, CC làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả có trách nhiệm xem xét
hồ sơ của tổ chức, cá nhân:
+ Trường hợp yêu cầu của tổ chức, cá nhân không thuộc thẩm quyền giải quyết
thì hướng dẫn để tổ chức, cá nhân đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
+ Trường hợp hồ sơ chưa đúng, chưa đủ theo quy định thì hướng dẫn cụ thể một
lần, đầy đủ để tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn chỉnh.
- Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả căn cứ vào tính chất công việc có trách nhiệm
xem xét, xử lý theo quy trình sau:
+ Trình lãnh đạo trực tiếp để giải quyết theo trách nhiệm thẩm quyền;
+ Trực tiếp liên hệ với các cơ quan liên quan để giải quyết hồ sơ. Các cơ quan
liên quan có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, giải quyết theo thẩm quyền, đúng thời gian
quy định;

- Nhận kết quả, trả lại cho tổ chức, cá nhân, thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
2.4. Ưu điểm của mô hình “một cửa”
- Mô hình “một cửa” thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách thủ tục hành chính,
phù hợp với tình hình thực tế, hợp với lòng dân được nhân dân đồng tình ủng hộ. Các
thủ tục hành chính được rà soát đơn giản, dễ hiểu, quy trình giải quyết được điều
chỉnh thực sự hợp lý, khoa học, công khai. Những giấy tờ có tính chồng chéo không
theo quy định của Nhà nước được loại bỏ. Đối với lãnh đạo UBND các cấp và lãnh
đạo các sở, ban ngành, các phòng chức năng bớt đi những công việc sự vụ, dành
nhiều thời gian cho những nhiệm vụ quan trọng hơn, phát huy được lực hiệu quản lý
nhà nước.
- Mô hình này khắc phục được tình trạng đùn đẩy công việc, không rõ trách
nhiệm như trước đây. Trước đây khi công dân có hồ sơ hành chính đến giải quyết phải
tìm gặp nhiều phòng ban khác nhau, hồ sơ có khi phải làm đi làm lại nhiều lần, mất
nhiều thời gian, thời gian giải quyết công việc không được quy định cụ thể, thủ tục
hành chính không thống nhất, không được niêm yết công khai, còn có biểu hiện phiền
hà đối với công dân.
11


- Giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” góp phần đẩy mạnh công
tác dân chủ cơ quan và các xã, phường, tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chức
đã được nâng lên, tinh thần đoàn kết nội bộ tốt hơn, chất lượng công tác có chuyển
biến rõ nét; các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của từng cơ
quan liên quan đến các lĩnh vực giải quyết được công khai quán triệt, bàn bạc, kiểm
tra và tổ chức thực hiện; mặt khác việc tiếp dân, giải quyết đơn thư kiến nghị của
công dân được quan tâm; những vướng mắc, tranh chấp nẩy sinh ở các khu dân cư đã
được giải quyết kịp thời từ cơ sở.
- Mặc dù số lượng công dân đến làm việc đông đúc nhưng với hệ thống quy trình
giải quyết hồ sơ hành chính khoa học, cùng với việc từng bước nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức có nghiệp vụ trách nhiệm với công việc, có ý thức phục vụ

nhân dân. Do đó nhận được sự đồng thuận, ủng hộ cao của nhân dân. Nhu cầu của
người dân được thỏa mãn, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với bộ máy chính quyền.
Qua thực tế cho thấy, thực hiện cơ chế “một cửa” đã thật sự cải cách thủ tục
hành chính theo tinh thần đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian chờ đợi và giảm
chi phí, phiền hà cho tổ chức, công dân nhưng vẫn bảo đảm công khai minh bạch,
đúng pháp luật; tạo thuận lợi tối đa cho nhân dân, và góp phần tích cực chống quan
liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng phí.

12


Chương 2
Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”
trên địa bàn thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị trấn Vĩnh Điện
1.1. Địa lý, tự nhiên
Thị trấn Vĩnh Điện là một đơn vị hành chính nằm ở trung tâm của huyện Điện
Bàn, cách thành phố Tam Kỳ 48km về phía Nam, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng
25km về phía Bắc, phía Đông Bắc giáp với xã Điện Minh, phía Tây Bắc giáp với xã
Điện An, phía Đông Nam giáp với xã Điện Minh, phía Tây Nam giáp với xã Điện
Minh. Là một thị trấn nằm trên trục đường giao thông chiến lược từ Bắc vào Nam, từ
Đông sang Tây, rất thuận lợi cho việc giao lưu, quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội với
các địa bàn chung quanh, đặc biệt là thành phố Đà Nẵng và Khu kinh tế mở Chu Lai,
do đó, thị trấn Vĩnh Điện có vị trí rất quan trọng, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của huyện Điện Bàn và tỉnh Quảng Nam.

Bản đồ hành chính huyện Điện Bàn (Nguồn: www.dienban.gov.vn)
Được tách ra từ xã Điện Minh (cũ) vào năm 1981, có diện tích tự nhiên là 205,35
ha, 2017 hộ dân với 8192 nhân khẩu được chia thành 7 khối phố. Hộ nghèo chiếm
4,55% dân số, lao động trong độ tuổi chiếm trên 60% dân số, lao động phi nông

nghiệp chiếm trên 85% lực lượng lao động của thị trấn.

13


1.2. Kinh tế - xã hội
Thị trấn Vĩnh Điện là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội của huyện
Điện Bàn. Chính quyền và nhân dân thị trấn đã có những nỗ lực mới, lớn hơn, tập
trung phát huy nội lực kết hợp với khai thác, tranh thủ tốt ngoại lực, tạo ra được
những chuyển biến mới, tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng.
Với tinh thần đoàn kết, cần cù, vượt qua bao gian khó, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân đã đồng tâm hiệp lực, xây dựng thị trấn Vĩnh Điện từng bước phát triển.
Đến nay, diện mạo của thị trấn Vĩnh Điện đã thay đổi rõ rệt. Diện hộ nghèo thu hẹp
chỉ còn 70 hộ, số hộ khá, giàu tăng lên đáng kể, nền kinh tế chuyển dịch mạnh theo
hướng thương mại - dịch vụ. Giá trị sản xuất toàn nền kinh tế năm 2012 đạt 568 tỷ
đồng, trong đó: nông nghiệp chiếm 2,8 tỷ đồng, công nghiệp chiếm 25,2 tỷ đồng,
thương mại dịch vụ chiếm 540 tỷ đồng.
- Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2012 đạt 1177 triệu đồng, đạt 184,68% so
với kế hoạch huyện giao, vượt dự toán huyện giao và HĐND quyết nghị.
- Các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho đối tượng chính sách, người có
công, người nghèo và trẻ em được thị trấn thực hiện có kết quả. Các lĩnh vực y tế,
giáo dục, văn hóa, thông tin tuyên truyền, thể dục thể thao; các phong trào thi đua lập
thành tích chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước
có chuyển biến và đạt được hiệu quả thiết thực.
- Công tác cải cách hành chính được chú trọng thực hiện để phục vụ nhân dân
ngày càng tốt hơn khi đến giao dịch hành chính. Các hoạt động ứng công nghệ thông
tin phục vụ cho công tác cải cách hành chính, đầu tư cho việc xây dựng các phần mềm
ứng dụng phục vụ công tác quản lý nhà nước được tập trung và đẩy mạnh, từng bước
giảm được văn bản, giấy tờ hành chính trong hoạt động
2. Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”

thị trấn Vĩnh Điện
2.1. Những căn cứ và công tác triển khai thực hiện cơ chế “một cửa” tại Ủy
ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện
Sau khi tiếp thu chủ trương, kế hoạch chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam cũng
như nội dung tập huấn, hướng dẫn của Sở Nội vụ về thực hiện Quyết định số
93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế thực
hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa” liên thông tại các cơ quan hành chính Nhà
nước ở địa phương. UBND huyện Điện Bàn đã kịp thời tổ chức hội nghị triển khai
quán triệt cho lãnh đạo các ngành có liên quan của huyện và UBND các xã, thị trấn
14


nhằm tổ chức thực hiện nghiêm túc quyết định nêu trên của Thủ tướng Chính phủ
cũng như kế hoạch của UBND tỉnh.
Trên cơ sở đó, UBND huyện đã có văn bản chỉ đạo UBND các xã, thị trấn có
kế hoạch tổ chức thực hiện kịp thời và đồng bộ các mặt công tác có liên quan, kể cả
các đơn vị đã triển khai theo quyết định số 181/2003/QĐ-TTg phải tập trung củng cố
lại theo quy định tại Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg. Đồng thời với việc triển khai
các mặt công tác đã nêu, UBND huyện cũng đã ra quyết định ban hành Danh mục
công việc thực hiện theo cơ chế một cửa tại UBND các xã, thị trấn để các địa phương
có cơ sở thực hiện.
Trên cơ sở thực hiện các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh
Quảng Nam chỉ đạo và hướng dẫn của UBND huyện Điện Bàn, UBND thị trấn Vĩnh
Điện tiến hành thành lập Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thực hiện theo cơ chế “một
cửa” tại UBND thị trấn Vĩnh Điện và được phê duyệt bằng các văn bản sau:
- Quyết định số 25/QĐ-UBND ngày 14/02/2008 của UBND thị trấn Vĩnh Điện
về việc thành lập Bộ phận Tiếp nhận và hoàn trả kết quả hồ sơ.
- Quyết định số 72/QĐ-UBND ngày 10/6/2012 của UBND thị trấn Vĩnh Điện về
việc ban hành danh mục công việc thực hiện theo cơ chế “một cửa” tại UBND thị trấn
Vĩnh Điện.

- Quyết định số 74/QĐ-UBND ngày 10/6/2012 ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thị trấn Vĩnh Điện.
- Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/6/2012 về việc củng cố Bộ phận Tiếp
nhận và trả kết quả thị trấn Vĩnh Điện
Ngày 14/02/2008, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả UBND thị trấn Vĩnh Điện
chính thức đi vào hoạt động, nhưng về danh mục công việc và quy chế hoạt động mới
được bổ sung theo Quyết định số 72/QĐ-UBND và Quyết định 74/QĐ-UBND ngày
10/6/2012 sau này.
2.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, UBND thị trấn Vĩnh Điện đã triển
khai, thực hiện một cách nghiêm túc việc áp dụng giải quyết các thủ tục hành chính,
quy trình tiếp nhận hồ sơ, giải quyết công việc theo mô hình “một cửa” tại địa
phương. Lãnh đạo thị trấn đã chỉ đạo các ban, ngành chuyên môn tiến hành rà soát lại
các quy trình thủ tục theo thời gian, các khoản thu phí, lệ phí, qua đó điều chỉnh cho
phù hợp.

15


Đồng thời, UBND thị trấn cũng đã hệ thống lại chức năng, nhiệm vụ của từng
ngành cụ thể để xác định mức độ trách nhiệm của từng cán bộ, công chức. Trên cơ sở
đó, UBND thị trấn cũng ban hành các quy định về thực hiện các thủ tục hành chính và
trình tự giải quyết tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả, công khai các thủ tục hành
chính trước phòng một cửa của thị trấn.
Ngoài ra, UBND thị trấn cũng cử cán bộ đi nghiên cứu, học tập mô hình cải cách
hành chính, mô hình “một cửa” ở các xã, phường lân cận trong và ngoài huyện như xã
Điện Phước, Điện Minh - huyện Điện Bàn, UBND phường Minh An - TP. Hội An…
UBND thị trấn đã chỉ đạo tập trung cho công tác nhân sự, lựa chọn cán bộ có
trình độ, có ý thức tổ chức kỷ luật, có khả năng tiếp dân để thành lập Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả hồ sơ thủ tục hành chính gồm 4 công chức phụ trách các ngành:

Địa chính - Xây dựng, Tư pháp - Hộ tịch, Lao động - Thương binh và xã hội, Văn
phòng - Thống kê. Trải qua hơn 4 năm hoạt động đã có một số thay đổi về nhân sự do
một số đồng chí chuyển công tác lên cấp huyện, ngày 14/02/2012, Bộ phận Tiếp nhận
và trả kết quả hồ sơ thuộc Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện được củng cố theo
Quyết định số 25/QĐ-UBND của chủ tịch UBND thị trấn Vĩnh Điện, hiện nay các
thành viên gồm có:
- Ông Nguyễn Đạt

- Chủ tịch UBND thị trấn

- Trưởng bộ phận;

- Ông Phan Ngọc Tiến

- Công chức VP-TK

- Thường trực;

- Ông Nguyễn Thế Bình

- Công chức ĐC-XD

- Thành viên;

- Ông Ngô Thanh Hải

- Công chức TP-HT

- Thành viên;


- Bà Phan Thị Hạnh Nguyên - Công chức VH-XH

- Thành viên

Các cán bộ, công chức làm việc tại Bộ phận Tiếp nhận và hoàn trả kết quả chịu
sự quản lý toàn diện và trực tiếp của ông Nguyễn Đạt - Chủ tịch UBND thị trấn.
Sơ đồ hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thị trấn Vĩnh Điện
Tổ chức
Công dân

Bộ phận Tiếp
nhận và trả kết
quả hồ sơ thủ tục
hành chính

Chủ tịch, Phó chủ
tịch UBND thị
trấn

* Giải thích:
- Tổ chức, công dân nộp hồ sơ trực tiếp cho công chức phụ trách lĩnh vực tương
ứng tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, nhận giấy hẹn, sau đó nhận lại hồ sơ đã giải
quyết từ chính công chức này.
16


- Công chức nhận hồ sơ trực tiếp viết giấy hẹn với tổ chức, công dân (đối với
những việc cần có thời gian xử lý), xử lý hồ sơ hoặc phối hợp với các bộ phận chuyên
môn có liên quan (nếu có)
- Công chức xử lý hồ sơ xong, trình Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND thị trấn

ký, sau đó trả lại cho tổ chức, công dân theo giấy hẹn, thu phí, lệ phí theo quy định.
2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ
hành chính tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện (ban hành kèm theo Quyết định số
37/QĐ-UBND ngày 10/6/2011 của UBND thị trấn Vĩnh Điện thì chức năng, nhiệm vụ
của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thị trấn Vĩnh Điện được quy định như sau:
2.3.1. Chức năng:
Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc UBND thị trấn là bộ phận chuyên môn
tham mưu Chủ tịch UBND thị trấn trong việc tiếp nhận và trả kết quả các loại hồ sơ
hành chính cho tổ chức, công dân được cơ quan có thẩm quyền quyết định đưa vào
danh mục các loại công việc thực hiện theo cơ chế “một cửa”. Bộ phận Tiếp nhận và
trả kết quả hồ sơ, thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” có nhiệm vụ:
- Hướng dẫn, tư vấn về điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ hành chính
cho tổ chức, công dân đến liên hệ giải quyết công việc. Việc hướng dẫn này được thực
hiện theo nguyên tắc một lần, đầy đủ, theo đúng quy định đã niêm yết công khai.
- Trường hợp hồ sơ đầy đủ theo đúng quy định thì tiếp nhận, viết phiếu nhận hồ
sơ, vào sổ theo dõi. Trường hợp hồ sơ chưa hoàn chỉnh thì hướng dẫn để tổ chức,
công dân bổ sung, hoàn chỉnh. Trường hợp hồ sơ của tổ chức, công dân không thuộc
thẩm quyền giải quyết của UBND thị trấn thì hướng dẫn cụ thể để tổ chức, công dân
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
- Xử lý hồ sơ của tổ chức, công dân theo phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình.
Trường hợp hồ sơ của tổ chức, công dân có liên quan đến trách nhiệm, quyền
hạn của các cán bộ, công chức khác, công chức phụ trách hồ sơ chủ động phối hợp
với các cán bộ, công chức khác cùng xử lý hồ sơ.
Sau khi xử lý hồ sơ của tổ chức, công dân xong, trình Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch
UBND thị trấn giải quyết.
- Nhận lại kết quả đã giải quyết, trả lại cho tổ chức, công dân, thu phí, lệ phí theo
quy định (nếu có).
- Báo cáo kết quả hoạt động cho Chủ tịch UBND thị trấn theo định kỳ hằng
tháng, quý, năm và đột xuất khi có yêu cầu.

17


2.3.2. Nhiệm vụ cụ thể của công chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả:
* Công chức Văn phòng - Thống kê:
- Tiếp nhận những hồ sơ về các lĩnh vực công việc không thuộc lĩnh vực Địa
chính-Xây dựng, Tư pháp-Hộ tịch, Lao động-Thương binh&Xã hội, chuyển các cán
bộ, công chức khác có liên quan thuộc UBND thị trấn để xử lý, viết phiếu chuyển hồ
sơ, sau đó nhận lại kết quả đã giải quyết, trả lại cho tổ chức, công dân.
- Theo dõi, tổng hợp tình hình tiếp nhận, giải quyết, trả hồ sơ của công chức
thuộc Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
- Là đầu mối phối hợp với các cán bộ, công chức khác thuộc UBND thị trấn kịp
thời giải quyết những vướng mắc xảy ra, đặc biệt đối với những hồ sơ liên quan đến
nội dung công việc của nhiều công chức.
* Công chức Địa chính - Xây dựng:
- Hướng dẫn, tiếp tổ chức, công dân đến liên hệ những công việc thuộc lĩnh vực
đất đai, xây dựng nhà ở.
- Xử lý, trình lãnh đạo UBND thị trấn giải quyết các hồ sơ thuộc lĩnh vực đất đai,
xây dựng nhà ở; sau đó trả kết quả cho tổ chức, công dân.
- Là đầu mối phối hợp với các công chức khác để giải quyết các công việc thuộc
lĩnh vực đất đai, xây dựng nhà ở đối với trường hợp có liên quan đến nội dung công
việc của nhiều công chức.
* Công chức Tư pháp - Hộ tịch:
- Hướng dẫn, tiếp tổ chức, công dân đến liên hệ về những công việc thuộc lĩnh
vực hộ tịch, chứng thực.
- Xử lý, trình lãnh đạo UBND thị trấn giải quyết các hồ sơ thuộc các lĩnh vực hộ
tịch, chứng thực, sau đó trả kết quả cho tổ chức, công dân.
- Là đầu mối phối hợp với các công chức khác để giải quyết các công việc thuộc
lĩnh vực hộ tịch, chứng thực đối với các trường hợp liên quan đến nội dung công việc
của nhiều công chức.

* Công chức Văn hóa - Xã hội (phụ trách lĩnh vực Bảo trợ xã hội và Người có công):
Làm công tác lao động thương binh xã hội; thống kê dân số, lao động, tình hình
việc làm, ngành nghề trên địa bàn; nắm số lượng và tình hình các đối tượng hưởng
chính sách lao động - TBXH; hướng dẫn và nhận hồ sơ của người xin học nghề, tìm
việc làm, người được hưởng chính sách ưu đãi, chính sách xã hội; theo dõi việc thực
hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, việc thực hiện chi trả trợ cấp xã hội; thực hiện
18


chính sách dân tộc tại cơ sở; thực hiện sơ kết, tổng kết báo cáo công tác lao động
thương binh xã hội; công tác gia đình, quản lý khai thác sử dụng trạm phát thanh cấp xã.
Như vậy, các cán bộ, công chức tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thị
trấn Vĩnh Điện có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đây là cầu nối giữa thường trực
HĐND-UBND với các tổ chức và công dân, là cánh tay đắc lực của UBND thị trấn,
đảm bảo cho việc giải quyết yêu cầu, hồ sơ của tổ chức và công dân được nhanh, gọn
và tiết kiệm. Hoạt động của Bộ phận này đạt hiệu quả sẽ nâng cao hơn nữa lòng tin
của nhân dân với chính quyền địa phương, ngược lại, có thể gây ra nhiều hiệu quả
không đáng có như khiếu nại, kiện cáo… Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” còn góp phần tăng cường mối quan hệ giữa các cán bộ, công chức, tạo ra
một hệ thống phối hợp hoạt động nhịp nhàng của bộ máy chính quyền địa phương.
2.4. Danh mục công việc áp dụng cơ chế “một cửa” và quy định về thời gian giải
quyết công việc tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Điện (có phụ lục kèm theo)
Được ban hành theo Quyết định số 3960/QĐ-UBND ngày 05 tháng 12 năm 2011
của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, bao gồm các lĩnh vực:
- Lĩnh vực Hành chính Tư pháp;
- Lĩnh vực Bảo trợ xã hội;
- Lĩnh vực Người có công;
- Lĩnh vực Đất đai;
- Lĩnh vực Xây dựng.
2.5. Quy trình giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính

Quy trình giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính tại UBND thị trấn Vĩnh Điện được
thực hiện theo Quyết định số 1481/QĐ-UBND của ngày 09/5/2012 của UBND tỉnh
Quảng Nam về ban hành Quy định về việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa tại UBND các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
(1) Tiếp nhận hồ sơ
Tổ chức, công dân có yêu cầu giải quyết công việc liên hệ, nộp hồ sơ tại Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả thị trấn. Khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ, công chức làm việc tại
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả có trách nhiệm xem xét yêu cầu, hồ sơ của người nộp
hồ sơ, kiểm tra thành phần hồ sơ theo quy định.
Trường hợp hồ sơ của tổ chức, công dân không thuộc thẩm quyền giải quyết của
UBND thị trấn thì hướng dẫn để tổ chức, công dân đến đúng cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Trường hợp hồ sơ chưa đúng, chưa đầy đủ theo quy định thì hướng dẫn
bằng phiếu hướng dẫn để tổ chức, công dân bổ sung, hoàn chỉnh. Việc hướng dẫn này
19


được thực hiện theo nguyên tắc một lần, cụ thể, đầy đủ, theo đúng quy định đã được
niêm yết công khai. Trường hợp hồ sơ đầy đủ, hợp lệ thì viết giấy biên nhận hồ sơ,
ghi rõ ngày nhận, thời gian giải quyết và ngày hẹn trả kết quả đối với loại hồ sơ có
hẹn thời gian, cập nhật thông tin hồ sơ vào Sổ theo dõi hồ sơ.
- Đối với các loại công việc theo quy định giải quyết trong ngày làm việc thì
không được ghi giấy hẹn mà phải tiếp nhận và giải quyết ngay, sau đó trình lãnh đạo
có thẩm quyền ký, trả kết quả cho tổ chức, công dân; thu phí, lệ phí đối với những
công việc được thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Do đặc thù là cấp xã, số lượng cán bộ chuyên môn ít, mỗi cán bộ lại phải kiêm
nhiệm nhiều việc nên tại UBND thị trấn Vĩnh Điện thì hồ sơ liên quan đến ngành nào
thì công chức chuyên môn của ngành đó trực tiếp tiếp nhận và giải quyết.
(2) Xử lý, giải quyết hồ sơ
Công chức chuyên môn thẩm định, xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo UBND thị trấn ký
và chuyển trả kết quả giải quyết hồ sơ đúng thời gian quy định. Đối với hồ sơ cần xác

minh, kiểm tra thực tế trước khi xử lý thì công chức chuyên môn báo cáo lãnh đạo
UBND thị trấn đề nghị tiến hành xác minh, kiểm tra. Quá trình xác minh, kiểm tra
phải được lập biên bản, ghi rõ thành phần tham gia, thời gian, nội dung và kết quả xác
minh, kiểm tra. Biên bản được lưu trữ theo quy định.
Thẩm quyền ký giải quyết hồ sơ thuộc về thẩm quyền của Chủ tịch và 2 Phó chủ
tịch UBND thị trấn.
(3) Trả kết quả giải quyết hồ sơ
Sau khi giải quyết hồ sơ thì hồ sơ, công chức chuyên môn chuyển đến Văn thư
để đóng dấu, trực tiếp trả kết quả hồ sơ, thủ tục cho công dân theo đúng thời gian đã
hẹn; thu phí, lệ phí (nếu có) và cập nhật vào Sổ theo dõi hồ sơ. Khi trả kết quả giải
quyết hồ sơ, hướng dẫn tổ chức, công dân ghi ngày nhận kết quả và ký nhận vào Sổ
theo dõi hồ sơ.
2.6. Việc thiết lập sổ sách, phiếu, biểu mẫu, mẫu áp dụng trong giải quyết
công việc theo cơ chế “một cửa”
- Phiếu biên nhận hồ sơ;
- Biên lai thu phí, lệ phí;
- Phiếu hẹn trả kết quả hồ sơ;
- Mẫu kết quả giải quyết thủ tục hành chính;
- Sổ theo dõi giải quyết hồ sơ;
20


- Các biểu mẫu khác có liên quan.
2.7. Kết quả thực hiện cơ chế “một cửa” từ năm 2010 đến nay
Từ khi Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thị trấn đi vào hoạt động đến nay đã đạt
được nhiều kết quả đáng mừng. Có thể tóm lược những kết quả đạt được trong quá
trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND thị trấn
Vĩnh Điện như sau:
2.7.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân:
2.7.1.1. Những kết quả đạt được:

- Về số lượng hồ sơ thị trấn đã giải quyết tính từ thời điểm thực hiện Quyết định
số 93/2007/QĐ-TTg đến nay đạt trên 30.000 hồ sơ các loại, trong đó:
STT

Nội dung

Năm 2010

Năm 2011

1

Địa chính - Xây dựng:

228

367

2

Tư pháp - Hộ tịch:

328

373

3

Chứng thực:


8162

11.940

4

Lao động - Thương binh và Xã hội

68

70

8786

12.750

Tổng cộng

(Nguồn: Văn phòng - Thống kê UBND thị trấn Vĩnh Điện)

Trong 9 tháng đầu năm 2012 đã tiếp nhận được 14.102 hồ sơ, trong đó tư pháp hộ tịch 390 trường hợp, chứng thực sao y bản chính 12.700 trường hợp, hồ sơ đất đai
870 trường hợp, LĐTB&XH 139 trường hợp, VHTT 03 trường hợp.
- Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân: Luôn
được UBND thị trấn xác định là một nhiệm vụ quan trọng. Hàng tuần, Chủ tịch
UBND thị trấn đều chủ trì tiếp dân, trực tiếp trả lời nhân dân và giải quyết từng vụ
việc liên quan đến kiến nghị khiếu nại; kịp thời giải quyết những phát sinh vướng mắc
ở địa bàn khu dân cư, công tác hòa giải ở cơ sở cũng phát huy tác dụng.
+ Trong 2 năm 2010 và 2011 đã tiếp nhận và giải quyết 36. Trong đó năm 2010
đã tiếp nhận và giải quyết 22 trường hợp; năm 2011 đã tiếp nhận và giải quyết 16 đơn
phản ánh, kiến nghị; nội dung tập trung chủ yếu liên quan đến chính sách thu hồi đất,

hỗ trợ, bồi thường và tái định cư, tranh chấp quyền sử dụng đất, kiến nghị giải quyết
tình trạng ô nhiễm môi trường và giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác di dời
chợ cũ, ổn định tổ chức hoạt động chợ mới Vĩnh Điện.
21


+ Trong 9 tháng đầu năm 2012: Đã tiếp nhận 22 đơn thư kiến nghị, khiếu nại
thuộc thẩm quyền, đã giải quyết 18 đơn, nội dung chủ yếu liên quan đến lĩnh vực đất
đai, môi trường, bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư.
- Về thời hạn giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại
UBND thị trấn thì đa số thời gian giải quyết hồ sơ được rút ngắn hơn, cơ bản giải
quyết được số lượng lớn hồ sơ của tổ chức, công dân đúng theo giấy hẹn, riêng lĩnh
vực hộ tịch thì được giải quyết sớm hơn, lĩnh vực chứng thực được giải quyết trong
ngày. Bên cạnh đó, UBND thị trấn chỉ đạo việc thực hiện tổ chức làm việc ngày thứ 7
hàng tuần để tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính đã góp phần làm giảm áp
lực công việc cho các ngày bình thường.
- Chất lượng giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cho tổ chức và công dân theo cơ
chế “một cửa” tại UBND thị trấn về cơ bản nhờ tuân thủ thực hiện theo đúng quy
trình tiếp nhận, xử lý và trả kết quả nên việc giải quyết đảm bảo kịp thời, chặt chẽ,
đúng quy định pháp luật và yêu cầu về công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” đã đề ra.
- Về mối quan hệ giữa các ngành trong việc triển khai thực hiện cơ chế “một
cửa”, qua thực tế cho thấy có sự phối hợp tương đối đồng bộ, chặt chẽ, đúng chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao. Trong trường hợp có phát sinh vướng mắc,
nhất là về hồ sơ thủ tục đất đai thì đều có sự trao đổi, tháo gỡ, thống nhất việc áp dụng
giải quyết theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật, không để tồn đọng kéo
dài ảnh hưởng đến việc đi lại nhiều lần cũng như quyền lợi chính đáng của tổ chức và
công dân. Trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của tổ chức, công dân và cán bộ, công
chức được rõ ràng hơn. Cơ chế “một cửa” giúp cho các tổ chức, công dân dễ dàng
giám sát hoạt động của cán bộ, công chức và hoạt động của chính quyền địa phương hơn.

- Đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại Bộ phận một cửa thị trấn, về cơ
bản có đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đảm nhận tốt công việc được
giao, vừa có phẩm chất đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật nên trong quan hệ tiếp xúc
giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính cho tổ chức và công dân đảm bảo quy định. Số
lượng cán bộ, công chức được bố trí tại Bộ phận một cửa thị trấn bao gồm 05 người
có trình độ chuyên môn được đào tạo đều có bằng tốt nghiệp từ trung cấp đến đại học,
trong đó 03 người có trình độ đại học, 01 người có trình độ cao đẳng, 01 người có
trình độ trung cấp.
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc tại Bộ phận một cửa, diện tích phòng
làm việc cần thiết được đảm bảo là 50m 2, thoáng mát, sạch sẽ, các cán bộ, công chức
làm việc tại bộ phận này được trang bị đầy đủ như máy vi tính, tủ đựng hồ sơ, thẻ cán
bộ, công chức, bàn ghế làm việc có ô kính ghi rõ tên từng công chức phụ trách từng
22


lĩnh vực phụ trách cho từng người để nhân dân tiện liên hệ khi đến giải quyết công
việc, điện thoại liên lạc, dụng cụ văn phòng, nơi tổ chức và công dân ngồi chờ...
Riêng về trang phục đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận một cửa do chưa
có quy định cụ thể của cấp trên nên chưa được giải quyết.
Trước Phòng Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ có bảng công khai những quy định
về thủ tục, hồ sơ, giấy tờ, biểu mẫu, phí, lệ phí và thời gian giải quyết cụ thể đối với
từng lĩnh vực để tổ chức, công dân đến liên hệ công việc nắm rõ. Bên cạnh đó còn đặt
hòm thư góp ý để mỗi tổ chức, công dân góp ý về hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận
và trả kết quả cũng như của UBND thị trấn Vĩnh Điện.
Ngoài ra, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn tư vấn, hướng dẫn tận tình các tổ
chức, công dân liên hệ với cơ quan có thẩm quyền giải quyết các trường hợp không
thuộc thẩm quyền của UBND thị trấn.
Bên cạnh việc tổ chức tiếp nhận và trả kết quả cho tổ chức, công dân, Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả thương xuyên rà soát các quy trình thủ tục hành chính liên
quan, kịp thời cập nhật thông tin mới nhất về lĩnh vực mà mình phụ trách.

2.7.1.2 Nguyên nhân:
- Lãnh đạo thị trấn từ Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đều thống
nhất chủ trương, quán triệt tư tưởng và quyết tâm thực hiện cải cách thủ tục hành
chính theo mô hình “một cửa”. Điều đó chứng tỏ các cấp lãnh đạo thị trấn Vĩnh Điện
rất quan tâm chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính.
- Đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là cán bộ, công chức tại Bộ phận Tiếp nhận
và trả kết quả tuy còn nhiều khiếm khuyết nhất định cần khắc phục nhưng nhìn chung
về trình độ, kinh nghiệm công tác thực tiễn ở cơ sở sâu sắc, do đó, đã có những đóng
góp không nhỏ vào thành tích của thị trấn nói chung và cải cách thủ tục hành chính
nói riêng. Hiện nay, họ đang cố gắng nâng cao trình độ để theo kịp yêu cầu đổi mới.
Cường độ và năng suất lao động của các cán bộ, công chức cao, ý thức trách
nhiệm của công chức phụ trách trong từng lĩnh vực cũng nâng cao hơn, tạo ra động
lực thúc đẩy các cán bộ, công chức khác trong cơ quan tích cực hơn trong giải quyết
công việc.
- Khi áp dụng mô hình “một cửa” thì quá trình giải quyết hồ sơ thủ tục theo quy
trình được công khai, các cán bộ, công chức được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thời gian giải quyết và mối quan hệ phối hợp giải quyết, giảm bớt chồng chéo, đùn
đẩy trách nhiệm. Giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính của tổ chức, công dân theo quy
trình khép kín, được quản lý chặt chẽ từ khâu tiếp nhận đến khâu trả kết quả, hạn chế

23


sự tùy tiện trong giải quyết, xử lý công việc. Các thủ tục được công khai, minh bạch,
trách nhiệm của từng cá nhân trong dây chuyền công việc rõ ràng.
- Quy trình giải quyết công việc được tổ chức khoa học, chặt chẽ, giúp lãnh đạo
UBND thị trấn có điều kiện kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức; khuyến
khích sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ, công chức để hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Việc giải quyết các yêu câu của tổ chức, công dân đều được thông qua một đầu
mối là Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, có phiếu biên nhận hồ sơ, có sổ ghi chép và

ngày trả kết quả tạo sự an tâm, tin tưởng cho người dân, góp phần làm giảm số lượng
đơn khiếu nại liên quan đến công tác giải quyết hồ sơ của tổ chức, công dân do cơ
quan hành chính thực hiện.
- Việc niêm yết công khai minh bạch các thủ tục hành chính cũng như các loại
phí, lệ phí đã tạo điều kiện cho nhân dân nắm bắt, hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình, đồng thời thông qua đó giám sát được việc thực thi công vụ của cán bộ, công
chức trong quá trình giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo quy định.
2.7.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân:
2.7.2.1. Những hạn chế, tồn tại:
Trong quá trình triển khai hoạt động thì công tác cải cách thủ tục hành chính
theo cơ chế “một cửa” vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể như sau:
- Thời gian xử lý công việc từ khi tiếp nhận đến khi có kết quả vẫn còn tùy tiện,
kéo dài. Tổ chức, công dân khi đến Bộ phận “một cửa” nộp đầy đủ hồ sơ hợp lệ và
nhận phiếu hẹn trả cụ thể nhưng trên thực tế còn không ít trường hợp kết quả được
giao không đúng hẹn, thậm chí sai hẹn gấp đôi thời gian quy định, gây phiền hà cho
nhân dân. Lĩnh vực có nhiều hồ sơ bị tồn đọng, gây bức xúc nhất cho người dân là
lĩnh vực đất đai. Ở lĩnh vực này, nhu cầu của người dân là rất lớn nhưng chỉ có một
công chức vừa tiếp nhận, hướng dẫn, xử lý và trả kết quả nên tình trạng ùn tắc trong
giải quyết hồ sơ là phổ biến.
- Phòng “một cửa” tuy đã được sửa chữa, nâng cấp nhưng do điều kiện khách
quan nên công chức phụ trách lĩnh vực Địa chính - Xây dựng của thị trấn hiện nay
không bố trí tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thị trấn mà làm việc tại phòng Địa
chính - Xây dựng của thị trấn nên đôi lúc gây phiền hà cho công dân đến liên hệ công việc.
- Qua hơn ba năm thực hiện ngày làm việc thứ bảy nhưng việc giải quyết hồ sơ
hành chính của tổ chức công dân chưa thực sự mang lại hiệu quả. Tỉ lệ người dân đến
làm việc trong ngày thứ 7 là rất ít, và nhu cầu của người dân cũng không được giải
quyết vì các công chức chủ yếu là nhận và trả hồ sơ chứ không giải quyết kịp trong

24



ngày. Trong khi đó, chi phí cho ngày làm việc thứ 7 lại hơn các ngày trong tuần nên
gây tốn kém.
2.7.2.2. Nguyên nhân:
- Đây là lần đầu tiên UBND thị trấn Vĩnh Điện tiến hành triển khai mô hình
“một cửa” tại địa phương nên chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, mặc dù có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt nhưng vẫn không tránh khỏi những bỡ ngỡ và còn lúng
túng trong việc giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình triển khai.
- Tư duy đổi mới còn chậm và tâm lý của một số cán bộ, công chức nhận thức về
công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” còn hời hợt, ngại đổi mới.
Trình độ, năng lực một số cán bộ, công chức còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, ít năng động, tâm lý ỷ lại, thụ động, chưa tích cực nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp về cải cách thủ tục hành chính. Một số cán bộ, công chức còn chưa nhận
thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” trong việc quản lý hành chính nhà nước.
- Hiện nay vẫn chưa quy định cụ thể về cơ chế báo cáo trực tiếp kết quả thực
hiện nhiệm vụ của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả với lãnh đạo UBND thị trấn nên
hạn chế phần nào sự phản hồi thông tin cần thiết trong quá trình hoạt động của bộ
phận này.
- Đối với thị trấn, công chức công tác tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đồng
thời cũng là công chức chuyên môn trực thuộc UBND thị trấn nên vừa thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn ngành, vừa thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận và trả kết quả, do vậy
thời gian thường trực để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả đôi lúc không ổn định nên ảnh
hưởng đến kết quả làm việc.
- Công tác phối hợp giữa các cán bộ, công chức, giữa các ngành trong việc thực
hiện cơ chế “một cửa” có mặt vẫn còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời, còn nặng
về nguyên tắc quản lý chuyên ngành, thiếu sự linh hoạt dẫn đến một số trường hợp xử
lý còn chậm trễ, kéo dài.
- Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện cơ chế “một cửa” chưa được chú trọng,
còn mang tính hình thức, chủ yếu là thực hiện kiểm tra, giám sát trên văn bản, giấy tờ,

báo cáo.. còn việc kiểm tra đột xuất thực tế hầu như ít nên tính răn đe chưa cao, việc
chỉ đạo, góp ý xây dựng chấn chỉnh những mặt hạn chế, tồn tại cũng như xử lý những
vấn đề vướng mắc phát sinh và đề xuất kiến nghị có liên quan trong thời gian qua vẫn
chưa được tổ chức thực hiện nghiêm túc.

25


×