Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận " Tác động của sự đổi mới tư duy đường lối đối ngoại đến chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN giai đoạn 1991- 1995 " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.63 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

----------

TIỂU LUẬN
Tác động của sự đổi mới tư duy đường lối đối
ngoại đến chính sách đối ngoại của Việt Nam
với ASEAN giai đoạn 1991- 1995.

1


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................... 2
Lý luận chung về đổi mới tư duy đối ngoại.......................................................................................................... 3
Đổi mới tư duy đối ngoại là gì?........................................................................................................................... 3
III. Tác động của đổi mới tư duy đối ngoại đến chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN giai đoạn 19911995.................................................................................................................................................................... 9
1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với ASEAN........................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................. 17

LỜI MỞ ĐẦU
Tại Đại hội VII của Đảng, lời tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển” 1 đã cho thấy hình ảnh một nước Việt Nam đổi
mới; là một nhân tố tích cực của hồ bình, hợp tác, phát triển; đang khôi phục và phát huy được sự tin
cậy, đồng tình và ủng hộ mà nhân dân thế giới và nhiều chính phủ đã từng dành cho đất nước và nhân
dân ta trong những năm kháng chiến.
Với phương châm ấy, hội nhập quốc tế vừa là một nội dung, vừa là điều kiện không thể thiếu của
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Năm 1995, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức khu vực
ASEAN đã đánh dấu bước tiến mới trong tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Tuy nhiên, thành cơng đó


1

: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.147
2


không phải ngày một ngày hai mà đạt được. Đây là kết quả của cả quá trình nỗ lực, phấn đấu, kết quả
của việc ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại một cách đúng đắn, có hiệu quả.
Năm 1991 là năm đánh dấu rất nhiều sự kiện lớn trên thế giới, trong khu vực và ở Việt Nam. Liên
Bang Xơ-viết tan rã, chính thức đánh dấu chấm hết cho Chiến tranh lạnh cũng như thế hai cực đối đầu
Đơng Tây, cho thấy sự thối trào của chủ nghĩa xã hội và sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản. Cục diện
thế giới biến đổi – “Thế giới đang khẩn trương đi vào một cuộc cờ mới. Bàn cờ đang được sắp đặt lại” 2
Trong khu vực, chấm dứt những căng thẳng, đối đầu, thời kỳ hợp tác trong quan hệ Việt Nam –
ASEAN được mở ra bằng cột mốc là việc ký kết Hiệp định Pari về Campuchia tháng 10/1991. Trong
nước diễn ra sự kiện chính trị quan trọng: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, hoạch định những
phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995 nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với một năm có nhiều biến chuyển như vậy, cơng cuộc đổi mới mà Đảng ta khởi xướng từ năm
1986 đã bước sang giai đoạn tiếp theo, trong đó có việc đối mới đường lối chiến lược đối ngoại cho
phù hợp.
Đổi mới tư duy đối ngoại chính là nền tảng, là cơ sở cho việc hoạch định chính sách đối ngoại.
Nhận thấy được tầm quan trọng lớn lao của vấn đề này, đặc biệt là ý nghĩa quyết định của nó đối với
những bước tiến mà Việt Nam đạt được trong quan hệ với ASEAN, trong khn khổ một bài tiểu luận,
nhóm chúng tôi chọn đề tài: “Tác động của đổi mới tư duy đối ngoại đến chính sách đối ngoại của
Việt Nam với ASEAN giai đoạn 1991-1995”. Thông qua bài tiểu luận, chúng tơi cũng mong muốn
đem đến một cái nhìn sâu hơn và hiểu được những nỗ lực của Việt Nam để gia nhập thành công
ASEAN trong chặng đường 1991-1995.

Lý luận chung về đổi mới tư duy đối ngoại
Đổi mới tư duy đối ngoại là gì?

Tác giả Vũ Dương Huân, trong bài viết “Về vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam” đã
đưa ra một định nghĩa như sau: “Đổi mới tư duy đối ngoại là đổi mới nhận thức, quan niệm,
cách tiếp cận, cách đánh giá về tình hình thế giới và quan hệ Quốc tế, trước hết là các vấn đề
thời đại như nội dung, tính chất, đặc điểm, vấn đề chiến tranh và hịa bình, các lực lượng

2

: Trần Quang Cơ: Cục diện thế giới mới và vận nước
3


Cách mạng, chủ nghĩa tư bản và hiện đại và các xu thế phát triển của thế giới hiện nay”3.
Đổi mới về tư duy đối ngoại, mặt khác, cũng là thay đổi cách thức, cách tiếp cận trong việc
hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại, xác định mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, phương châm
hoạt động đối ngoại cũng như những hướng ưu tiên.
Trong đổi mới về đối ngoại, đổi mới về tư duy lý luận đóng vai trị nền tảng, làm cơ sở cho đổi
mới đường lối chính sách, cũng như xác định tư tưởng chỉ đạo, phương châm triển khai đường
lối, chính sách đối ngoại và ngoại giao.
1. Sơ lược về quá trình Đổi mới tư duy đối ngoại
Đổi mới tư duy đối ngoại là một quá trình liên tục.Quá trình này đã được manh nha từ trước Đại
hội VI (12/1986) đến Đại hội VI, VII và kéo dài cho đến tận ngày nay - Đại hội XI.
Trước Đại hội VI, Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị với tiêu đề: “Tình hình thế giới và chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” đã đặt bước đi đầu tiên của việc đổi mới tư duy trong hoạt
động đối ngoại.
Các Đại hội VI, VII và VIII là những bước tiến vĩ đại trong công cuộc đổi mới tư duy đối ngoại.
Bằng việc đánh giá đúng đắn các đặc điểm, xu thế lớn của thế giới; nhìn nhận chuẩn xác tình
hình, bối cảnh quốc tế (trật tự hai cực tan rã, phe XHCN lâm vào khủng hoảng, xu thế tồn cầu
hóa, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ...), các Đại hội Đảng đã từng bước đưa ra
những quan điểm đối ngoại hợp lí, kịp thời. Từ “giữ vững hịa bình, phát triển kinh tế” 4 đển
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì

hịa bình, độc lập và phát triển”5.
Chính nhờ sự sáng suốt trong chỉ đạo đường lối đối ngoại đúng đắn. Đất nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, thêm bạn bớt thù, kinh tế được cải thiện và trên đà đi lên. Trong khu vực
Đông Dương, mối quan hệ anh em khăng khít Việt Nam - Lào - Campuchia đã càng thêm bền
chặt, vấn đề Campuchia đã có được một giải pháp chính trị êm đẹp, quan hệ với Trung Quốc đã
được bình thường hóa và nhất là quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN được nâng lên
một tầng cao mới. Việt Nam đã gia nhập ASEAN và đặt mối quan hệ với các nước láng giềng
trong khu vực Đông Nam Á lên ưu tiên hàng đầu.
Đại hội IX và X của Đảng lại đánh dấu thêm một cộc mốc trong tư duy đối ngoại đổi mới. Đó là
chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” - thể hiện một tầm nhìn mới trong tư
duy lý luận, gạt bỏ mọi định kiến sai lầm trước đây
Sự nghiệp Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được “những thành tựu
lớn có ý nghĩa lịch sử”6, và sẽ cịn gặt hái được nhiều thành cơng hơn nữa trong tương lai, cả về
kinh tế-xã hội đến chính trị và trong cả tư duy đối ngoại.

3

Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 1(68), Tháng 3/2007, TR.9-19
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội VI, (Hà Nội: NXB Sự thật 1987), TR.99
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội VIII, (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia 1996), TR.76
6
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH X (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia 2006), TR.19
4

4


2. Nội dung đổi mới tư duy đối ngoại
3.1 Đổi mới nhận thức về thế giới

Nhìn nhận, đánh giá một cách khoa học, khách quan tình hình thế giới và quan hệ quốc tế là một
yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hoạch định đường lối chính sách đối ngoại.Trong bối cảnh
CNXH đang bị khủng hoảng nghiêm trọng và đi vào thối trào, Đảng ta đã có nhận thức mới là
thắng lợi của CNXH trên phạm vi thế giới không phải là khả năng trực tiếp, dễ dàng, thời kì q
độ sẽ kéo dài và gặp nhiều khó khăn.
Đánh giá tình hình, đi sâu vào phân tích, Đảng ta cũng đã rút ra những bài học kinh nghiệm từ
sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu, Mông Cổ. Đó là căn bệnh chủ quan duy ý chí; coi
thường quy luật khách quan; cơ chế quan liêu, bao cấp còn nhiều bất cập; thiếu dân chủ, chậm
áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ...
Từ sau khi trật tự hai cực sụp đổ, mâu thuẫn thế giới cũng đã có nhiều thay đổi. Nắm bắt kịp
thời đại, Đảng ta cũng đã có những cải tiến trong cách nhìn nhận những mâu thuẫn cơ bản: đó là
mâu thuẫn giữa phe XHCN với phe Đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn trong lòng các nước tư
bản và cả mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển.
Thêm vào đó, Đảng ta cũng đã có những nhận định mới về Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa tư bản
và quan hệ giữa chúng với nhau, những nhận thức mới về các xu thế phát triển của thế giới.Đó
là những nhận định khách quan, khoa học, giúp nhìn nhận và đánh giá bản chất chế độ chính xác
hơn, tạo điều kiện tốt cho cơng cuộc hoạch định chính sách đối ngoại.
3.2 Đổi mới quan điểm về an ninh và phát triển, về lợi ích dân tộc - giai cấp, tập hợp lực
lượng...
Về an ninh - phát triển, an ninh của mỗi quốc gia phải dựa vào sự phát triển kinh tế, khoa học
công nghệ. Sức mạnh quân sự không cịn là khía cạnh chủ chốt.Có ba nhân tố liên quan đến
độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia, đó là sức mạnh kinh tế, lực lượng quân sự và quan
hệ đối ngoại. Ba nhân tố này có quan hệ biện chứng với nhau.
Về vấn đề lợi ích dân tộc - giai cấp, ta quyết tâm xây dựng thành cơng CNXH, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, ra sức phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước
mạnh...đồng thời luôn phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới.
Về vấn đề đồng minh và tập hợp lực lượng, đối tượng, đối tác. Ta sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy trong cộng đồng quốc tế; thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa trong hoạt động
đối ngoại. Chủ trương này phù hợp với tình hình thế giới sau khi Liên Xơ sụp đổ, khối XHCN
Đông Âu tan rã, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học cơng nghệ, của xu thế tồn cầu hóa... Ta

mở rộng quan hệ, khơng cịn bó buộc dựa trên ý thức hệ như trước kia.
3.3 Đổi mới nhận thức về bản thân đường lối, chính sách, tư tưởng chủ đạo, phương châm
chính sách đối ngoại.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã từng bước đánh giá, điều chỉnh chủ
trương, mục tiêu chiến lược sao cho lợi ích quốc gia được đặt lên trên hết. Qua năm tháng, chính
sách đối ngoại của ta dần được định hình rõ, phù hợp với xu thế thời đại, cùng đi lên với sự phát
triển chung của khu vực và thế giới. Tư tưởng chỉ đạo trong chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong thời kì Đổi mới là “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước
5


ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có
quan hệ”7.
I. Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN (1991-1995)
Cở sở của đường lối chính sách nào cũng phải bắt nguồn từ cơ sở điều kiện thực tiễn. Mỗi thời
đại, mỗi giai đoạn lại đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải đưa ra các đường lối thích hợp với tình hình
diễn biến.
1.Tình hình thế giới và khu vực:
1.1 Những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90, thế giới đã trải qua vô vàn những biến động to
lớn trên bàn cờ quốc tế.
Tháng 12 năm 1989, lãnh đạo cấp cao Xô – Mỹ tuyên bố chấm dứt tình trạng thái chiến tranh lạnh kéo
dài hơn 4 thập kỉ. Một năm sau, Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu lần lượt
sụp đổ, trật tự thế giới hai cực kết thúc.
Nguy cơ chiến tranh thế giới có tính hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố lại gia tăng ở nhiều khu vực. Tuy nhiên hịa bình, hợp tác và phát
triển trở thành xu thế chủ đạo.
Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh địi hỏi có sự hợp tác của tất cả các nước để giải quyết.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ tiếp tục phát triển như vũ bão đã tạo ra những thay đổi lớn cả
về lượng và chất đối với mọi mặt của đời sống xã hội loài người, làm tăng nhanh xu hướng tồn cầu

hóa, khu vực hóa.
Thị trường thế giới trở thành một khối thống nhất và liên kết, hội nhập kinh tế trở thành xu thế tất yếu.
Các nước đều đặt ưu tiên cao cho phát triển kinh tế vì kinh tế trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định
trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Đồng thời các nước đều đẩy mạnh đa dạng hóa quan hệ
quốc tế nhằm tạo vị thế thuận lợi cho an ninh và phát triển của mình. Do đó, tập hợp lực lượng xuất
phát từ lợi ích quốc gia và nó diễn ra một cách cơ động, linh hoạt chứ không theo ý thức hệ như trước
kia nữa.
1.2.

Đối với khu vực Đơng Nam Á, tình hình cũng có những chuyển
biến thuận lợi.
Hiệp định Pari về Campuchia được kí ngày 23/10/1991, Campuchia thành lập Chính phủ liên hiệp và
bầu ra Quốc hội mới. Mỹ rút quân khỏi căn cứ không quân ở Philippin. Lần đầu tiên trong lịch sử từ
7

Văn kiện Hội nghị TW 3, Hà Nội tháng 6/1992.

6


sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Đông Nam Á khơng cịn căn cứ qn sự và qn đội nước ngồi, khơng
cịn đối đầu. Tháng 1/1992 diễn ra một sự kiện quan trọng, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 họp tại
Singapore quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong thời hạn 15 năm
(l/1993 - l/2008). Lúc này, các nước ASEAN không những chấm dứt chia rẽ mà còn nhận rõ và đánh
giá cao vai trị quan trọng của các nước Đơng Dương đối với hịa bình, an ninh và phát triển của khu
vực.Các nước trong khu vực có điều kiện để hội nhập, hợp tác cùng nhau phấn đấu cho một Đông Nam
Á hịa bình, độc lập, ổn định và phát triển, tiến tới xây dựng tổ chức ASEAN ngày một lớn mạnh và
khu vực khơng có vũ khí hạt nhân. Một thuận lợi nữa là Đông Nam Á nằm trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương năng động, phát triển với tốc độ cao hơn các khu vực khác. Tuy nhiên, trong khu
vực tồn tại nhiều nhân tố bất trắc tiềm ẩn dễ gây mất ổn định, như phát triển không bền vững, chủ

nghĩa ly khai, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới đất liền, hải đảo, đặc biệt là tranh chấp
biển Đơng. Chính vì thế, nhu cầu hợp tác cùng phát triển về kinh tế và an ninh càng trở nên cấp thiết và
quan trọng hơn.
Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Đảng ta đã chỉ rõ: “ Tình hình thế
giới và khu vực nói trên đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra
nhiều thuận lợi mới rất quan trọng, đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức nghiêm trọng
đối với nước ta.” 8
2. Tình hình trong nước:
Thực hiện đường lối Đổi mới từ những năm 1986, sau 5 năm, trên lĩnh vực kinh tế, nước ta đã
đạt được những tiến bộ rõ rệt, từ chỗ thiếu đói triền miên, đến năm 1989, chúng ta đã bắt đầu
xuất khẩu gạo. Lạm phát được kiềm chế. Đời sống nhân dân ổn định hơn và được cải thiện.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững, lòng tin được củng cố.
Trên mặt trận đối ngoại, chúng ta từng bước thực hiện thắng lợi chủ trương giữ vững hịa bình,
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để tập trung sức xây dựng đất nước. Chúng ta đã
“kịp thời đổi mới quan hệ với Liên Xơ và các nước ĐƠng Âu và cả với hai nước láng giềng Lào
và Campuchia, kiên trì thúc đẩy q trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mở rộng
quan hệ nhiều mặt với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ và nhiều nước độc lập, từng bước thúc
đẩy quan hệ với Mỹ.” Đặc biệt trong giai đoạn này phải kể tới việc ta đẩy mạnh quan hệ với các
nước ASEAN và quyết định tiến tới gia nhập tổ chức khu vực này.

8

: Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
7


Với đường lối đối ngoại "đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế" cùng những thắng lợi ta đã
đạt được trong công cuộc đổi mới , các nước thành viên cũ của ASEAN đã chủ động đặt vấn đề có thể
sớm kết nạp Việt Nam vào ASEAN nếu ta tự thấy đã sẵn sàng.
Tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN (AMM) họp ở Bangkok tháng 7/1994 ta chính thức trả lời "Việt

Nam sẵn sàng gia nhập sớm" và thông qua nghị quyết tiến hành, chuẩn bị các thủ tục cần thiết theo quy
trình. 9
Và ngày 28/7/1995, lễ trọng thể kết nạp Việt Nam vào ASEAN đã được tổ chức tại Bandar Seri
Begawan, thủ đô của Brunei trong dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28. ASEAN trở
thành ASEAN-7. Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đơng Nam Á chia rẽ
thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất cả các nước trong khu vực đoàn kết
với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác với nhau để mỗi nước phát triển và cả khu vực cùng phát
triển, mở ra triển vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao gồm
tất cả các nước trong khu vực.
Những thành tựu đối ngoại đã tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi một bước âm mưu bao vây, cô lập đối với nước ta, tăng thêm
bầu bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
3. Nhận thức của các nhà lãnh đạo:
Từ sau khi trật tự hai cực sụp đổ, mâu thuẫn thế giới cũng đã có nhiều thay đổi. Nắm bắt kịp
thời đại, Đảng ta cũng đã có những cải tiến trong cách nhìn nhận những mâu thuẫn cơ bản.
Về mâu thuẫn giữa phe XHCN với phe Đế quốc chủ nghĩa, Cương lĩnh 1991 đã xác định lại rằng
đó là “mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB”, và mâu thuẫn này “đang diễn ra gay gắt”. Điều này
phù hợp với trật tự khơng cịn hai phe của thế giới mới cũng như phản ánh đúng sự đấu tranh
giữa hai xu hướng: TBCN và XHCN ở nhiều nước trên thế giới.
Về mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản, Đảng ta cũng có những nhận định mới. “Mâu thuẫn
cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc”. 10Ngoài ra, trong lịng
chế độ tư bản cịn có “mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa
các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục
phát triển”.
9

: http: //daidoanket.vn/printPreview.aspx?ID=15155

10


: Vũ Dương Huân: “ Về vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại”.
8


Một mâu thuẫn nữa cũng được đánh giá lại là “mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và
các nước đang phát triển” và mâu thuẫn đó cũng “ngày càng tăng lên”.11
Thêm vào đó, Đảng ta cũng đã có những nhận định mới về Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa tư bản
và quan hệ giữa chúng với nhau, những nhận thức mới về các xu thế phát triển của thế giới. Đó
là những nhận định khách quan, khoa học, giúp nhìn nhận và đánh giá bản chất chế độ chính xác
hơn, tạo điều kiện tốt cho cơng cuộc hoạch định chính sách đối ngoại.
Trước tình hình quốc tế và trong nước có những chuyển biến đáng kể như vậy, các nhà lãnh đạo
đạo ý thức được rằng xu thế hội nhập, tồn cầu hóa, khu vực hóa là 1 xu hướng không thể đảo
ngược và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài qui luật phát triển chung ấy của nhân loại. Và có
thể nói, quyết định gia nhập ASEAN là 1 quyết sách đúng dắn có ý nghĩa lịch sử quan trọng.
Về vấn đề ASEAN, Đảng ta đã nhận thức rõ :Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ
trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong khu vực nhìn nhận
về vai trị của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác, “ Việt Nam cần
ASEAN và ASEAN cũng cần Việt Nam”.12
Tuy vậy, gia nhập ASEAN ta cũng có một số khó khăn, thách thức ban đầu nhất định, như sự đồng
thuận xã hội chưa cao, trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các thành viên khác, do nền kinh tế
của ta có xuất phát điểm thấp, lại bị tàn phá nặng nề qua 30 năm chiến tranh liên tục, tiếp đó là cuộc
khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng kéo dài; đội ngũ cán bộ của ta còn thiếu kiến thức và kinh
nghiệm hoạt động trong các tổ chức đa phương và trong hội nhập.

III.

Tác động của đổi mới tư duy đối ngoại đến chính sách đối ngoại
của Việt Nam với ASEAN giai đoạn 1991-1995
1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với ASEAN


Dựa trên cơ sở là đặc điểm của tình hình thế giới cũng như hoàn cảnh trong nước những năm đầu
thập kỉ 90, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra nhiệm vụ của công tác đối ngoại, đó là: “giữ
vững hồ bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.13
11

: Vũ Dương Huân: “ Về vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại”.

12

: />
13

: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.147
9


Trước nhiệm vụ đối ngoại đó, chính sách đối ngoại đối với ASEAN cũng đã được Đảng và Nhà
nước ta đã hoạch định rõ ràng tại Đại hội VII: phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu
Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng Nam Á hồ bình, hữu nghị và hợp tác. Cụ thể, Ngày
15/10/1993, Tổng bí thư Đỗ Mười đã nêu chính sách bốn điểm của Đảng ta:
1. Chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá.
2. Phát triển quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN.
3. Sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm bảo hoà bình, an ninh, xây dựng khu vực Đơng Nam Á
thành khu vực hồ bình, hợp tác, phát triển, khơng có căn cứ qn sự nước ngồi, khơng có vũ
khí hạt nhân.
4. Thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp ở biển Đông.
2.


Tác động của đổi mới tư duy đối ngoại đến chính sách của Việt Nam

Từ những chính sách đối ngoại với ASEAN mà Đảng đã đề ra, có thể thấy đây là bằng chứng cho
sự đổi mới nhận thức về bản thân đường lối, chính sách, tư tưởng chủ đạo; sự đổi mới tư duy về chính
sách tập hợp lực lượng và đổi mới quan điểm về các cặp quan hệ: an ninh-phát triển; Lợi ích dân tộcnghĩa vụ quốc tế, hợp tác-đấu tranh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường – đa dạng hố, đa phương hố. 14
Để có thể nhìn nhận một cách rõ ràng sự thay đổi về tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn này so với những giai đoạn trước, dưới đây xin nêu qua về chính sách bốn điểm của
Việt Nam với các nước Đông Nam Á ngày 5/7/1976 bao gồm:
1.
2.
3.
4.

Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hồ bình;
Khơng để lãnh thổ nước mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can
thiệp vào các nước khác trong khu vực;
Thiết lập quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt, giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua thương
lượng;
Phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi
nước, vì lợi ích dân tộc, hồ bình, trung lập thật sự ở Đơng Nam Á, góp phần vào sự nghiệp
hồ bình trên thế giới.

Như vậy, qua thời gian, đường lối, chính sách với ASEAN của Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt
thể hiện sự thay đổi trong tư duy.
Thứ nhất, có sự đổi mới tư duy về an ninh và phát triển: trước chú trọng về an ninh, trong chính
sách bốn điểm năm 1976 thì những chính sách về an ninh được đặt lên hàng đầu – vấn đề về độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng xâm lược... được đặt lên trước vấn đề phát triển, hợp tác. Với bối
cảnh mới, Bộ Chính trị đã khẳng định: “Cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại

ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hoà bình và
phát triển kinh tế”. Với phương châm đó, chính sách bốn điểm năm 1993 của ta với ASEAN đã đảo trật
14

: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII
10


tự của những điều khoản về an ninh từ trên xuống dưới, chú trọng những điều khoản về phát triển. Vấn
đề đa phương hoá quan hệ, hợp tác, gia nhập khu vực được đặt lên trước vấn đề về an ninh, tranh chấp
lãnh thổ… Điều này không những phản ánh quan điểm mới của Đảng trong việc đặt mục tiêu phát triển
đất nước lên hàng đầu mà còn cho thấy cách nhìn nhận mới về sức mạnh tổng hợp của quốc gia mà
nghị quyết 13 Bộ Chính trị tháng 5/1988 trước đó đã khẳng định: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền
quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta càng có nhiều khả
năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”.15
Thứ hai, đổi mới tư duy về vấn đề tập hợp lực lượng, đây là vấn đề lớn, có vị trí quan trọng trong
chính sách đối ngoại quốc gia. So với đường lối đối ngoại trước đây, khi nhìn vào những chính sách
lớn, “chúng ta vẫn còn nặng tư tưởng tập hợp lực lượng trên cơ sở ý thức hệ” 16 thì từ sau đổi mới ta
chủ trương thực hiện “chính sách thêm bạn, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ”. 17 Đối với các
nước ASEAN, giai đoạn trước đổi mới, cái nhìn của Việt Nam vẫn cịn đầy nghi kị. Ta ln cho họ là
khối SEATO trá hình, các nước ASEAN là tay sai của Mỹ và bảo vệ lợi ích cho Mỹ. Do đó mà vấn đề
gia nhập ASEAN khơng hề được đề cập đến trong chính sách của ta. Từ sau đổi mới, ta chủ động bày
tỏ quan điểm: sẵn sàng gia nhập ASEAN, sẵn sàng tham gia một tổ chức đa phương ở khu vực, xoá bỏ
rào cản về vấn đề ý thức hệ, sự khác biệt về chế độ chính trị giữa ta và các quốc gia ASEAN cũng như
những bất đồng trong quá khứ. Đó cũng chính là sự thể hiện của phương châm “thêm bạn bớt thù” với
tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển” 18 của ta .

Thứ ba, đổi mới nhận thức về bản thân đường lối, chính sách, tư tưởng chủ đạo, phương châm
chính sách đối ngoại. Với tư tưởng chỉ đạo trong chính sách đối ngoại đã nêu tại Hội nghị trung ương 3

(6/1992) là “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng
tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hồn cảnh cụ thế của nước ta cũng như diễn
biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ”, Đảng ta đã
đổi mới nhận thức về hướng ưu tiên đối ngoại. Trước thời kì đổi mới, ta ưu tiên phát triển quan hệ với
các nước có cùng chế độ chính trị, “trước hết, ra sức củng cố và tăng cường tình đồn kết chiến đấu và
quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em”.19 Sang giai đoạn mới, với
nhận thức mới về thời đại, hướng ưu tiên đối ngoại của ta là các nước láng giềng - “Việc giải quyết các
vấn đề biên giới, lãnh thổ đảm bảo độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia; ngoại giao kinh tế, văn hoá,
ngoại giao đa phương là những trọng tâm trong hoạt động đối ngoại của chúng ta”.20 Chính vì thế,
15

: Vũ Dương Hn: Vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam

16

: Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13/BCT, ngày 20/05/1988

17

: Vũ Dương Huân: Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), tr.67

18

: Vũ Dương Huân: Vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam

19

: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII, tr.88

20


: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, tr.178
11


trong chính sách bốn điểm mà ta nêu ra năm 1993, có điều khoản: sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm
bảo hồ bình, an ninh, xây dựng khu vực Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình… và điều khoản:
Thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp biển Đơng.
Tóm lại, từ chỗ đánh giá đúng đắn những diễn biến mới trên thế giới và khu vực, nhận thức đúng
đắn tình hình quốc tế, ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách đối ngoại với ASEAN. Cùng
với việc đưa mục tiêu phát triển lên hàng đầu, Việt Nam đã nhìn nhận sáng suốt vị trí, vai trị của quan
hệ với các nước láng giềng, các nước cùng khu vực. Phát triển quan hệ láng giềng, với các nước cùng
khu vực trở thành nhiệm vụ chiến lược, bởi vì quan hệ này ln ln trực tiếp ảnh hưởng đến hồ bình,
an ninh và phát triển của nước ta.
IV. Triển khai chính sách đối ngoại với ASEAN giai đoạn 1991-1995
Trước thời kì đổi mới, do sự thiếu nhạy bén, “nhìn nhận tình hình một cách bất biến và đánh giá bạn
thù một cách cứng nhắc quan lăng kính của hai cuộc chiến tranh ác liệt”,21 ta đã khơng đưa ra được
chính sách khơn khéo, mềm dẻo với các nước ASEAN từ đó quá trình triển khai chính sách đã dẫn đến
những bất lợi lớn trong quan hệ với ASEAN.
Kể từ khi Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới tồn diện
với chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, ta đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại nhằm
triển khai chính sách, nhất là đã dần dần gỡ bỏ được trở ngại lớn nhất trong quan hệ Việt Nam –
ASEAN là vấn đề Campuchia. Cùng thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc đem lại sự hoà dịu giữa các
siêu cường trên thế giới và ở Đông Nam Á, “việc ký kết Hiệp định hồ bình Pari về Campuchia tháng
10/1991 đã đánh dấu sự chấm dứt của “thời kỳ Campuchia” trong quan hệ Việt Nam – ASEAN, mở ra
một thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác của hai bên”.22 Giai đoạn 1991-1995, ta đã kịp thời triển khai các
chính sách đối ngoại đã đề ra đối với các nước ASEAN trong quan hệ đa phương cũng như quan hệ
song phương.
1. Trong quan hệ đa phương
Coi ASEAN là một đối tượng quan trọng của chính sách đối ngoại, sau đổi mới mà đặc biệt là từ

năm 1991, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động ngoại giao với tổ chức này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Công sản Việt Nam lần thứ ba khoá VII (tháng 6/1992) đã
đề cập việc “ Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại với ASEAN, tích cực
nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tương lai” và ngày 11/7/1992, tại Hội nghị Lần thứ 25
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN (AMM), Việt Nam đã chính thức tham gia hiệp ước Bali, trở
thành quan sát viên của ASEAN.
Với tư cách quan sát viên của ASEAN, Việt Nam cũng đã được mời tham dự các cuộc họp hằng
năm hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Năm 1993, ta tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN – ARF
21

: Trịnh Xuân Lãng: Một vài suy nghĩ về chính sách của ta đối với các nước ASEAN và đối với Mỹ từ năm 1975 đến năm
1979
22

: Vũ Dương Huân: Vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam
12


với tư cách là một trong những thành viên sáng lập để bàn về các vấn đề chính trị và an ninh của khu
vực. Đồng thời trong năm này, ASEAN đã mời Việt Nam tham gia các chương trình và dự án hợp tác
ASEAN trên năm lĩnh vực: Khoa học cơng nghệ, mơi trường, y tế, văn hố thơng tin, phát triển xã hội,
cùng một số dự án hợp tác chun ngành: thủ cơng, phịng ngừa ma t (cho thanh niên)…
Từ tháng 2 năm 1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp”
và sau một quá trình cải thiện, tăng cường quan hệ với tổ chức này, ngày 28/7/1995, Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên đầy đủ thứ bảy của ASEAN.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một quyết định chiến lược, đúng đắn và kịp thời, phù hợp với
xu thế khu vực hố, quốc tế hố và với lợi ích của Việt Nam. Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần
quan trọng vào việc củng cố xu thế hồ bình hợp tác ở khu vực, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là hồ bình và phát triển ở Việt Nam.
Gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, có quan hệ đối ngoại

hoặc hiệp thương với hầu hết các nước lớn, các trung tâm chính trị - kính tế trên thế giới, có điều kiện
để mở rộng quan hệ với các nước qua tham gia các hiệp định hợp tác của ASEAN với các nước đối
thoại như EU, Canada, Austrualia...cũng như hàng trăm dự án hợp tác cụ thể được các bên đối thoại
của ASEAN tài trợ. ASEAN cũng ủng hộ Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký hiệp định
khung hợp tác với Liên minh Châu Âu và tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực lớn hơn như
APEC, WTO...
2. Trong quan hệ song phương
Tháng 10/1991 đến giữa năm 1992, Việt Nam đã cử đoàn cấp cao đi thăm các nước ASEAN. Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã lần lượt đi thăm tất cả các nước ASEAN để thúc đẩy quan hệ song phương, mở
ra giai đoạn mơi trong quan hệ với các nước ở khu vực.(Inđônêxia, Xinhgapo, Thái Lan: tháng
12/1991, Malaxia: 1992, Philíppin và Bruynây: tháng 2/1992).23 Kể từ đó, quan hệ Việt Nam với từng
nước ASEAN đã phát triển nhanh chóng. Các chuyến viếng thăm diễn ra dồn dập ở các cấp. Các nước
ASEAN đã bỏ những hạn chế về thương mại và đầu tư với Việt Nam, từng bước phát triển quan hệ với
Việt Nam. Chỉ trong hai năm, Việt Nam đã kí với các nước này gần 40 hiệp định các loại ( Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế, khoa học – kỹ thuật, Hiệp định về bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế
hai lần, Hiệp định về bưu điện, Hiệp định về hàng không, hàng hải…).24 Các quan hệ kinh tế và
thương mại cũng tăng nhanh chóng. Trong lúc này, các nước ASEAN đã tiêu thụ hoặc tái xuất một
khối lượng lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam, và đầu tư trực tiếp của họ cũng chiếm một tỷ trọng khá
lớn trong tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Trong quan hệ song phương, Việt Nam cũng đã tiến hành giải quyết những vấn đề tồn tại với các
nước ASEAN bằng thương lượng.Với Malaxia, ta thoả thuận việc cùng khai thác cùng chống lấn; hồi
hương người di tản; với Thái Lan: tiếp tục giải quyết cho Việt Kiều nhập quốc tịch, khai thông hợp tác
23

: Vũ Dương Huân: Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), tr.135

24

: Vũ Dương Huân: Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), tr.137
13



sơng Mêkơng, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ thoả thuận về vùng chống lấn trên biển. Ta cũng tiến
hành giải quyết với Inđonêxia về phân định lãnh hải giữa hai nước.
Việc ta dành sự quan tâm cần thiết đến quan hệ với mỗi quốc gia trong ASEAN cũng như quan hệ
đa phương với tổ chức đã cho thấy sự biến chuyển rõ rệt của tư duy đối ngoại, góp phần cải thiện hình
ảnh của Việt Nam ở khu vực, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế.
V. Đánh giá và bài học kinh nghiệm
1. Đánh giá
1.1 Mặt thành công
Năm năm không phải là một quãng thời gian dài, nhất là trong đời sống chính trị- ngoại giao. Nhưng 5
năm sau Đại hội Đảng 7 tháng 6 năm 1991, Việt Nam nói chung và ngành Ngoại giao Việt Nam nói
riêng đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ và thể hiện rất tốt hình ảnh quốc gia ra bên ngồi khu vực. Tất
cả là nhờ có sự Đổi mới trong tư duy đối ngoại, một sự Đổi mới cần thiết, sáng suốt và hết sức hiệu
quả.
Có thể nói, việc Việt Nam thay đổi cái nhìn cũ, áp dụng đường lối đối ngoại Đổi mới với ASEAN là
điểm sáng nhất trong quãng thời gian từ năm 1991 đến 1995. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn đến Việt
Nam và đương nhiên là với cả cộng đồng ASEAN. Đối với chúng ta, để hiện thực hóa những sự tiến bộ
trên lý thuyết về đường lối đối ngoại thực sự là một khó khăn, nhất là khi giữa Việt Nam và ASEAN đã
và đang tồn tại rất nhiều mâu thuẫn, đối đầu tại thời điểm bấy giờ.
Ưu điểm đầu tiên của sự đổi mới đường lối đối ngoại này là Việt Nam đã có một sự thay đổi tích
cực, tiến bộ trong cơ sở ý thức hệ.Chúng ta nên nhớ là mới chỉ trước đó vài năm, tình hình bán đảo
Đông Dương và ASEAN hết sức căng thẳng xung quanh vấn đề Campuchia. Đấy là còn chưa kể đến
cái nhìn vẫn cịn đầy thù hằn của Việt Nam với một số nước ASEAN đã từng tham gia vào chiến tranh
Việt Nam như Thái Lan, Philippin, Malaysia hay Singapore. Do đó, sự thay đổi trong tư duy đối ngoại
trên đã thực sự giúp Việt Nam thốt ra khỏi cái vịng luẩn quẩn trong việc tìm kiếm giải pháp giúp đất
nước sớm thoát ra khỏi khủng hoảng từ sự sụp đổ của Liên Xô- người anh cả của Chủ nghĩa xã hội và
một loạt những hệ lụy xung quanh nó.
Ngồi ra, “ việc có một chính sách đúng đắn và hợp lý với khu vực là một đảm bảo quan trọng cho
an ninh quốc gia”25. Bởi với Việt Nam, Đông Nam Á và ASEAN có ý nghĩa chiến lược vì khu vực

này lien quan trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước. 26Và với việc thiết lập mối
quan hệ tốt với khu vực chúng ta sẽ có một điểm tựa vững chắc cho sự phát triển lâu dài.Thế và lực của
Việt Nam được nâng cao hơn, quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được cải thiện.khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. 27
25

: Nguyễn Mạnh Cầm: Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới

26

: />27

14


Và ưu điểm lớn nhất của sự đổi mới tư duy ngoại giao này có lẽ là chúng ta đã bắt đầu một cuộc
Phục hưng đất nước. Những năm cuối thập niên 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Việt Nam
vẫn phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ chế độ bao cấp quan liêu, đất nước yếu kém về nhiều mặt.
Nhưng với sự đổi mới ngoại giao, nhất là với khu vực Đông Nam Á và ASEAN, chúng ta “đã đưa đất
nước thốt khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập.mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ quốc tế cả về chính trị
lẫn kinh tế, không ngừng nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới, tạo ra môi thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.28Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm hiểu
điều này hơn ai hết. Chính bởi vậy mà tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN (AMM) họp ở Bangkok
tháng 7/1994, khi được hỏi về việc sẵn sàng tham gia ASEAN, Bộ trưởng đã chính thức trả lời :” Việt
Nam sẵn sàng gia nhập sớm
1.2. Mặt tồn tại:
Cuộc đổi mới tư duy đối ngoại đã đến thật đúng lúc và như thổi một luồng gió mới vào nền ngoại giao
Việt Nam cũng như trên nhiều phương diện khác.Nó đã đem đến cho nước ta một diện mạo mới, một
hình ảnh mới trên trường quốc tế.Tuy nhiên khơng có gì là hồn hảo cả, song song với những ưu điểm
của mình, sự thay đổi tư duy đối ngoại của Việt Nam với ASEAN vẫn còn tồn tại những điểm chưa

được.Có thể nói, tại thời điểm đó “Việt Nam cần ASEAN, ASEAN cũng cần Việt Nam” 29 nhưng dưới
nhiều góc nhìn chun mơn thì việc Việt Nam thúc đẩy những nỗ lực, tiến hành gia nhập sớm ASEAN
là hơi nóng vội.
Thứ nhất, tại thời điểm những năm đầu thập niên 90, thành quả của công cuộc Đổi mới 1986 có thể
nói là vẫn chưa đủ để làm chỗ tựa vững chắc cho Việt Nam. Nền kinh tế của chúng ta vẫn còn thua
kém nhiều nước trong khu vực.Hơn thế nữa là sự khác biệt khá lớn trong thể chế chính trị.Nếu khơng
có một sự chuẩn bị kỹ càng, thì Việt Nam rất dễ bị một cú sốc khi gia nhập sớm vào ASEAN.
Bên cạnh đó, trước giai đoạn này, Việt Nam mới chỉ gia nhập vào một khối là SEV của các nước Xã
hội chủ nghĩa. Chính vì thế, nếu gia nhập ASEAN thì Việt Nam sẽ thiếu một nguồn nhân lực có khả
năng sử dụng tiếng Anh để tham gia các cuộc họp của ASEAN hàng năm.30 Ngày 24 tháng 9 năm
1994, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã chính thức thành lập Vụ ASEAN, một bộ máy hoàn chỉnh để hợp tác
với tổ chức khu vực này. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có hạn cũng chính là lý do khiến Việt Nam cịn
khá thụ động trong vài ba năm đầu gia nhập ASEAN.
2 Bài học kinh nghiệm.
Sau 5 năm thực hiện đổi mới đường lối tư duy đối ngoại, cũng như qua những thành công và tồn tại
trong sự đổi mới đó của Việt Nam với ASEAN, ngoại giao nước nhà đã nhìn nhận và rút ra được rất
: Nguyễn Di Niên: Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ Đổi mới
28

29

: Vũ Khoan: Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại qua 20 năm Đổi mới

: />
30

: />
15



nhiều bài học quý báu, nhưng có lẽ bài học quan trọng nhất đó là: Phải ln phát huy cao độ tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đi đơi với tăng cường đồn kết và mở rộng hợp tác quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xác định đúng, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, có
cách nhìn đúng đắn, linh hoạt về đối tượng và đối tác trong bối cảnh mới.31
Bên cạnh đó, chúng ta cịn có thêm một bài học về thay đổi tư duy đối ngoại. Đó là vận dụng linh
hoạt, sáng tạo lý luận Mác- Lê nin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, và ln áp dụng nguyên
tắc “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” , “ Thêm bạn bớt thù”.32
Và chúng ta phải luôn nhớ rằng, quan hệ với các nước láng giềng, các nước cùng khu vực là mối
quan tâm hàng đầu của ngoại giao.33

LỜI KẾT
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, quốc kỳ Việt Nam được kéo lên tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở thủ đô
Bandar Seri Begawan, Brunei đánh dấu việc Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành
viên thứ 7 trong ngôi nhà chung của Đông Nam Á này.
Một chặng đường vất vả đã đi qua, nhiều khó khăn thách thức đã được chinh phục, Việt Nam có quyền
tự hào vì những gì mình đã làm được trong 5 năm vừa qua. Từ một Việt Nam bi quan, tự khép kín
mình, chúng ta đã trở thành một quốc gia năng động, một quốc gia có tiềm năng trong khu vực và xa
hơn là trên thế giới. Sự chuyển mình ngoạn mục này có được là từ nhiều nhân tố, tuy nhiên nhân tố chủ
đạo mang tính chiến lược chính là sự đổi mới trong tư duy đối ngoại của Nhà nước Việt Nam. Tuy vẫn
còn tồn tại một số hạn chế nhất định, nhưng sự đổi mới này đã thực sự làm thay đổi không những đất
nước, con người Việt Nam mà nó cịn thay đổi bộ mặt của khu vực Đông Nam Á. Tại thời điểm đó, vẫn
cịn một vài nước chưa gia nhập vào ngôi nhà chung ASEAN nhưng mọi người đều hiểu rằng cái ngày

31

: Nguyễn Di Niên: Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ Đổi mới

32

: Nguyễn Di Niên: Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ Đổi mới


33

: Nguyễn Khắc Huỳnh: Một số suy nghĩ về mấy bài học quan trọng nhất
16


đồn tụ đơng đủ khơng cịn xa nữa. Và lịch sử đã chứng minh cho điều này. “Việt Nam cần ASEAN,
ASEAN cần Việt Nam” – đó là điều khơng thể phủ nhận được nữa.
Sự tỉnh táo nhận xét tình hình thế giới và khu vực, một cái nhìn đầy tính chiến lược và sự đổi mới
đường lối tư duy đối ngoại kịp thời, hiệu quả - tất cả đã góp phần mang lại thắng lợi to lớn cho nền
Ngoại giao nước nhà nói riêng và sự phát triển của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Dù đã vượt qua bao
khó khăn trở ngại trong tiến trình gia nhập ASEAN, nhưng trước mắt Việt Nam chắc chắn vẫn còn
nhiều thách thức cần phải tiếp tục đối mặt. Tuy nhiên, với một nền tảng ngoại giao vững chắc, cùng
những thành công trong sự đổi mới ngoại giao của mình, Việt Nam đã, đang và sẽ vững vàng vượt qua
những ghềnh thác đó, góp sức mình vào q trình xây dựng một ASEAN hịa bình- thịnh vượng, hợp
tác cùng phát triển, vì hịa bình khu vực và trên thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1986

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị tại Đại hơi VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
Hồng Hà, Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 12/1992
Bộ Ngoại giao, Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
Học viện Quan hệ Quốc tế, Kỉ yếu hội thảo: 50 Năm Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội, 1995
17


9. Lưu Văn Lợi, 50 năm Ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, T.2 (1975 – 1995), Hà
Nội, 1998
10. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975 – 2002), Học viện
Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2002
11. Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 1, tháng 3/2007
12. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam, T.2 (1975 – 2006)
13. Trần Văn Đào – Phan Dỗn Nam, Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế (1945 – 2000), Học viện
Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2001
14. 10 năm đồng hành hội nhập, Thông tấn xã Việt Nam
15. Việt Nam tham gia
ASEAN – Một quyết sách đúng đắn có ý nghĩa lịch sử quan trọng, Nguyễn Mạnh Cầm

18



×