Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận nhóm môn tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.29 KB, 20 trang )

TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

Tiểu luận mơn Tư tưởng Hồ
Chí Minh

DANH SÁCH NHÓM- LỚP 13KKT3:
1. ĐINH THỊ HUYỀN
2. PHAN THỊ NHƯ HOA
3. DƯƠNG THỊ THÙY DUYÊN
4. NGUYỄN THỊ VÂN
5. TRẦN THỊ NHUNG
6. NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG

Khoa Kế Toán

1


TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

T

ư tưởng Hồ chí Minh là một hệ thống tồn diện, có nội dung rất phong
phú, đa lĩnh vực và là hệ thống mở. Các ngành, các giới, các đối tượng có
thể lựa chọn, bổ sung những chuyên đề có nội dung phù hợp với nhiệm vụ
chính trị của mình. Trong các nợi dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng
dân tộc là nội dung quan trọng nhất và có ý nghĩa hàng đầu, trước hết của CM


Việt Nam. Giải phóng dân tộc, xét về thực chất là đánh đổ ách thống trị, áp
bức, xâm lược của đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc, hình thành Nhà
nước dân tộc độc lập và tự do lựa chọn con đường phát triển của dân tộc phù
hợp xu hướng phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, phải chuẩn bị mọi điều kiện để đảm bảo
cho đất nước phát triển nhanh, bền vững, thốt khỏi đói nghèo lạc hậu, dân giàu
nước mạnh, dân tộc có địa vị và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung
của nhân loại, giải phóng dân tộc được thực hiên bằng con đường cách mạng
vơ sản (CMVS).
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất
diệt, là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho
sự phát triển của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng vững chắc để Đảng ta vạch ra
đường lối CM đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta đi tớt thắng lợi.
Đối với sự phát triển của thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng
thời đại. Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận CM giải
phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc
lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.Giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với thế giới cịn ở chỗ, ngay từ rất sớm Người đã nhận thức đúng sự
biến chuyển thời đại để tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng lồi người.
Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to
Khoa Kế Toán

2



TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

lớn và vai trị chiến lược của CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách
mạng vơ sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc vì mục tiêu cao cả.
Trong lịng nhân dân thế giới chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần
vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
1.1 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc :
CM giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì Quốc tế
thứ ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức. Mục tiêu cấp thiết của CM ở
thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền
lợi chung của tồn dân tộc. Đó là những mục tiêu của đấu tranh dân tộc, phù
hợp với xu thế của thời đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp
ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của CM thuộc
địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, “tả khuynh”, Hội nghị lần thứ
nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng (10-1930) đã phê phán những quan điểm
của Nguyễn Ái Quốc, tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ
tám Ban chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc.
Thắng lợi của CM Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30 năm
chiến tranh CM Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường lối CM

giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
CMVS
1.2.1 Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó:
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp ông cha ta đã
sử dụng nhiều con đường với những khuynh hướng chính trị khác nhau sử dụng
những vũ khí tư tưởng khác nhau nhưng đều bị thất bại. Thất bại của các phong
trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Khoa Kế Toán

3


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng
phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách
quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. HCM sinh ra và lớn
lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh
lầm than, Hồ Chí Minh được chứng kiến phong trào cứu nước của ông cha
Người rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán
thành các con đường cứu nước của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường
cứu nước mới, Người đã đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới.
*Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước
ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực
dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong
trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi

và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến cơng trại lính Pháp ở cạnh kinh
thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra
Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt,
nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung
Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công
Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương
Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc
khởi nghĩa nơng dân n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm
1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt
ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ
yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước
theo mơ hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ
chức phong trào Đông Du (1906-1908).Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để
chống đế quốc Pháp không thành, ơng về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó
Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra
Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về
nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không
thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí,
nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn
khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả
độc lập cho nước Việt Nam. ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và
học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông
Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay
đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong tràođấu tranh chống thuế (1908).

Khoa Kế Toán


4


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào u nước đầu thế kỷ
XX khơng thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu
tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập
tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế
lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản
Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số
cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ
lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hố;
chống độc quyền thương cảng Sài Gịn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở
Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt
Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp
tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu địi tự do dân chủ
để lơi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng
cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư
sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt
Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926);
thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư
xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông

rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune
Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như
đấu tranh địi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu
Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với
phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận
động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy
nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây
ngày càng bị phân hố mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng
chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo
cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời
và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này
là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn
Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của
khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản,
địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của
Tơn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi
Khoa Kế Toán

5


TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có
một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng
chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao

giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của
Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội.
Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân
Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của
Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư
tưởng “không thành công cũng thành nhân”. Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa
Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến cơng trại lính Pháp
của qn khởi nghĩa. ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương... cũng
có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực
dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng
hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên
đoạn đầu đài họ hơ vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam
Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất
bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia
với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần
chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì
giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ
sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù thất
bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp
phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà u nước,
nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một
con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của
thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam. Chính vì thế, mặc dù rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán
thành con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm con đường mới.
1.2.2 CMTS là không triệt để:

Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao
đang tranh đấu ở nhiều châu lục, quốc gia trên thế giới. Người đã kết hợp
nghiên cứu lý luận và thực tiễn 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản
Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ,
Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp. Người nhận thấy:
CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là
Cộng hịa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức
thuộc địa, công nhân nỗi dậy khắp nơi. Chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến
Khoa Kế Toán

6


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân
chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc. Bởi lẽ đó, Người
khơng đi theo con đường cách mạng tư sản.
1.2.3 Con đường giải phóng dân tợc:
Hồ Chí Minh thấy được CM tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc
CMVS, mà còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về
sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
*Ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của CM Tháng Mười Nga đến phong trào CM
Việt Nam:
CM Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch
sử nhân loại-Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Thành công của CM Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến

phong trào CM trên thế giới nói chung và CM Việt Nam, nói riêng. Những ảnh
hưởng to lớn và sâu sắc đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất đầy đủ
và hướng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đi theo. Nhận xét của Chủ
tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung trong tác phẩm “Đường cách mệnh”
và tác phẩm “CM Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho dân
tộc”. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra tính triệt để của CM Tháng Mười
Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có CM Tháng Mười Nga là đã thành cơng và
thành cơng đến nơi”. Tính triệt để của CM Tháng mười Nga đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhận thức một cách rất sâu sắc. Đó là, chính quyền thuộc về tay
đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Nếu chính quyền cịn nằm trong tay
“một bọn ít người”-bọn tư bản, thì CM khơng triệt để, “chưa đến nơi”. Bên
cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh tính triệt để của một cuộc CM cịn thể hiện
ở chỗ: giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột một cách triệt để
và đem lại hạnh phúc, tự do và bình đẳng thực sự cho họ. Điều này, sau này,
được Người thể hiện dưới dạng khát vọng lớn lao: “Tơi chỉ có một ham muốn,
ham muốn đến tột bực là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành” (5). Nhận xét này của của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lóe sáng khát vọng
về xã hội tương lai-xã hội XHCN.
Từ nhận thức về tính triệt để của CM Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “CM Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường CM
Tháng Mười Nga. Đây là một trong những bài học thành công của CM tháng
Mười Nga. “Tinh thần CM triệt để”, theo Bác, một là tiến công kẻ thù một cách
triệt để, hai là, thái độ tinh thần dũng cảm, kiên quyết đấu tranh, không ngại
gian khổ hy sinh-Người chỉ rõ: “luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh
hùng CM, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến cùng vì độc lập
dân tộc vì CNXH”. Vận dụng bài học này vào Việt Nam, Người chỉ rõ: “Dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập”-CM
Khoa Kế Toán


7


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

Tháng Tám; “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
khơng chịu làm nơ lệ”-Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến; “chúng ta quyết
khơng sợ…Khơng có gì q hơn độc lập tự do”-kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
“Kết hợp chặt chẽ lịng u nước với tinh thần quốc tế vơ sản”. Bài học
này được chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách khá nhuần nhuyễn vào cách
mạng Việt Nam. Trong q trình tiến hành CM giải phóng dân tộc cũng như
trong CM XHCN, một mặt chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, mặt khác
chúng ta cũng thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế với các nước anh em (Lào,
Campuchia, Trung Quốc…) và thế giới. Về bài học này, Người chỉ rõ: “…trong
thời đại ngày nay, CM giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của của
cách mạng vơ sản, trong phạm vi tồn thế giới, CM giải phóng dân tộc phát
triển thành CM XHCN thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”. Lịch sử Việt Nam
chứng minh nhận định trên của người là hoàn toàn đúng đắn.
CM Tháng Mười Nga thành cơng đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với CM Việt
nam, nói riêng và CM thế giới, nói chung. Một mặt cổ vũ tinh thần, mặt khác
để lại những bài học kinh nghiệm hết sức q báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về CM Tháng Mười Nga. Từ đó, Người
lãnh đạo CM Việt Nam theo con đường mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra
bằng cách vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý và đưa CM Việt
Nam theo xu thế thời đại mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra. Và thực tế lịch sử
đã chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng những bài học CM
Mười Nga vào CM Việt Nam của Bác.

Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc
tế thứ ba” chính vì Lênin và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp
bức”., Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế
quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa
cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc
và thuộc địa. Vì thế giai cấp vơ sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và
phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc.. Người ví CNĐQ như con đỉa 2 vịi, 1 vịi
cắm vào chính quốc, 1 vịi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt 2 vịi,
phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng thuộc địa và CM
chính quốc là hai cánh của CM vơ sản, muốn cứu nước giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường CMVS.
Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ
sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của CM thế giới”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà CM có xu
hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết CM của chủ
nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vơ sản. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
Khoa Kế Toán

8


TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

đường CM”, “…chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Giống như mặt trời chói lọi, CM tháng

Mười chiếu sáng năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên
trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc CM nào có ý nghĩa to lớn
và sâu xa như thế"
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng
sản lãnh đạo.
Các lực lượng lãnh đạo CM giải phóng dân tộc trước khi Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời đều thất bại do chưa có một đường lối đúng đắn, chưa có một
cơ sở lý luận dẫn đường. Các phong trào chống pháp trước năm 1930 ở nước ta
đã xuất hiện các đảng phái như: Duy Tân hội, Việt Nam Quang Phục hội, Việt
Nam Quốc Dân Đảng,…chính vì những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn,
thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể
lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.
Từ thắng lợi của CM tháng 10 Nga do Đảng cộng sản lãnh đạo, người khẳng
định: CM muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có đảng
chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành
công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có
công nhân làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa
cộng sản, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức của Đảng theo học thuyết Đảng
kiểu mới của Lênin.
Nguyễn Aí Quốc phân tích và cho rằng: “những người giác ngộ và cả
nhân dân ta đều nhận thấy: làm CM thì sống, không làm CM thì chết. Nhưng
CM giải phóng dân tộc muốn thành công, theo Người, trước tiên phải có Đảng
CM lãnh đạo. Đảng có vững, CM mới thành công. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin. CM Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo CN Mác và
CN Lênin”
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “trước hết phải có Đảng
cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với

dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người câm lái có vững thuyền mới chạy.”
*Đảng cộng sản Việt Nam chính là người lãnh đạo duy nhất. Đầu năm 1930,
Hồ Chí Minh sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp
công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, có tổ
chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng. Theo
Hồ Chí Minh: “Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”
Khoa Kế Toán

9


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

Phát triển sáng tạo học thuyết Mác Lênin về Đảng cộng sản, Người cho
rằng “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam. Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao dộng trí óc kiên quyết nhất,
hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ Quốc và nhân dân.”
Khi khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm định hướng
cho việc xây dựng đảng cộng sản Việt Nam thành đảng có sự gắn kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ
của CM Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước dù là đảng viên hay không,
đều thật sự cảm nhận đảng cộng sản Việt Nam là đảng của Bác Hồ, là đảng của
mình, đều gọi đảng “là đảng ta”. Hồ Chí Minh đã xây dựng một đảng CM tiên
phong, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với

dân tộc, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân,
được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Ngay từ khi mới ra đời,
đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn
bộ giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là
một ưu điểm của đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ
lãnh đạo duy nhất đối với CM Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm
mọi thắng lợi của CM .
1.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân, trên
cơ sở liên minh công nông.
1.4.1 CM là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức :
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn
dân. Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở
Đông Dương:1- phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không
phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần
chúng…”
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động
non làm phương thức hành động. “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách
tổ chức, hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người
khẳng định “ Việt Nam làm CM giải phóng dân tộc, đó là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người. CM muốn thắng lợi phải đoàn kết
toàn dân, phải làm cho sĩ, nông, công thương đều nhất trí chống lại cường
quyền. Trong sự nghiệp này phải lấy công nông là người chủ cách mệnh…
công nông là gốc cách mệnh”
Trong CM tháng 8 năm 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống pháp và
chống mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy
dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là
có tất cả”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Khi còn hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh nói: “đối với tôi câu trả lời đã rõ
Khoa Kế Toán


10


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong
khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần
chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: “ dân khí mạnh thì
quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi. Phải dựa vào dân, dựa
chắc vào dân thì thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Chúng ta tin chắc vào
tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
1.4.2 Lực lượng của CM giải phóng dân tộc:
Để đoàn kết toàn dân tộc, Nguyễn Aí Quốc chủ trương xây dựng Mặt
Trận dân tộc thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh
giành độc lập tự do. Khi soạn thảo cương lĩnh đầu tiên của Đảng, trong Sách
Lược Vắn Tắt, NguyễnAí Quốc chủ trương: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào vô sản giai
cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
mặt phản CM thì phải lợi dụng ít lâu rồi mới cho họ đứng trung lập. Bộ phận
nào đã ra mặt phản CM thì phải đánh đổ”. Sách lược này phải được thực hiên
trên quan điểm giai cấp vững vàng- như người xác định: “công nông là gốc
cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song
không cực khổ bằng công nông, 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công
nông thôi, và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi
nào được nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa
hiệp”.

Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò
động lực CM của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công
nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị
áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó Người khẳng định:
“công nông là gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò động lực CM của công nhân
và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu
nước trước đó.
Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo CM giải phóng dân tộc,
người đề xuất với Đảng thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh.
Người chủ trì Hội nghị đã đề ra nghị quyết xác định “ lực lượng CM là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ,
tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt
trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc,
đánh tan giặc pháp- nhật xâm chiếm nước ta”. Tháng 9/ 1955,
Hồ Chí Minh khẳng định: “ Mặt Trận Việt Minh đã giúp CM tháng 8 thành
công”.
Khoa Kế Toán

11


TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

1.5 CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước CM VS ở chính quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về CM giải phóng dân tộc với

CMVS:
-Theo Mác- Ănghen: CMVS ở chính quốc là cần thiết và được thực hiện
trước.
- Theo Lênin: CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc.
-Còn theo Hồ Chí Minh: CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ
động và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc.
Cơ sở đưa ra luận điểm:
-Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: “sự giải
phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công
nhân”, để đưa đén khẳng định: “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Vì thế nên công cuộc giải
phóng các dân tộc thuộc địa phải do chính các dân tộc đó thực hiện.
-Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là được dựa
trên sự áp bức bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc
thuộc địa. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp
chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được
hoàn toàn CNTB. Hơn nữa theo đánh giá của Hồ Chí Minh trong giai đoạn
ĐQCN, sự tồn tại và phát triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân
dân các nước thuộc địa. Vì vậy, cuộc CMVS ở chính quốc trước chẳng khác
nào đánh rắn đằng đuôi.
-Theo Hồ Chí Minh chính CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có sức bật thuận
lợi hơn vì:
+Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn
giữa nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiềm năng CM
của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
+Tinh thần yêu nước và CNTD chân chính của các dân tộc thuộc địa là
một sức mạnh tiềm ẩn của CM giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được CN
Mac-Lênin giác ngộ và soi đường thì CM giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở
chính quốc.

+Thuộc địa là khâu yếu của chủ nghĩa tư bản nên CM giải phóng dân tộc
ở thuộc địa dễ dàng giành chính quyền hơn.
Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh
hướng phát triển, nhưng lúc đó quốc tế cợng sản lại đánh giá thấp CM giải
phóng thuộc địa. Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất
phát từ áp bức của CNĐQ với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân
của CM thuộc địa : " Người Đông Dương không được học, nhưng đau khổ, đói
nghèo và sự bạo ngược của CNTDlà người thầy dạy mầu nhiệm của họ; người
Khoa Kế Toán

12


TIỂU ḶN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGŨN THỊ HỜNG THÚY

Đơng Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi thời cơ cho phép và họ biết
tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.""Không, người Đông Dương
không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng tiêu cực,
Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến."
Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: “Thuộc địa là mắc xích
yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa ln có tinh
thần u nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến”. Vì vậy, năm
1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “CM thuộc địa không những khơng phụ
thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM
chính quốc và khi hồn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vơ sản
chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn.
CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM
thuộc địa chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta

tự giải phóng cho ta”.
Tóm lại, đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CM giải phóng
dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn
phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CM Việt Nam giành
thắng lợi vĩ đại và góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước khác trên thế giới trong thời kỳ đó.
1.6 CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực.
Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay
giai cấp thống trị. Những kẻ thù khơng bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho
nhân dân. Vì vậy CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân
dân để giành chính quyền. Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN
thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào u nước. CM giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản
CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng "chính trị"
của quần chúng và lực lượng "vũ trang" với 2 hình thức đấu tranh chính trị và
vũ trang kết hợp với nhau.
Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của
quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CMVS thì cuộc khởi nghĩa vũ trang
phải có sự ủng hộ của CMVS thế giới, CM Nga, thậm chí với CMVS Pháp.
Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang
được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại
hội nghị trung ương VIII (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương
được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực
lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn tới khởi nghĩa từng phần, mở
rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền trong cả nước.
Từ sau Hội nghị trung ương VIII, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ địa,
lực lượng vũ trang, lực lượng Chính trị, chuẩn bị tổng kết khởi nghĩa. Thắng lợi
Khoa Kế Toán


13


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

CM tháng 8 đã chứng minh tính đúng đắn của TTHCM về con đường bạo lực
CM.
Sáng tạo và phát triển nguyên lý CN Mac – Lênin về con đường bạo lực ở Hồ
Chí Minh thể hiện ở chỗ:
+ Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí, phải chiến đấu
bằng lực lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự,
mà là nhân dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc
đáu tranh to tát về chính trị và quân sự, việc quan trọng làm đúng thì thành
công, làm sai thì thất bại.
+ Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là tiến hành đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang khi điều kiện cho phép, thực hành đấu tranh ngoại
giao, đồng thời phải biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao để
giành và giữ chính quyền.
2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
*Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH –chính là sự vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Đảng ta đã khẳng định, đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã
hội được nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
khơng phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của
Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng"(1). Như vậy, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị khơng thay đổi, dù trong bất cứ giai
đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.

Khắc sâu bài học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ đã thuộc về nhân dân ta, công cuộc đổi mới trong thời gian qua,
càng khẳng định bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên
định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới. Công
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo
con đường CMVS, trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc lúc này, đối với chúng
ta, chính là sự vươn lên để thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của
Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, ở mọi
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học... Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc
một cách thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế rất phức tạp và đầy
rẫy nguy cơ mất cịn hiện nay. Trong q trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh
báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền
độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn là
nhận thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập
Khoa Kế Toán

14


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

dân tộc. Tập trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là
làm cho cơ sở vật chất của CNXH ngày một nhiều hơn trên thực tế; do đó, càng
có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân
tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng xã hội chủ nghĩa được

Đảng ta xác định trong phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa căn bản đảm bảo
cho nền kinh tế vừa phát triển theo quy luật một cách đúng hướng vừa làm điều
kiện nền tảng giải quyết những vấn đề xã hội bền vững.
Thực tế cũng cho thấy, nền độc lập dân tộc càng được bảo vệ vững chắc thì
hiệu quả cơng cuộc xây dựng chế độ mới ngày càng cao. Cơng cuộc xây dựng
xã hội mới có hiệu quả càng là điều kiện quan trọng thiết thực bảo vệ nền độc
lập dân tộc vững vàng. Nhờ xác định đúng mối quan hệ này và tổ chức thực
hiện tốt trên thực tế nên CM Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong cả đối nội và đối ngoại.
Bài học của Đại hội X về độc lập dân tộc và CNXH chính là sự trung thành và
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Theo Hồ Chí Minh, quá
độ lên CNXH ở Việt Nam là thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về
chính trị, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về
kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi mới
(1986) và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ
sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Ở đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh
tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế.
Hồ Chí Minh rất coi trọng các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và xác
định vị trí kinh tế - xã hội to lớn của nó trong thời kỳ quá độ. Người cho rằng,
nếu ta khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì giai cấp tư sản cũng có thể theo chúng ta
đi lên chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản

xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Muốn vậy, phải tập trung phát triển lực
lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, Đại hội X chỉ rõ Nhà
nước phải tập trung làm tốt các chức năng:

Khoa Kế Toán

15


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế,
chính sách trên cơ sở tơn trọng các ngun tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn
lực xã hội cho phát triển.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Bảo đảm tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi
ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Về văn hóa xã hội, con người, một lần nữa, Đại hội X làm rõ và vận dụng đúng
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính
chiến lược trong q trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong
thời kỳ quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng
tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân

và toàn quân.
*Nâng cao sức chiến đấu của đảng, xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch
bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện
cần kiệm xây dựng CNXH.
Đại hội X khẳng định: Đảng ta "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh... Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng" (4), với tư cách là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH:
- Kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới tồn diện, có ngun tắc và sáng tạo;
trong q trình đổi mới, phải ln ln giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, kiên định CN Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, không đa nguyên, đa đảng. Đây chính là bản lĩnh
chính trị của Đảng trung thành với quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng lãnh
đạo CM thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới công
tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và
phê bình; giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội thực dụng... Xây dựng hệ thống
tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền, trách
nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ
sở đảng. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền.
- Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành
Khoa Kế Toán

16



TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

nhiệm vụ. Tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất
cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử
dụng cán bộ. Đặc biệt, coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân
tài mà Hồ Chí Minh hằng quan tâm.
- Tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng các thiết chế
mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích
chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công
chức luôn thực sự là công bộc của nhân dân như Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền, tăng cường và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - chức năng và phương thức lãnh
đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực
và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan
nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo
đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận,
các đoàn thể nhân dân. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật..
* Không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết trong Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam, đưa chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh lên một tầm cao, một

chiều sâu mới.
Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính
sách xã hội, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối
với tri thức, chính sách đối với công đồng ngườiViệt ở nước ngoài, tập hợp đến
mức rông rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước gắn
liền với xây dựng kinh tế tri thức.
Cải thiện đời sống các dân tộc miền núi, khắc phục, đẩy lùi tình trạng
khó khăn, lạc hậu, nghèo nàn để không bị các thế lực thù địch lợi dụng gây mâu
thuẫn.
*Kiên định con đường đi lên CNXH
Đối với Viêt Nam HCM khẳng định trước sau như một chỉ có CNXH
mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một
cách triệt để và thiết thực .Tức là thực hiện đầy đủ các quyền của con người,
trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc tất cả con
người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên CNXH và độc lập phải gắn liền
với CNXH trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng HCM và là mục tiêu chiến

Khoa Kế Toán

17


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

lược trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam của Đảng cọng sản Viêt Nam suốt
hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Thực tiễn đã khẳng định rằng CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt

lịch sử, sớm hay muộn cũng phải thay bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn đù là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa.Chủ nghĩa tư
bản không phải là tương lai của loài người nên chủ nghĩa xã hội khoa học, tự
do, dân chủ và nhân đạo mà loài người vươn tới luôn đại diện cho những giá trị
tiến bộ của nhân loại, đâị diện cho lợi ích của người lao động, là hình thái kinh
tế xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Đi lên CNXH là sự nghiệp cao cả là giải
phóng con người, vì sự phát triển tự do và tồn diện của con người .Đi theo
dịng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch
sử
Chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực
hiện được mục tiêu làm cho mọi người dân được ấm no,tự do, hạnh phúc.Sự
lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó
thể hiện qua sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
một tât yếu của lịch sử

Khoa Kế Toán

18


TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

T

ư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc có những luận diểm
sáng tạo, đặc sắc có giá trị lý luận và giá trị thực tế lớn. Làm phong phú
học thuyết Mac-Lênin về CM thuộc địa. Lý luận CM giải phóng dân tộc của Hờ
Chí Minh là một đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận CM của thời đại, soi

đường thắng lợi cho CM giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đem lại những kết
quả trước mắt là sự độc lập: cả đời Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân,
cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân
loại cần lao, thốt khỏi áp bức, bóc lột, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc. Cũng chính vì vậy mà vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đã
được Người quan tâm, nung nấu suốt cả cuộc đời. Giải quyết vấn đề dân tộc ở
Việt Nam một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến trước hết là phải tiến hành
đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ bọn tay sai giành độc lập dân tộc, tự do
cho nhân dân, hịa bình và thống nhất cho đất nước. Hồ Chí Minh coi mục tiêu
đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình.
Quyền độc lập khơng tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên
quyết để mang hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời độc
lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được sống bình đẳng, hịa
thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Theo Hồ Chí
Minh: Độc lập, tự do, hịa bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng
của người dân mất nước. Bởi mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh mất
nước, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược, bọn tay sai phản
động thì quyền sống của con người cũng bị đe dọa chứ nói gì đến quyền bình
đẳng, tự do, dân chủ của con người. Nếu có chỉ là thứ tự do bắt bớ, giết hại và
tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta anh dũng với tinh thần “ thà hi sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và
niềm tin “kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong cuộc đụng độ lịch sử giữa
dân tôc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta đã nêu cao tinh
thần dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ, với tinh thần “Khơng có gì q hơn đọc
Khoa Kế Toán

19



TIỂU LUẬN NHÓM-13KKT3

GVHD:NGUYỄN THỊ HỒNG THÚY

lập tự do”. Đó cũng chính là tư tưởng của Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống CNTD. Do đó, Hồ Chí
Minh khơng những là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “
Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa trong thế kỷ
XX”.

Khoa Kế Toán

20



×