I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế giới đã xẩy ra biết bao nhiêu những biến
động to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt
Nam vẫn giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm
phục. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta
đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh
táo, phán đoán xử lý kịp thời mới giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát
triển kinh tế.
Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu
tiên và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ
vừa “hồng” vừa "chuyên" từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vì như Lênin người
thầy của giai cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa có giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu có đào tạo được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: Cán bộ là
gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại cũng do đội ngũ
cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Vì thế hơn lúc nào hết,
chúng ta phải trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện nay.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng
mới thời kỳ “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cán bộ là khâu quyết định sự
thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã dầy công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ
cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn
cách mạng.
Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ, nâng cao năng lực
lãnh đạo là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa rất căn bản và lâu dài.
Trong ngành giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu thì đ ội ngũ cán
bộ, giáo viên là lực lượng cốt cán của sự nghiệp phát triển giáo dục và đào
tạo, là nhân tố quan trọng nhất quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục,
biến mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng thành hiện thực. Do vậy, muốn
phát triển giáo dục đào tạo điều quan trọng trước tiên là phải chăm lo xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên. Trong nhà trường phổ thông,
1
việc phát triển đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
chất lượng ngày càng cao phải được coi là một giải pháp quan trọng hàng đầu
để nâng cao chất lượng giáo dục.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài "Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo
viên tại trường THPT trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài tiểu luận cuối
khóa.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ cùng với đó là quá trình khảo sát thực tiễn tại trường
THPT Đông Tiền Hải, tiểu luận đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả, chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên tại nhà trường trong giai đoạn
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Trình bày những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ.
Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, hiệu quả của cán bộ giáo viên
và công tác cán bộ ở Trường THPT …, tìm ra những nguyên nhân của thực
trạng ấy.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
giáo viên và công tác cán bộ tại trường THPT ... trong giai đoạn hiện nay.
3. phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp chung của triết học Mác Lênin, phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu dùng phương
pháp logic và lịch sử.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này giúp bản
thân tôi nắm vững cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu…
Phương pháp quan sát, trao đổi, trò chuyện, phân tích, tổng hợp dữ
liệu, số liệu so sánh, đánh giá nhằm phục vụ đề tài.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ tại trường THPT …
4.2. Phạm vi nghiên cứu
2
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chất lượng cán bộ giáo viên và công
tác cán bộ giáo viên của trường THPT … huyện … tỉnh … từ năm 2015
đến nay và phương hướng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của cán bộ giáo
viên đến năm 2020.
4.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu luận trong một năm từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018.
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG
TÁC CÁN BỘ.
1.1. Một số vấn đề chung về tư tưởng Hồ Chí Minh
Trải qua quá trình bôn ba, hoạt động cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành và phát triển, cùng với chủ nghĩa Mác Lênin đã trở thành
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu lên trong Đại hội IX năm
2001 của Đảng sau được khái quát lại trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bổ sung và phát triển năm 2011):
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi"
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luậnvà định hướng cho Đảng ta
xây dựng đường lối đúng đắn dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình cách mạng của nước ta. Do vậy, việc
nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động thực
tiễn là rất quan trọng. Trong đó, để thực hiện được các nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh, đưa cách mạng thành công thì vai trò của cán bộ và công tác cán bộ
có tính quyết định. Cho nên trong tư tưởng Hồ Chí Minh cán bộ và công tác
cán bộ luôn luôn giữ vị trí hàng đầu và được Người thể hiện rất rõ ràng, sâu
sắc.
3
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
1.2.1. Về vị trí cán bộ và công tác cán bộ
Cán bộ có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng có nhiều
nhiệm vụ, nhiều công việc, trong đó Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”; “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém”. Có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ
đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa cách mạng tới thành công. Muốn
biến đường lối thành hiện thực, cần phải có đội ngũ cán bộ cách mạng tập
hợp được quần chúng cách mạng, có đủ phẩm chất và năng lực mới đưa
được cách mạng đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, và Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo cho Đảng, và Nhà nước hiểu
rõ, để đề ra chính sách cho đúng. Vị trí cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, Chính
phủ với quần chúng nhưng không phải là “dây dẫn”, là sự chuyển tải cơ học
mà đòi hỏi người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng, đạo đức để làm nhiệm
vụ cầu nối đó.
Hồ Chí Minh coi trọng cán bộ nên cũng rất coi trọng công tác đào tạo
cán bộ, Người cho rằng cán bộ có vị trí quyết định trong mọi nhiệm vụ bởi
chính sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán
bộ yếu kém. Người nói “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất
bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ,
do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
Cần coi trọng công tác cán bộ. Muốn tổ chức công việc tốt, yêu cầu
người cán bộ phải có tài, có đức, song việc lựa chọn và bố trí, sử dụng phải
hợp lý, đúng người, đúng việc. Nếu không rất có thể hỏng việc mà không
phải do năng lực của cán bộ. Hồ Chí Minh luôn cho rằng trong dân ta không
thiếu người tài, có đức để làm cán bộ, vấn đề còn lại là phải biết phát hiện,
bồi dưỡng và tin tưởng ở họ.
Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nêu ra các vấn đề lớn và các vấn đề
đó có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là:
4
Hiểu biết cán bộ. Theo Hồ Chí Minh trước khi cất nhắc cán bộ, phải
nhận xét rõ ràng. Không chỉ xem xét về công tác của họ mà còn xem xét cả
sinh hoạt, chẳng những xem xét về cách viết, cách nói của họ mà còn xem xét
việc làm của họ có đúng với lời nói không, phải biết ưu điểm của họ và cũng
phải biết khuyết điểm của họ.(1)
Khéo dùng cán bộ. Trong những bài viết, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: dùng
cán bộ như “dùng mộc”, tùy tài, tùy việc mà dùng người, tránh lạm dùng
người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán
ghét những người chính trực. Biết dùng cán bộ là phải khiến họ yên tâm, vui
thú, hăng say làm việc, khuyến khích cán bộ dám nói, dám làm, có gan phụ
trách, có gan làm việc.
Cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng lựa chọn, cất nhắc đúng cán
bộ, dùng cán bộ cho đúng đó mới là “tình cảm”, hai việc đó phải đi đôi với
nhau. Để dùng được đúng cán bộ thì phải biết rõ họ. Bác chỉ rõ: Kinh nghiệm
cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy nhân tài mới, mặt
khác những người hủ hóa cũng lòi ra(2)
Thương yêu cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp có quan hệt
mật thiết đối với nhiều người trong công tác đào tạo cán bộ và có tác dụng
lâu dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Quan tâm, thương yêu cán
bộ là phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ, nhất là cán bộ nữ,
cán bộ miền núi vào cơ quan lãnh đạo.
Phê bình cán bộ. Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên
tắc xây dựng Đảng ta, chúng ta không sợ sai lầm, khuyết điểm. Điều quan
trọng là những người lãnh đạo phải biết cách giúp đỡ cán bộ sửa chữa những
sai lầm, khuyết điểm của họ. Sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, trước hết
người cán bộ có sai lầm phải tự kiểm điểm và tiếp thu phê bình của các đồng
chí để nhận ra khuyết điểm của mình và tự giác sửa chữa. Mặt khác các cán
bộ lãnh đạo phải có trách nhiệm phê bình và giúp đỡ để cảm hóa cán bộ của
mình sửa chữa khuyết điểm. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng hình
thức xử phạt, xử phạt là biện pháp giúp những cán bộ cố ý phá hoại nhận ra
sai lầm của họ. Như vậy, phê bình đúng, chẳng những không làm giảm uy tín
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 5, tr.281
Sđd, tập 5, tr.274
11
22
5
của cán bộ, cuả Đảng mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, đúng đắn
hơn, nhờ đó mà uy tín và thể diện càng được tăng lên.
Để có cán bộ tốt, đáp ứng được phong trào, nhiệm vụ cách mạng, phải
coi trọng công tác cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo
nhân tài là trọng yếu và rất cần thiết. Người nói: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
1.2.2. Về tiêu chuẩn cán bộ.
Đối với Hồ Chí Minh, Người quan tâm trước tiên là vấn đề đạo đức
của người cán bộ. Người coi đạo đức là “gốc”; phải có đạo đức cách
mạng thì người cán bộ mới có điều kiện để làm việc, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc. Nếu thiếu ho ặc y ếu kém đạo đức cách mạng thì sẽ
không thể làm tốt công việc được giao. Người cho rằng “cũng như sông có
nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Tư tưởng về
đạo đức của người cách mạng mà Hồ Chí Minh nêu không có nghĩa là
người cán bộ không cần có trình độ nhưng trong quan hệ đức – tài, thì đạo
đức là “gốc”, có ý nghĩa quyết định đối với người cán bộ.
Người đặt ra yêu cầu đạo đức của người cán bộ:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”
Người đã giải thích Cần, Kiệm, Liêm ,Chính rất cô đọng, rõ ràng:
Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai
Kiệm là tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí…
Liêm là trong sạch, không tham lam, không ham địa vị, không ham tiền
tài, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hoá.
6
Chính là thắng thắn, đúng đắn. Để chính thì phải chớ tự kiêu, tự ái,
chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức phải tự rèn luyện một cách kiên trì, bền bỉ
mới có được, phải tự “tu thân tích đức" tựa như:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian lan, rèn luyện mới thành công”
(Nhật ký trong tù)
Theo Hồ Chí Minh, muốn “thành người” và thành “người cán bộ” thì
trước hết là phải học “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học
nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn”. Học là điều kiện tiên
quyết để “thành người” và “người cán bộ”. Người viết:
“Học để làm việc
Làm người
Làm cán bộ”
“Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được, là thoái bộ. Xã hội
càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình đã không chịu
học, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ còn phải tự phê bình, Người giải
thích: “Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ, thì ai cũng cần tự phê
bình cho tư tưởng và hành động đúng đắn” “tự phê bình là thật thà nhận, công
khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách
sửa chữa”.
Nói tóm lại, Hồ Chí Minh coi các đức tính, khiêm tốn, ham học hỏi,
không giấu dốt, thường xuyên tự phê bình, không chủ quan tự mãn, gặp thất
bại không nản chí… là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của
người cán bộ.
1.2.3. Phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ:
Sinh thời Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất cao vào quần chúng, việc
phát hiện, lựa chọn nhân tài không được phân biệt người trong Đảng hay
ngoài Đảng, vấn đề họ phải có tài thật sự. Người cho rằng cần thông qua
7
thực tiễn cách mạng để lựa chọn cán bộ: Khi “Phong trào giải phóng sôi
nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng, chúng ta không đượ c bỏ rơi
họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải
thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc
kháng chiến cứu nước” “ph ải tr ọng nhân tài”.
Như vậy phát hiện, lựa chọn cán bộ trong kháng chiến cũng như
trong hòa bình, xây dựng đất nước đều phải thông qua thực tiễn và kết quả
hoạt động để xem xét lựa chọn cán bộ.
Hồ Chí Minh cho r ằng c ần ph ải th ường xuyên đánh giá cán bộ. Theo
Ngườ i: “Mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy nhân tài mới,
một mặt khác những ngườ i hủ hoá cũng lòi ra”. Ngườ i chỉ rõ "xem xét cán
bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ, không chỉ
xem một vi ệc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của
họ. Có ngườ i lúc phong trào cách mạng cao, họ vào đảng, họ làm việ c rất
hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp
sự nguy hi ểm hoá phản cách mạng…Nếu ta không xem xét rõ ràng thì lầm
là cán bộ tốt".
Vì vậy, lựa chọn, đánh giá cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ
xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ .
Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu với công tác đánh giá cán bộ,
Ngườ i đòi hỏi muốn bi ết đúng về ngườ i khác thì trướ c hết phải “tự biết
mình”, “đã không tự biết mình thì khó mà biết ngườ i, vì vậy muốn biết
đúng sự phải trái ở ngườ i ta thì trướ c phải biết đúng sự phải trái của
mình.
Tóm lại, về đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh cho r ằng hi ểu ng ười là
việc rất khó, nếu không hiểu đúng thì không dùng đúng, nếu không dùng
đúng thì không thể cất nhắc đúng. Nhưng muốn hi ểu ng ười tr ước h ết
phải hiểu mình. Rõ ràng trong đánh giá cán bộ, ngườ i đánh giá phải có tâm
và có tầm nhìn, công bằng và trung thực m ới l ựa ch ọn đượ c cán bộ tốt.
Đánh giá cán bộ là cơ sở để đề bạt và sử dụng cán bộ đúng ngườ i,
đúng việc, đúng lúc. Hồ Chí Minh yêu cầu khi “cất nh ắc cán bộ cần phải
xét rõ ngườ i đó có gần gũi quần chúng, có đượ c quần chúng tin cậy và
8
mến phục không. Lại phải xem ng ười ấy x ứng v ới vi ệc gì, nế u ngườ i có
tài, mà dùng không đúng tài của họ, cũng không đượ c việc”. Do đó, thấm
nhuần tư tưở ng H ồ Chí Minh về công tác cán bộ thì ngườ i đánh giá cán
bộ phải khách quan, vô tư và vì sự nghiệp chung c ủa Đảng.
Khi đề bạt, sử dụng cán bộ thì cần xem xét tiêu chí tổ ng hợp để
xem ngườ i cán bộ đó có đủ tiêu chuẩn đề bạt giữ một chức vụ nào đó và
họ có gần gũi và đượ c quần chúng tin cậy mến ph ục không. Phải nói rằng
đây là một thướ c đo khá chuẩn xác và quan tr ọng trong đề bạt cán bộ.
Khi đã đủ tiêu chuẩn đề bạt thì phải xem ngườ i đó thích hợp với
việc gì, sở trườ ng và năng lực như thế nào để bố trí, sử dụng cho đúng.
Làm như vậy là sử dụng đúng ngườ i đúng việc. Rõ ràng việc bố trí sắp
xếp cán bộ phụ thuộc vào sự công tâm và sáng suốt của của cơ quan t ổ
chức và ngườ i làm công tác cán bộ. Như vậy, vi ệc bố trí cán bộ ở cơ
quan, tổ ch ức c ần đượ c lựa chọn kỹ lưỡ ng. Tránh tình trạng sai chồng lên
sai. Điều rất quan trọng n ữa là “khi cân nhắc cán bộ, phải xem k ết qu ả
học tập cũng như kết qu ả công tác khác mà định”.
Về phươ ng pháp, cách thức cất nhắc, H ồ Chí Minh đã chỉ ra cất
nhắc cán bộ không nên làm như “giã gạo” nghĩa là trướ c khi cất nhắc
không xem xét kỹ. Khi cất nh ắc r ồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì
đẩy xuống, ch ờ lúc họ khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên hạ
xuống ba lần nh ư th ế là hỏng cả đời… Hồ Chí Minh chỉ rõ “sau khi cất
nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun tr ồng lòng tự tin, tự trọng của
họ”.
Mục đích lựa chọn, đánh giá, cất nhắc cán bộ là để dùng cán bộ sao
cho hiệu qu ả nh ất. Hồ Chí Minh cho r ằng, đối với mỗi con ngườ i: “không
có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy chúng ta phải khéo dùng
ngườ i, sửa chữa nh ững khuy ết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ.
Thườ ng chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng ngườ i, thợ rèn thì bảo đi
đóng tủ, thợ m ộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai ng ười đều lúng túng.
Nếu biết tuỳ tài mà dùng ngườ i, thì hai ngườ i đề u thành công”. Là ngườ i
có lòng bao dung, độ lượ ng, Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta, trướ c hết là
những ngườ i và cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ “Ngườ i ở đời, ai
9
cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa
chỗ xấu cho họ”.
Hơn thế nữa, biết dùng ngườ i đúng sở trườ ng của họ, đúng tài của
họ, đúng lúc đúng chỗ, tức bi ết kheo dùng ngườ i thì phải “tài nhỏ có thể
hoá ra tài to” nhưng nếu không khéo dùng ngườ i thì “tài to cũng hoá ra tài
nhỏ”.
1.2.4. Về hu ấn luy ện, đào tạo, bồi dưỡ ng cán bộ.
Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác huấn
luyện, đào tạo, bồi dưỡ ng cán bộ; nếu như “cán bộ là gốc của mọi công
việc thì “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đả ng”, Hồ Chí Minh
khẳng định “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như ngườ i làm vườ n vun trồng
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
ngườ i có ích cho công việc chung c ủa chúng ta”.
Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡ ng là khâu có ý nghĩa quyết định đế n
trình độ và chất lượ ng của cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải
gắn với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, h ọc thu ộc lòng. Thực tiễn
không ngừng bi ến đổi, do vậy lý luận cũng phải đượ c bổ sung, phát triển,
vì thế cán bộ phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ ,
thực hiện tốt nhi ệm v ụ đượ c giao.
Theo Hồ Chí Minh, học tập là rất quan trọng, mu ốn tr ở thành ngườ i
và “ngườ i cán bộ” thì phải học: Học để làm việ c Làm ngườ i Làm cán
bộ .
Ngườ i xưa có câu: “Thành tài thì chưa chắc đã thành nhân” và với
Bác Hồ thì cần phải “làm ngườ i” sau đó mới “làm cán bộ” để “thành
nhân” rồi mới “thành tài”, và điều đó trướ c hết là phải học. Theo Hồ Chí
Minh thì “Học ở trườ ng, học sách vở, lẫn nhau và học nhân dân, không
học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”.
1.2.5. Về công tác kiểm tra, qu ản lý và chính sách đối với cán bộ
Trong thực tiễn công tác cán bộ, tất yếu phải coi tr ọng công tác
kiểm tra và quản lý cán bộ.
Kiểm tra là để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa khuyết điểm và ngăn
chặn kẻ xấu chui vào bộ máy. Đó chính là công việc của ngườ i phụ trách
10
và cơ quan làm công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nói: “Phải thườ ng xuyên
kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa ch ữa khuy ết điểm, phát huy ưu
điểm. Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đế n.
Thế là không biết yêu dấu cán bộ”.
Trong quản lý cán bộ phải thực hi ện t ốt: chế độ tự phê bình và phê
bình; chế độ khen thưở ng và kỷ luật. Trong bài “Tự phê bình” đăng báo
Nhân dân ngày 20 tháng 5 năm 1951, m ở đầu bài báo, Ngườ i viết:
“Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”
Đó là sự cần thiết của chế độ tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh đã đề cao nguyên tắc tự phê bình, phê bình, khuyến
khích cấp dưới phê bình cấp trên, cấp trên phê bình, nhận xét phải công
bằng, yêu thương cán bộ, không thành kiến, trù dập, thưởng phạt phải
công minh. Trong th ực tế, Ng ười chú ý khen thưởng nhiều mà cũng xử
nghiêm những ai có tội lỗi. Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở đừng lạm
dụng thưởng, phạt, bởi vì thưởng, phạt tràn lan, không đúng lúc, đúng chỗ,
thiếu chính xác, thiếu công bằng thì cũng không có tác dụng tích cực.
Việc kiểm tra, qu ản lý cán bộ còn có nhiệm vụ ngăn ngừa, chống
lại những tệ nạn tham nhũng, quan liêu rất dễ xảy ra trong cán bộ khi có
chức, có quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm ki ểm tra, phê bình cán bộ với mục đích là để
họ không kiêu căng, làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức: “Phải vun
đắp chí khí của họ để đi đến chỗ “ bại không nản, thắng không kiêu”. Phải
xuất phát từ tình thương yêu để phê bình và phê bình là mong cho đồng chí
mình tiến bộ”. “ Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết
và thống nhất nội bộ”.
Vì vậy mà phương pháp phê bình, tinh thần, thái độ phê bình “ phải
ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả
ưu điểm, khuyết điểm; Đồng thời, chớ dùng lời lẽ mỉa mai, chua cay đâm
11
thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Còn đối với
“những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi. Không nên
vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét”.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên
cái tiến phương pháp công tác và lề lối làm việc để nâng cao hiệu quả
công tác. Điều này được thể hiện rõ ràng trong cuốn “Sửa đổi đườ ng lối
làm việc” của Bác Hồ ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Đặc biệt trong
giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội nhập
quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi đườ ng lối làm
việc” càng có ý nghĩa to lớn và quan trọng không chỉ đối với cán bộ, Đảng
viên mà còn có tác dụng đối với toàn xã hội.
1.2.6. Về công tác cán bộ nữ.
Trong cuộc đời sự nghiệp của Người, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới
sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh quan
tâm sâu sắc đến công tác cán bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Đảng và Chính phủ cần có kế
hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều
phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ
nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền
bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Người luôn khích lệ động viên: “Vậy phụ nữ phải làm sao cho người
ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ
cử mình lên”. Người đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ nữ và rất chú ý đến việc mở các lớp bồi dưỡng của địa phươ ng, cơ sở.
Bác nghiêm khắc phê phán các địa phương, cơ sở mở lớp học mà có ít cán
bộ nữ. Bác nói “cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót, các đồng chí phụ
trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. đây cũng là
một thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng
khả năng của phụ nữ, hay thành kiến hẹp hòi, như vậy là rất sai. Hiện nay
có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở nhiều người rất giỏi”.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp
to lớn, nhiều chị em đã được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân
12
dân, anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua toàn quốc, nghệ sỹ nhân dân, nghệ
sỹ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đạt chức danh giáo
sư, phó giáo sư, là những nhà khoa học đầu ngành v.v… Đây lại là minh
chứng cho sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác cán bộ
nữ của Người.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ GIÁO
VIÊN TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình
Huyện Tiền Hải giáp huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình về phía tây.
Phía đông giáp vịnh Bắc Bộ. Phía bắc giáp huyện Thái Thụy Thái Bình. Phía
nam giáp tỉnh Nam Định. Huyện Tiền Hải nằm kẹp giữa hai cửa biển Trà Lý
và Ba Lạt của sông Hồng. Đây là một trong hai địa phương ven biển của tỉnh
ta có diện tích 226 km2, dân số 213 616 người (số liệu năm 2009), hầu hết
dân tộc kinh, dân tộc thiểu số không đáng kể.
Huyện Tiền Hải gồm 1 thị trấn Tiền Hải và 34 xã: An Ninh, Bắc Hải, Đông
Cơ, Đông Hải, Đông Hoàng, Đông Lâm, Đông Long, Đông Minh, Đông
Phong, Đông Quý, Đông Trà, Đông Trung, Đông Xuyên, Nam Chính, Nam
Cường, Nam Hà, Nam Hải, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Phú, Nam Thanh, Nam
Thắng, Nam Thịnh, Nam Trung, Phương Công, Tây An, Tây Giang, Tây
Lương, Tây Ninh, Tây Phong, Tây Sơn, Tây Tiến, Vân Trường, Vũ Lăng.
Tiền Hải là vùng đất trẻ, mới được bồi đắp. Lịch sử hình thành huyện
Tiền Hải chỉ thực sự rõ nét từ thời nhà Nguyễn, khi Doanh điền sứ Nguyễn
Công Trứ năm 1828 đưa dân đến khai hoang lấn biển lập nên các làng xã tại
đây. Lúc đầu (năm 1828, 1832), Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh Nam
Định (cũ), gồm 7 tổng, huyện lị đặt tại ấp Phong Lai. Tới năm 1891, nhập
thêm hai tổng: Đại Hoàng (chuyển từ huyện Trực Định, tức huyện Kiến
Xương ngày nay, sang) và Đông Thành (từ huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định),
thành ra có 9 tổng và thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
13
Là vùng đất trẻ, Tiền Hải không có nhiều những di sản văn hóa lâu đời.
Song, từng là đất thiêng của cuộc khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành; ngoài ra
có các di tích như đình Nho Lâm, đình Tiểu Hoàng, đình Tô hay lễ hội làng
Thanh Giám cũng là những tài nguyên du lịch quý giá trên vùng đất này.
2.1.2. Đặc điểm, tình hình trường THPT ….
Trường THPT … nằm ở phía đông huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
thuộc địa bàn các xã ven biển khó khăn của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Nơi đây đa phần là kinh tế tiểu nông nhỏ lẻ xen kẽ với phát triển tiểu thủ
công nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản. Người dân đa số làm nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đi biển thu nhập trung bình thấp.
Trường THPT …. đứng chân trên địa bàn xã Đông Xuyên huyện Tiền
Hải tỉnh Thái Bình với diện tích rộng gần 1500m 2, giáp khu dân cư và
đường quốc lộ liên xã Đông Xuyên Đông Long Đông Hoàng. Đây là khu
vực ven biển, đa số các hộ gia đình làm nông nghiệp thuần túy, dân trí chưa
cao, các điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế. Song những năm gần
đây tình hình kinh tế xã hội của khu vực có nhiều chuyển biến tích cực,
Đông Xuyên đã hoàn thành các tiêu chuẩn để trở thành một trong những xã
của huyện Tiền Hải về đích nông thôn mới.
Quá trình thành lập và phát triển: Trường THPT … được thành lập từ
năm 1980 là một trong những trường được thành lập muộn của tỉnh nhà và
trên địa bàn huyện. Trụ sở chính của trường đặt tại xã Đông Xuyên huyện
Tiền Hải tỉnh Thái Bình. Khi mới thành lập, trường có cơ sở vật chất hết
sức nghèo nàn, chỉ có 4 phòng học lợp ngói, nền đất, bảng xi măng với số
lượng học sinh ban đầu chỉ có hơn 100 em. Có những năm trường có quá ít
học sinh dự học đứng trước nguy cơ giải thể như năm học 1981 1982.
Nhưng được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của chính quyền các cấp,
của ngành giáo dục đào tạo và sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ thầy, cô
giáo, phụ huynh học sinh, nhà trường từng bước vượt qua khó khăn ban đầu
và dần phát triển vươn lên.
Về Cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường từng bước được đầu
tư nâng cấp theo hướng hiện đại đáp ứng được nhu cầu dạy và học. Hiện
nay nhà trường có hai khu nhà học cao tầng kiên cố với 30 phòng học đủ cho
14
tất cả các lớp học một buổi/ ngày, có 2 phòng thí nghiệm, 3 phòng máy chiếu,
3 phòng máy tính đảm bảo các điều kiện học tập đầy đủ. Đặc biệt năm 2016,
khu nhà hiệu bộ đã được hoàn thành có đầy đủ các phòng chức năng phục vụ
điều kiện làm việc của cá nhân, bộ phận và đoàn thể trong nhà trường với 3
phòng giám hiệu, 1 văn phòng, 1 phòng kế toán, 1 phòng thư viện, 2 phòng
chờ giáo viên, 5 phòng tổ bộ môn, 2 phòng khách, 1 phòng hội đồng, 1 phòng
truyền thống.
Về cơ cấu tổ chức:
+ Quy mô lớp học: có 30 lớp học (10lớp/1khối) với tổng 1210 học sinh
(năm học 2017 2018) trong đó khối 12: 401 em; khối 11: 422 em; khối 10:
387 em (so với năm học 2016 2017, số lượng học sinh giảm 30 em là do kết
quả tuyển sinh đầu vào thấp, không đủ chỉ tiêu tuyển sinh).
+ Về đội ngũ cán bộ giáo viên: Tổng số 70 người trong đó biên chế: 59,
hợp đồng: 11, gồm Ban giám hiệu: 2 đồng chí, tổ Văn phòng: 8 đồng chí
(biên chế: 4, hợp đồng: 4), giáo viên: 60 đồng chí (biên chế: 53, hợp đồng: 7);
cán bộ giáo viên nữ là 58 chiếm 83% tổng số cán bộ giáo viên của toàn
trường.
Trình độ đào tạo của cán bộ giáo viên: 100% đạt chuẩn, có trình độ từ
đại học trở lên, trong đó có 6 đồng chí đạt trên chuẩn (có trình độ thạc sĩ). Cụ
thể:
Môn
Số lượng GV
Trình độ chuẩn
Toán
10
8
Lý
6
5
Hóa
5
5
Sinh
3
1
Văn
9
8
Sử
4
4
Địa
3
3
Ngoại ngữ
8
8
GDCD
2
2
GDTCQP
5
5
Tin học
3
3
Công nghệ
3
3
+ Các tổ chức đảng, đoàn thể:
Trình độ trên chuẩn
2
1
Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam có 18 đảng viên.
15
2
1
Công đoàn có 70 công đoàn viên
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: có 1235 đoàn viên.
Chi đoàn giáo viên: có 35 đoàn viên.
Tổ bộ môn: 6 tổ chuyên môn gồm: Tổ Toán Tin, Tổ Văn, Tổ Anh, Tổ
Tự nhiên, Tổ Xã hội và Tổ Văn phòng.
2.2. Thực trạng chất lượng, hiệu quả đội ngũ cán bộ giáo viên trường
THPT Đông Tiền Hải huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình trong giai đoạn
hiện nay.
2.2.1. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch năm học về chất lượng đội
ngũ cán bộ giáo viên và công tác cán bộ.
a. Về công tác chuyên môn
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Chi bộ Đảng nhà trường (năm
2015), cùng với đó hằng năm Ban Giám hiệu đã xây dựng kế hoạch năm học
được triển khai cụ thể trong hội nghị cán bộ công nhân viên chức đầu năm
được mọi thành viên trong hội đồng giáo dục nhà trường cùng đóng góp để
xây dựng kế hoạch hoàn chỉnh.
Triển khai thực hiện kế hoạch năm học nghiêm túc, đầy đủ: Ngay từ
đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể từng tháng, từng tuần triển
khai đến từng giáo viên. Trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường từng giáo
viên xây dựng kế hoạch cụ thể của cá nhân mình trong đó đề ra những
phương hướng, chỉ tiêu phấn đấu cụ thể.
Chi ủy, Ban giám hiệu luôn đảm bảo truyền đạt đầy đủ, chính xác,
kịp thời các hướng dẫn công tác của cấp trên tới cán bộ giáo viên, đặc biệt là
các văn bản mới như Nghị quyết 29 của Bộ chính trị về đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, chỉ thị 5555 của Bộ Giáo dục và đào tạo về đổi mới
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá. Mặt khác, tích cực chỉ đạo mọi hoạt
động giáo dục của nhà trường theo đúng văn bản pháp quy và hướng dẫn của
Bộ, kế hoạch của Sở Giáo dục, nhất là trong các kỳ thi.
Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên thành một
tập thể đoàn kết, có nề nếp, kỷ cương, kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao
trong công việc. Nhà trường luôn quan tâm đầu tư bồi dưỡng lực lượng cán
bộ giáo viên cốt cán làm nòng cốt thúc đẩy các hoạt động chuyên môn hình
16
thành lực lượng giáo viên điển hình trong giảng dạy và các hoạt động giáo
dục khác.
Luôn chú trọng nâng cao vai trò của cán bộ tổ, nhóm chuyên môn, thực
hiện công khai, dân chủ trong cất nhắc, bổ nhiệm, quy hoạch và điều động
nhiệm vụ cho cán bộ giáo viên. Tăng cường việc phát huy tính năng động,
sáng tạo của cán bộ, giáo viên. Xây dựng phong cách làm việc độc lập, khoa
học, tự chủ trong cán bộ giáo viện. Các tổ, nhóm sinh hoạt chuyên môn đi vào
chiều sâu, tổ chức tốt việc thi giáo viên dạy giỏi các cấp. Đẩy mạnh phong
trào đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá đồng thời cải tiến công
tác đánh giá giáo viên và học sinh.
Quan tâm chăm lo đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên, luôn chú ý tới
chế độ chính sách, kiểm tra, đánh giá khen thưởng kịp thời đối với cán bộ
giáo viên, nhân viên và học sinh đạt những thành tích xuất sắc.
b. Về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Thường xuyên chú trọng tới việc quy hoạch đội ngũ cán bộ giáo viên .
Nhà trường xác định đúng chủ trương, phương hướng trong chiến lược xây
dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đồng thời, quán triệt cho cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy, Ban
giám hiệu, lãnh đạo các đoàn thể nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo,
nguyên tắc tiến hành công tác cán bộ. Phổ biến rõ ràng các văn bản quy phạm
pháp luật về công tác cán bộ nói chung và cán bộ trong ngành giáo dục nói
riêng, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức. Chi ủy Nhà trường luôn đề cao
trách nhiệm trong việc tham mưu, đề xuất, xây dựng kế hoạch về công tác
cán bộ. Nhiều năm qua, nhà trường đã gắn đào tạo với quy hoạch, sử dụng
đội ngũ giáo viên bảo đảm nguyên tắc, có hiệu quả, đúng quan điểm của
Đảng và Bác về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
mới.
Xây dựng và thực hiện đúng quy trình đào tạo gắn với quy hoạch, sử
dụng đội ngũ giáo viên có số lượng và cơ cấu phù hợp với mục tiêu, yêu cầu
đào tạo. Để có đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trước mắt và cơ bản lâu dài, góp phần hoàn thành chỉ tiêu Nghị
quyết Đại hội đại biêu Chi b
̉
ộ Nhà trường nhiệm kỳ 2015 – 2020. Ban Chi ủy
17
Nhà trường xác định rõ các chủ trương, giải pháp thực hiện quy hoạch đội
ngũ giáo viên gắn với các khâu trong công tác cán bộ như: đánh giá, sử dụng,
quản lý, hướng đào tạo, phân định đối tượng đào tạo cơ bản và đối tượng bồi
dưỡng để sử dụng phù hợp với mục tiêu xây dựng đội ngũ giáo viên trong
tình hình mới. Đồng thời, chỉ đạo Ban giám hiệu đánh giá đúng thực trạng đội
ngũ; phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chuẩn bị nhân sự, đề
xuất nguồn quy hoạch. Thực hiện công khai, dân chủ trong quy hoạch, sử
dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và được tiến hành một cách chặt chẽ từ chi
bộ đến Ban thường vụ chi ủy Nhà trường.
Thực hiện tốt việc quản lý, rèn luyện đội ngũ giáo viên và công tác
chính sách. Nhà trường luôn làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây
dựng ý thức, trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên, tinh thần tích cực, chủ
động, sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ giáo viên.
Đồng thời, duy trì nghiêm nền nếp, kỷ cương; gắn xây dựng chuẩn mực đạo
đức nhà giáo với việc thực hiện Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong
thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chi thị 05CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa XII) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng
Đảng. Mặt khác, kịp thời biểu dương, khen thưởng những giáo viên có thành
tích trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học; nghiêm khắc phê bình, nhắc nhở
những giáo viên có biểu hiện thiếu cố gắng trong học tập, nghiên cứu, chất
lượng giảng dạy thấp, chấp hành không nghiêm quy chế chuyên môn. Xây
dựng sự đoàn kết, thống nhất cao trong lãnh đạo tạo môi trường sư phạm
lành mạnh để mỗi giáo viên rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực sư phạm,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm, chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện tốt các chế độ, chính sách của Nhà
nước đối với giáo viên; tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên, nhất là
giáo viên nữ phấn đấu vươn lên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ trong sự
nghiệp “trồng người”.
2.2.2. Tình hình và kết quả đã đạt được của nhà trường và cán bộ giáo
viên từ năm 2015 đến tháng 5 năm 2018.
18
a. Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, xây dựng kỷ cương nề nếp
giảng dạy trong nhà trường
Hằng tuần, Ban giám hiệu kết hợp cùng tổ, nhóm chuyên môn tổ chức kiểm
tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của mỗi giáo viên thông qua Lịch báo
giảng, sổ ghi đầu bài, sổ điểm; kiểm tra hồ sơ, sổ sách theo đúng quy định
một tháng một lần. Lập kế hoạch dự giờ giáo viên trong từng học kỳ, sau
mỗi tiết dự đều có nhận xét, đánh giá cụ thể.
Cuối học kỳ mỗi giáo viên tự nhận xét, đánh giá việc thực hiện quy chế
chuyên môn, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
Tổ chức việc dạy tốt học tốt, giám sát chặt chẽ, sát sao đồng thời có biện
pháp kịp thời để động viên khen chê cán bộ giáo viên. Tổ chức bồi dưỡng
cán bộ giáo viên tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng chuyên đề của Sở, ngành
tổ chức.
Nhờ thực hiện tốt quy chế chuyên môn nên những năm qua nhà trường
đạt được kết quả cao trong mọi mặt.
b. Kết quả cụ thể đạt được
Thành tích đạt
Danh hiệu
được của
Chiến sĩ thi
CBGV
đua cấp cơ
Năm học
Danh hiệu
Danh hiệu
Lao động tiên Giáo viên giỏi
tiến
Tỉnh
Danh hiệu
Giáo viên
giỏi cấp cơ
sở
20152016
20162017
20172018
sở
SL
TL
11
15
13
1%
0,7%
0,62%
SL
TL
SL
98,5%
100%
97%
5
6
9
TL
SL
TL
25
28
29
* Thành tích khác
Năm học
20152016
Danh hiệu
Danh
SKKN đạt
SKKN đạt Bồi dưỡng
trường
hiệu Tổ
giải cấp
giải cấp
Học sinh
Trường tiến
Tỉnh
5 tổ đạt 11
Cơ sở
25
giỏi
Đứng thứ
tiến xuất sắc.
LĐTT
14/16 trường
Bằng khen
Giấy
bảng B,
của Bộ
khen của
trong đó môn
19
Lịch sủ, Địa
Sở
lý, Toán,
Tiếng Anh
đạt giải
khuyến
khích toàn
đoàn.
Đạt 18/48
lượt giải cá
20162017
Trường tiến
5 tổ đạt 15
tiến
LĐTT
28
Khuyến
Giấy khen của Giấy
Sở
nhân.
Đạt giải
khích toàn
khen của
đoàn trong
Sở
đó Môn Toán
đạt giải
nhất, môn
Văn đạt giải
nhì, môn
Tiếng Anh
và môn Lịch
sử đạt giải
khuyến
khích
Đạt 25/45
lượt giải cá
20172018
Trường tiến
4 tổ đạt 13
tiến xuất sắc
LĐTT; 1
29
nhân.
Đứng thứ
11/16 trường
Giấy khen của tổ đạt
bảng B,
Sở
LĐTT
trong đó môn
xuất sắc
Toán đạt
Giấy
giải nhì,
20
khen của
môn tiếng
Sở
Anh, Văn
đạt giải
khuyến
khích toàn
đoàn.
Đạt 26/46
lượt giải cá
nhân
(Ghi chú: viết tắt cụm từ sáng kiến kinh nghiệm là SKKN, lao động tiên tiến
là LĐTT trong bảng trên)
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2015 2020
STT
1
Chức danh Hiệu trưởng
Chức danh Phó Hiệu
Nguyễn Thị Hường PHT
trưởng
Trần Anh Tuân Bí thư
Đoàn
Trần Thị Hường Tổ
2
trưởng CM
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2020 2025
STT
1
2
Chức danh Hiệu trưởng
Chức danh Phó Hiệu
Nguyễn Thị Hường PHT
trưởng
Trần Anh Tuân Bí thư
Trần Anh Tuân Bí thư Đoàn
Đoàn
Trần Thị Hường Tổ
3
trưởng CM
Trịnh Quang Hợp Tổ
4
trưởng CM
Trần Minh Đạt Bí thư
Chi đoàn GV
2.2.3. Đánh giá những ưu điểm nổi bật và hạn chế của đội ngũ cán bộ
giáo viên
a. Ưu điểm
21
Giáo viên của nhà trường có nề nếp làm việc nghiêm túc, khoa học, có tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao trong công việc, nhiệm vụ
được giao. Luôn ý thức cao trong việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Đội ngũ giáo viên đều thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà
trường, tổ, nhóm bộ môn. Nghiêm chỉnh trong soạn giảng, bám sát phân phối
chương trình của Bộ để tự chủ trong dạy và học đạt kết quả cao.
Thực hiện tốt và bước đầu đem lại hiệu quả cao trong việc đổi mới phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục. 100% các giáo viên đều ý thức và nỗ lực trong đổi mới phương pháp dạy
học, đặc biệt việc vận dụng các phương tiện, kỹ thuật dạy học hiện đại để
phát huy tính tích cực của học sinh như dạy bằng bài giảng Powerpoint, E
learning, bảng biểu đồ, mô hình, thiết bị thí nghiệm…
Các tổ, nhóm chuyên môn duy trì sinh hoạt, trao đổi chuyên môn đều đặn
theo định kỳ, đi sâu vào sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học,
theo chuyên đề để có hiệu quả cao.
Tập thể giáo viên đoàn kết, gắn bó với nhà trường, có lối sống giản dị, chan
hòa, gần dân, có tinh thần tập thể, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt các cuộc
vận động "Hai không", "Dân chủ Kỷ cương Tình thương Trách nhiệm",
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", "Mỗi thầy, cô giáo là
một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo", đặc biệt là cuộc vận động
"Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh".
Nhiều thầy, cô giáo có bề dày kinh nghiệm, kinh qua nhiều cương vị công
tác, vững vàng về chuyên môn. Nhiều giáo viên có thành tích cao trong dạy
mũi nhọn và bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường.
Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm tận tâm, nhiệt tình trong công tác quản lý, giáo
dục đạo đức, pháp luật cho học sinh, đặc biệt trong công tác giáo dục học
sinh yếu, kém, động viên các em tới trường. Đội ngũ giáo viên bộ môn kết
hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh. Chú
trọng kèm cặp những học sinh yếu, kém, lười học để các em vươn lên trong
học tập và nâng cao ý thức kỷ luật.
b. Hạn chế
22
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nêu trên, nhưng nhìn chung vẫn
còn những hạn chế sau:
Chất lượng giáo dục nói chung ở mức trung bình của tỉnh nhà. Chất
lượng học sinh giỏi tỉnh còn hạn chế. Hiệu quả giáo dục chưa cao ở một số
mặt như hạn chế về kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, các
hoạt động tập thể còn đơn điệu chưa lôi cuốn học sinh, một số hoạt động
còn mang tính hình thức, chạy theo phong trào. Điểm tuyển sinh đầu vào thấp
chưa được cải thiện.
Đội ngũ nhà giáo đủ về cơ cấu nhưng vẫn thiếu ở một số môn, tỷ lệ
giáo viên hợp đồng còn cao có phần ảnh hưởng đến chất lượng.
Phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá, một bộ
phận nhỏ giáo viên còn chưa thích ứng với đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá. Một số cán bộ, giáo viên nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn
về công tác giáo dục "dạy chữ" và "dạy người". Ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học ở một số giáo viên chưa tích cực. Việc viết và áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm trong dạy học còn hạn chế.
Về công tác quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức:
đã ban hành các quy chế, quy định trong cơ quan song chưa thực sự đồng bộ,
chặt chẽ. Việc phân công nhiệm vụ cho từng cán bộ giáo viên đã rất cụ thể
song việc kiểm tra, giám sát thực hiện còn hạn chế.
Cơ sở vật chất hiện nay đang xuống cấp, trang bị phục vụ cho dạy
học theo hướng hiện đại còn thiếu.
Hoạt động của các đoàn thể chưa thật sự phát huy được hiệu quả.
Đặc biệt, công tác của chi đoàn giáo viên, công đoàn hầu như chỉ mang tính
hình thức, chưa đi sâu vào nội dung.
Việc thuyên chuyển giáo viên quá nhiều và thường xuyên hằng năm
cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng đội ngũ, cụ thể những giáo viên được
rèn luyện, trưởng thành có ít nhiều kinh nghiệm giảng dạy và năng lực sư
phạm lần lượt xin chuyển về gần nhà hoặc thậm chí xin nghỉ việc: Năm
2015 2016: 4 đồng chí chuyển trường; năm 2016 2017: 6 đồng chí chuyển
công tác (2 xin nghỉ việc).
2.3. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm
23
2.3.1. Nguyên nhân tồn tại:
Việc kiểm tra giám sát còn nhiều hạn chế việc sơ kết, tổng kết, nhân
rộng điển hình tiên tiến, khích lệ khen thưởng chưa kịp thời.
Ban Chi ủy chưa có chủ trương lâu dài về đầu tư cơ sở vật chất nhà
trường.
Trường chỉ có một đồng chí Hiệu phó phụ trách về chuyên môn lại
kiêm phụ trách cơ sở vật chất do vậy trong quá trình thực hiện công việc còn
chồng chéo thiếu đồng bộ.
Do sự phân công chưa thật sự hợp lý, các đồng chí lãnh đạo tổ chuyên
môn đều làm công tác kiêm nhiệm, được đồng nghiệp tín nhiệm nên gánh vác
nhiều công việc phần nào khó khăn trong hoạt động, một số đồng chí nhà xa,
con còn nhỏ vì vậy sự nhiệt tình, tâm huyết với công việc được giao còn hạn
chế.
Số đảng viên trong Chi bộ không nhiều (18/70) nên chưa thật sự
mạnh.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đa phần còn trẻ, chưa có nhiều
kinh nghiệm trong công tác lại chủ yếu ở xa trường, con còn nhỏ do đó ít nhiều
ảnh hưởng đến công việc được giao.
Các điều kiện phục vụ dạy học thiếu, chưa đủ điều kiện cần thiết
cho việc thực hành của học sinh, chứng minh chất lượng của giáo viên, nhất là
đối với công cuộc đổi mới phương pháp hiện nay.
Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một bộ phận cha mẹ học sinh
chưa quan tâm đến con cái. Đời sống của một bộ phận cán bộ giáo viên còn
thấp, chủ yếu phụ thuộc vào lương cơ bản.
2.3.2. Một số kinh nghiệm
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban
Nhân dân tỉnh Thái Bình mà trực tiếp là Sở GDĐT Thái Bình trong những
năm qua việc nâng cao chất lượng cán bộ giáo viên ở trường THPT Đông
Tiền Hải huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình có được kết quả đáng ghi nhận.
Kết quả đó cũng là nhờ sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, đảng viên,
đội ngũ giáo viên, công nhân viên nhà trường. Tổng kết công tác nâng cao chất
24
lượng đội ngũ cán bộ giáo viên trong những năm qua của nhà trường, tác giả
rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu:
Một là: Phải thường xuyên xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất
trong chi bộ Đảng, nắm vững các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, vận dụng đúng đắn tư tưởng, tấm gương đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh để đề ra mục tiêu, giải pháp cho phù hợp với điều
kiện của nhà trường.
Hai là: Đội ngũ cán bộ chủ chốt phải tự học tập, rèn luyện và nâng
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề…
Ba là: Khi triển khai chỉ thị, nghị quyết cần gắn với thực tế, theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc, khuyến khích và giúp đỡ quần chúng thực hiện. Sơ kết,
tổng kết, tuyên dương, nhân rộng những điển hình tiên tiến, khích lệ khen
thưởng kịp thời.
Bốn là: trong hoạt động quản lý cần có những chủ trương biện pháp
thích hợp để quản lý cán bộ, giáo viên, công nhân viên, có động viên, khen
thưởng và có phê bình kỷ luật để từ đó khuyến khích cán bộ, nhân viên tích
cực trong công tác cũng như trong mọi hoạt động phong trào của nhà trường.
Năm là: Công tác thông tin, tuyên truyền vận động các đoàn thể, các tổ
chức xã hội quan tâm đến giáo dục, tạo thêm động lực mới cho giáo dục và
kịp thời chăm lo, quan tâm tới đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên.
Sáu là: Nhà trường phải nâng cao chất lượng dạy học, tạo được niềm
tin cho nhân dân địa phương, trong cha mẹ học sinh đồng thời là động lực để
thu hút được cán bộ giáo viên ưu tú ngày càng gắn bó và tận tâm với công tác
giáo dục của nhà trường.
Bảy là: Chọn những cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất tốt,
nhiệt tình để làm nòng cốt trong đổi mới giáo dục, tập hợp đội ngũ cán bộ
giáo viên trong tình hình mới thực sự phải dựa vào cán bộ cốt cán để xây
dựng Chi bộ đảng, trong sạch, vững mạnh.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ GIÁO VIÊN VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI.
25