Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Nho giáo theo quan điểm Hồ Chí Minh potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.2 KB, 5 trang )

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới hơn 4000 năm phát triển, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử về nhiều
lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của
văn minh nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến
nền văn minh Châu Á cũng như trên toàn thế giới. Điển hình là học thuyết Nho giáo
và người phát khởi là Khổng Tử. Từ đó, Nho giáo chính thức trở thành hệ tư tưởng
độc tôn trong xã hội phong kiến. Nho giáo có sức ảnh hưởng to lớn trong hệ tư tưởng
của người Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Trong lịch sử dân tộc ta, có nhiều vị
vua, nhiều nhà chính trị, quân sự, ngoại giao lỗi lạc đã vận dụng tư tưởng Nho giáo
vào công cuộc chấn hưng đất nước theo hướng tích cực như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bính, Lê Quý Đôn, Ngô Thị Nhậm, Phan Bội Châu….nhưng người
tiếp thu, vận dụng Nho giáo một cách nhuần nhuyễn nhất, thành công nhất là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Rất nhiều khái niệm đạo đức của Nho giáo đã được Người sử dụng
nhưng với mục đích mới, nội dung mới. Những nhân tố tiến bộ, hợp lý trong đạo đức
Nho giáo đã được Người sử dụng để xây dựng một nền tảng đạo đức mới, vượt xa đạo
đức cũ. Điển hình là Người đưa ra quan điểm Nhân cách của Nho giáo như sau:
Giàu sang không phóng túng.
Nghèo khó không hèn mọn.
Uy vũ không khuất phục.
Từ lâu hệ tư tưởng Nho giáo đã in dấu sâu sắc trong thời niên thiếu của Hồ Chí
Minh. Cha của Bác là một vị đại Nho – cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Bác sinh ra và
lớn lên tại một vùng văn hoá Hán học suy tàn:
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
(Tú Xương)
Trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ”, nền văn hóa Phương Tây dần du nhập vào
nước ta, nhưng riêng vùng đất văn hoá này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của
Nho giáo vẫn được cố thủ. Lúc thiếu niên, Bác đã học chữ Hán trong đó có Nho giáo.
Trình độ Hán học của Bác được thể hiện cụ thể qua tác phẩm điển hình Nhật ký trong
tù là đỉnh cao nhất. Trong Nhật ký trong tù, ảnh hưởng của Nho giáo không phải
không có nhưng là gián tiếp vì dù sao đây là tiếng nói của thơ chứ không là văn chính


luận, cái gọi là ảnh hưởng của Nho giáo đối với Bác thể hiện rõ nhất trong nhiều bài
viết của mình tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn một trăm
trường hợp, trong đó lời Khổng Mạnh chiếm nhiều nhất.
Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của thế giới, con người vĩ đại của dân tộc
Việt Nam đả tiếp thu truyền thống văn hóa tinh hoa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và
nhiều câu chuyện Nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế của
Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã sáng lập và giáo dục
Đảng ta với phương châm “Lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo của nhân dân ta
trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa
người tài để đảm đương việc nước. Qua hai cuộc kháng chiến Người đã nhắc nhở rất
1 | P a g e
nhiều câu chữ Nho giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức,
về nhân cách con người Việt Nam. Người đã mượn câu nói của Mạnh Tử để nêu lên
khí phách của con người cách mạng:
Giàu sang không phóng túng.
Nghèo khó không hèn mọn.
Uy vũ không khuất phục.
Đây cũng chính là câu nói của Mạnh Tử trong Thiên Đằng Văn Công:
Phú quý bất năng dâm
Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất
Tạm dịch là: Đại trượng phu là người giàu sang không thể làm cho sa đoạ,
nghèo hèn không thể làm thay đổi ý chí, uy lực không thể khuất phục nổi. Tính quả
quyết dứt khoát của câu nói và cái sức mạnh đơn giản mà tuyệt đối thoát ra từ ngôn
ngữ chắc như đinh đóng cột ấy rõ ràng đã làm cho chúng ta thấy nhân cách cao cả của
người cách mạng. Một người quân tử đích thực sẽ không bao giờ bị chi phối bởi sự
giàu sang, nghèo khó, quyền lực. Chỉ trong khi bị sự giàu sang quyến rũ, bị sự bần
tiện gây sức ép, bị uy vũ doạ dẫm thì mới có thể kiểm tra,
Trong tâm của đại trượng phu xuất thế thì chẳng có giàu sang, mà cũng chẳng
có nghèo hèn, cũng chẳng có quan niệm về giai cấp, về quyền lực; quan niệm về mình

về người cũng chẳng còn nữa; trong tâm chẳng còn gì, quan niệm về uy vũ chẳng có,
những chuyện thế gian đã được gội sạch, chỉ còn lại là cái phong thái đội trời đạp đất,
thông suốt thiên địa, trong cái hào khí triền miên, và cái thái độ chính đại quang minh
đầy ắp vũ trụ. Mọi ý niệm phải trái của người với của ta đã im bặt, những chuyện dính
mắc thuộc loại này không còn nữa. Vậy thì người đó còn sự hiểu biết chăng? Còn hiểu
biết. Cái gì cũng hiểu biết cả có điều là họ không đi ngược lại đạo lý. Những bậc đại
trượng phu ấy, họ nhờ vào cái gì vậy mà có thể "giàu sang không dâm, nghèo hèn
không đổi, quyền uy không thể khuất phục"? Bởi trong tâm của họ không còn cặn bã,
không có thứ gì làm vẩn đục tâm của họ.
Tấm gương điển hình đó là Giáo sư Nguyễn
Xiển - một bậc trí giả của thế kỷ XX. Phải chăng tạo
hoá đã hào hiệp cho ông được hưởng “đại thọ cửu
tuần” (1907-1997), khiến cho cuộc đời ông trải dài gần
trọn thế kỷ XX, một thế kỷ đầy biến động của hai cuộc
chiến tranh thế giới với những tổn thất về người và của
khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử loài người,
rồi những cuộc cách mạng dữ dội lan tràn từ Âu sang
Á rung chuyển cả địa cầu, những cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc đầy hy sinh quả cảm,
Ông là một hình ảnh tiêu biểu của giới trí thức
nước ta đã phải trăn trở “nhận đường” trước những
2 | P a g e
khúc ngoặt, lối rẽ của lịch sử, tự mình tìm lời đáp cho bao câu hỏi khó, hoàn toàn mới
của thế kỷ XX.
Sinh ra và lớn lên trong một dòng họ danh nho xứ Nghệ, ông nội và cha đều đỗ
cử nhân nho học, tham gia các phong trào Cần vương và Văn thân chống Pháp, anh
ruột là một chiến sĩ Xô-viết Nghệ - Tĩnh, Giáo sư Nguyễn Xiển mang trong mình
huyết thống yêu nước và khí tiết kẻ sĩ “giàu sang không phóng túng, nghèo khó không
hèn mọn, uy vũ không khuất phục”. Những năm theo học bậc đại học tại Paris,
Toulouse, ông chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cuộc Cách mạng

Pháp. Ông khâm phục lòng yêu nước nhiệt thành của nhà cách mạng Hồ Chí Minh;
quen biết, gần gũi những sinh viên cộng sản trẻ tuổi như Trần Văn Giàu, Phan Tư
Nghĩa
Tháng 8-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, tình hình biến chuyển mau lẹ. Rời
Đài Thiên văn Phù Liễn, ông đạp xe một mạch từ Kiến An, qua Hải Phòng, Hải
Dương về Hà Nội, đúng vào lúc quần chúng đang bao vây Bắc Bộ phủ. Bọn bảo an
binh bên trong đang chờ lệnh nổ súng.
“Tôi liền dựng xe đạp, vượt qua hàng rào sắt - Giáo sư kể lại - vào gặp ông
Nguyễn Văn Chữ (người vừa được Nhật đưa lên thay Khâm sai đại thần Phan Kế
Toại đã lui về quê ở làng Mông Phụ, Hà Đông) và nói với ông ta: “Nhật đầu hàng
rồi, quần chúng đang bao vây Bắc Bộ phủ, các anh chống thế nào được? Để tránh đổ
máu, anh nên ra gặp họ đi!” Sau đó, ông Chữ ra, còn tôi lên xe, đạp thẳng về nhà.
Vài hôm sau, các ông Trần Đăng Ninh, Vũ Đình Huỳnh, Phan Tư Nghĩa đến vận động
tôi ra làm việc cho Chính phủ mới. Tôi đến trước cửa Bắc Bộ phủ, thì gặp cụ Nguyễn
Văn Tố. Cụ tươi cười bảo tôi: “Xin chúc mừng ngài! Ngài và tôi là hai trí thức Hà
Nội đầu tiên được mời vào Chính phủ. Tôi đã nhận Bộ Cứu tế - Xã hội. Đề nghị ngài
cũng nên nhận Bộ Giao thông - Công chính.” Sau đó, tôi vào gặp ông Võ Nguyên
Giáp. Ông Giáp cũng đề nghị với tôi đúng như vậy. Nhưng tôi từ chối vì chỉ muốn làm
chuyên môn, và đề cử các kỹ sư Trần Đăng Khoa, Đặng Phúc Thông ”.
Thật ra, con một lý do nữa khiến ông từ chối. Ông sợ người đời cho ông “xu
thời”!
Hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân mời ông đến. Nghe ông trình bày về
sự do dự của mình, Chủ tịch ôn tồn nói:
- Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Huống chi ngài là người học cao,
ngài không làm thì ai làm!
- Nhưng, thưa cụ Chủ tịch, tôi không quen làm quản lý!
- Thì có ai quen đâu! Vì sự nghiệp chung mà người ta gắng sức cả thôi!
Lòng chân thành của Bác đã cảm hoá ông. Bác đề nghị ông đảm đương trọng
trách Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ kiêm Giám đốc Nha Khí tượng. Ông không
dám phụ lòng tin của Bác. Là Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ, ông phải lo ngay

việc chống lụt trên toàn vùng lãnh thổ 13 tỉnh. Do có ảnh hưởng trong các kỹ sư công
chính và các nhà thầu khoán, ông chân thành mời họ ra làm việc cho cách mạng. Lúc
đó, ông làm không lương. Ông đề đạt lên Chủ tịch Hồ Chí Minh kế hoạch sử dụng cả
thầu khoán và thợ đấu. Tuy bị một số nhà cách mạng trẻ tuổi coi là kẻ bóc lột, nhưng
thầu khoán vừa quen việc, lại vừa có tiền ứng trước - điều này quan trọng lắm, khi
ngân khố nhà nước rỗng không. Nghe ông trình bày, Bác Hồ cười hiền hậu: “Thầu
3 | P a g e
khoán giúp dân chống lụt lúc này là yêu nước.”Tấm lòng bao dung của Bác làm cho
ông tin tưởng.
Chính Bác đã thức tỉnh truyền thống yêu nước âm ỉ trong lòng một người trí
thức xứ Nghệ, khiến ông mạnh bước theo cách mạng, kháng chiến
“Các cụ chiến đấu dựng lên giữa lòng đường, góc phố - ông kể lại. Các nhà
đục thông tường sang nhau. Dân nội thành nườm nượp tản cư ra khỏi thành phố. Tôi
cũng cho gia đình tản cư về Hưng Giao, Thanh Oai, lúc đó thuộc tỉnh Hà Đông. Nhà
tôi sinh một cháu gái tại đây trong những ngày đầu kháng chiến. Còn tôi ở lại Thủ đô
một mình và luôn thay đổi chỗ ở ( ). Đêm 19-12-1946, Pháp cho quân đến vây bắt
tôi tại nhà riêng ở phố Lý Thái Tổ bây giờ. Anh bảo vệ nhà tôi bị chúng bắn chết! Bác
sĩ Nguyễn Văn Luyện cũng bị Pháp đến nhà vây bắt. Cha con ông kiên quyết chiến
đấu và đã hy sinh anh dũng
Sáng hôm sau, tôi được đi chuyến ô-tô cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban Hành
chính Bắc Bộ lên Sơn Tây họp Hội nghị Kháng chiến - Hành chính toàn quốc lần đầu
tiên. Sau đó, chuyển sang đi xe đạp và đi bộ gần tám năm trời, cho đến ngày giải
phóng Thủ đô (10-10-1954) ”.
Giáo sư Nguyễn Xiển từng tâm sự:
“Bác Hồ bảo tôi làm gì, tôi làm nấy, chẳng dám từ nan. Từ hàn đê, đắp đê, dự
báo thời tiết, chống lũ lụt, dạy học, nghiên cứu và phổ biến khoa học - kỹ thuật , cho
đến cứu tế - xã hội, Mặt trận, Quốc hội, đối ngoại ”.
Ngay sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945),
Giáo sư Nguyễn Xiển đã đề nghị Chính phủ cử một đoàn đại biểu đến bái yết các bậc
tiên thánh, tiên hiền ở Văn Miếu, Hà Nội. Bác Hồ hết sức tán thành, liền cử ngay cụ

Huỳnh Thúc Kháng dẫn đầu đoàn, trong đoàn có các ông Nguyễn Xiển, Trần Đăng
Khoa Quyết định của Bác khiến Giáo sư Nguyễn Xiển hết sức xúc động.
Vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946, Uỷ ban Hành chính Phú Thọ đề nghị
Chủ tịch Hồ Chí Minh cử một đoàn đại biểu Chính phủ lên dự Ngày hội đền Hùng đầu
tiên sau khi nước nhà giành được độc lập. Lần này cũng vậy, Bác cử cụ Huỳnh Thúc
Kháng cùng các ông Nguyễn Xiển, Trần Đăng Khoa

“Hồi ấy, các cơ sở Quốc dân đảng hoạt động mạnh ở Phú Thọ - Giáo sư
Nguyễn Xiển kể lại. Đoàn đi như thế là hết sức mạo hiểm. Nhưng nhờ có cụ Huỳnh,
nên bọn họ không dám manh động. Tiếc là lúc bấy giờ Chính phủ không sẵn máy ảnh,
máy quay phim để ghi lại những hoạt động tưởng chừng bình thường nhưng hết sức
có ý nghĩa như vậy”.
Xuất thế hay xử thế luôn là câu hỏi khó đối với các bậc sĩ phu thuở trước, cũng
như những người trí thức lớn thời nay, nhất là ở những khúc ngoặt của lịch sử. Được
Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm hoá, Giáo sư Nguyễn Xiển đã chọn xử thế. Và năm tháng
đã chỉ ra rằng đó là sự lựa chọn đúng đắn của ông – bậc đại trượng phu đáng kính.
Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia một phần
vào sự nhào nặn cái diện mạo tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc ta. Từ Nho giáo
chuyển sang Chủ nghĩa Mác – Lênin qua một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, từ
một hệ tư tưởng duy tâm lấy ý chí con người làm gốc chuyển sang chủ nghĩa duy vật
4 | P a g e
với phương pháp khoa học. Tư tưởng tôn ti trật tự gia trưởng chuyển sang dân chủ, từ
dân tộc snag tư tưởng Mác xít phải đòi hỏi một quá trình dai dẳng. tất nhiên rất nhiều
điểm trong Nho giáo đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, thậm chí là phản động đang kìm hãm
quá trình phát triển của dân tộc ta nhất là tại các khu vực nông thôn, vùng sâu vùng
xa, miền núi,… Tuy nhiên, chúng ta không hề hổ thẹn khi nói rằng chúng ta đi lên chủ
nghĩa xã hội là kế tục truyền thống nhà Nho xưa, và nếu ghét cay ghét đắng chế độ
phong kiến khi đã thối nát thì cũng không thể không trân trọng đến kẻ sĩ đời trước,
nếu học thuyết tư tưởng ngày nay của chúng ta hơn hẳn thế hệ các sĩ phu thời trước,
nhưng về nhân cách vẫn còn phải học nhiều câu như:

Giàu sang không phóng túng.
Nghèo khó không hèn mọn.
Uy vũ không khuất phục.
5 | P a g e

×