Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.05 KB, 4 trang )
Chăn nuôi heo ở quảng ngãi thực
trạng và hướng phát triển
Quảng Ngãi có hơn 80% dân số làm nông nghiệp, nghề chăn nuôi
đã góp phần đáng kể vào thu nhập của nông hộ. Trong chăn nuôi
gia súc thì chăn heo phát triển tương đối khá, tốc độ phát triển cả
thời kỳ 1994 - 2005 là 4,48%/năm. riêng giai đoạn 1994 - 2000
phát triển có phần chậm lại và không ổn định, bình quân giai đoạn
này là 2,08%. Giai đoạn từ năm 2000- 2005 chăn nuôi heo phát
triển nhanh hơn, bình quân 7,45%/ năm. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế nước nhà, kinh tế tỉnh Quảng Ngãi phát triển nhanh
hơn nên sức tiêu dùng thịt cũng tăng lên, dẫn đến giá thịt heo hơi
có thời điểm từ 14.000đ- 16.000đ/ kg.
Tổng đàn heo năm 2005 là 576.570 con, trong đó đàn heo nái
105.316 con, chiếm 18,27%, heo thịt là 105.316 con, chiếm
18,27%, còn lại là heo choai sau cai sữa chiếm 63,46%. Đàn heo
tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng chiếm trên 80% tổng đàn
heo của tỉnh. Tuy vậy, nguồn thu nhập từ chăn nuôi heo hiện nay
vẫn chưa xứng với tiềm năng có thể khai thác được, mà điểm hạn
chế là chất lượng con giống. Thực trạng giống heo ở Quảng Ngãi
như sau:
- Các giống heo có tỉ lệ nạc cao như Yorshire, Đại bạch, Landrace .
. . chiếm tỉ lệ thấp so với tổng đàn (khoảng 10 - 15%).
- Các giống heo nuôi thịt kiêm dụng mỡ- nạc, phần lớn là con lai
F1, F2 hoặc F3 (máu Yorshire khoảng 50- 70%) trở lên.
- Đàn heo nái chủ lực là heo giống Móng Cái nhập từ miền Bắc và
nuôi nái lai tạo với các giống heo ngoại tạo ra con lai F1 nuôi thịt
và một số hộ nuôi thuần để thay thế đàn nái địa phương. Ngoài ra ở
một số huyện đồng bằng của tỉnh dùng con lai F1 làm nái cho lai
tạo với heo đực ngoại tạo ra con lai F2 nuôi thịt.
- Heo cỏ (địa phương) nhóm heo này vẫn còn ở các huyện miền
núi vì dễ nuôi, thịt ngon nên dù năng suất thấp nhưng vẫn được