Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

luận văn xây dựng và lựa chọn hệ thống bài tập tự luận và trắc nghiệm khách quan dùng để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần hoá học hữu cơ lớp 12 nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 132 trang )

TRƯỜNG………………………
KHOA……………………








BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

Xây dựng và lựa chọn hệ thống bài tập tự luận và
trắc nghiệm khách quan dùng để phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học phần hoá
học hữu cơ lớp 12 nâng cao















1
PHẦN I: MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
với cộng đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới
nền giáo dục là trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là con người. Công
cuộc đổi mới này đòi hỏi nhà trường phải tạo ra những con người lao động năng
động, sáng tạo làm chủ đất nước, tạo nguồn nhân lực cho một xã hội phát triển.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 ( khoá VII) đã xác định: phải
khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để
bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Định hướng này đã được pháp chế hoá trong luật Giáo dục điều 24.2,
trong Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT: Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Đổi mới phương pháp học tập nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo và
năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, ngoại
khoá, làm chủ kiến thức tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay…. Chính vì thế
trong thời gian gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích giáo viên sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm hoạt động hoá người học.
Năm học 2008 -2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai trên phạm vi
toàn quốc chương trình sách giáo khoa lớp 12 mới THPT và năm học với

2

nhiệm vụ được xác định là “Năm học đẩy mạnh công nghệ thông tin, xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục là phát triển tư duy cho học sinh ở mọi bộ môn, trong đó có bộ môn
hoá học. Hoá học là môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết, vì thế bên cạnh
việc nắm vững lý thuyết, người học cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo
mọi vấn đề thông qua hoạt động thực nghiệm, thực hành giải bài tập.
Một trong những phương pháp dạy học tích cực là sử dụng bài tập hoá học
trong hoạt động dạy và học ở trường phổ thông. Bài tập hoá học đóng vai trò
vừa là nội dung vừa là phương tiện để chuyển tải kiến thức, phát triển tư duy
và kỹ năng thực hành bộ môn một cách hiệu quả nhất. Bài tập hoá học không
chỉ củng cố nâng cao kiến thức, vận dụng kiến thức mà còn là phương tiện để
tìm tòi, hình thành kiến thức mới. Rèn luyện tính tích cực, trí thông minh sáng
tạo cho học sinh, giúp các em có hứng thú học tập, chính điều này đã làm cho
bài tập hoá học ở PT giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy và học hoá
học, đặc biệt là sử dụng hệ thống bài tập để phát huy tính tích cực của học
sinh trong quá trình dạy học.
Đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu các vấn đề về bài tập hoá
học và cũng có nhiều công trình được áp dụng ở mức độ khác nhau. Tuy
nhiên hệ thống bài tập hoá học lớp 12 NC phần hóa học hữu cơ và việc
nghiên cứu sử dụng chúng để phát huy tính tích cực của học sinh vẫn còn là
cái mới. Với mong muốn tìm hiểu và sử dụng hiệu quả các bài tập hoá học
nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trung học phổ thông, tôi đã lựa chọn đề
tài “Xây dựng và lựa chọn hệ thống bài tập tự luận và trắc nghiệm khách
quan dùng để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần hoá
học hữu cơ lớp 12 nâng cao trƣờng THPT”

3
Đây là hệ thống bài tập tự luận và trắc nghiệm dùng để hình thành khái
niệm mới, củng cố kiến thức, nâng cao kiến thức rèn kỹ năng tư duy logic và

để kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh trên lớp.
II. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực áp dụng trong môn hóa học.
-Thiết kế, xây dựng và tuyển chọn hệ thống bài tập tự luận và trắc nghiệm
thuộc chương trình hoá học lớp 12 nâng cao dùng để phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học phần hoá học hữu cơ lớp 12 NC trƣờng THPT
và dùng để củng cố, nâng cao kiến thức, đánh giá kết quả học tập của học
sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học hoá học trong giai đoạn hiện nay.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của các phương pháp dạy học tích cực.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bài tập hóa học:
+ Trắc nghiệm tự luận.
+ TNKQ.
- Nghiên cứu mục tiêu, nội dung chương trình và sách giáo khoa hoá
học lớp 12 nâng cao.
- Tuyển chọn xây dựng hệ thống bài tập tự luận và TNKQ dạng nhiều
lựa chọn theo chương trình hoá học lớp 12 NC dùng để phát huy tính tích
cực của học sinh.
- Nghiên cứu sử dụng hệ thống bài tập trên để phát huy tính tích cực
của học sinh trong quá trình dạy học hóa học lớp 12NC.
- Thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả của hệ thống bài tập đã
xây dựng.
- Xử lý kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.
IV. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống bài tập hoá học phần hữu cơ lớp 12
NC nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.

4
V. Giả thuyết khoa học

Nếu giáo viên nắm được nội dung phương pháp dạy học tích cực thì sẽ
biết cách thiết kế và sử dụng bài tập tự luận và TNKQ trong giảng dạy một
cách có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học hóa học, phát
triển tư duy, trí thông minh, phát huy tính tích cực của học sinh đáp ứng yêu
cầu cao về chất lượng học tập.
VI. Phƣơng pháp nghiên cứu
a. Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và
đào tạo có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học
và các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa hoá học THPT đặc biệt là
chương trình hoá học lớp 12 NC phần hóa học hữu cơ.
- Căn cứ vào nhiệm vụ đề tài, dựa trên chương trình hoá học 12 nâng
cao, dựa trên cơ sở lý thuyết về câu hỏi TN để xây dựng hệ thống bài tập tự
luận và TNKQ nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của HS khi học phần
hóa học hữu cơ lớp 12 NC.
b. Nghiên cứu thực tiễn
Thăm dò trao đổi ý kiến với các giáo viên dạy hoá THPT về nội dung,
hình thức diễn đạt, số lượng câu hỏi tự luận và TNKQ của mỗi bài học và sử
dụng trong quá trình dạy học.
c. Thực nghiệm sư phạm
- Đánh giá hiệu quả sử dụng hệ thống bài tập tự luận và TN để phát
huy tính tích cực của học sinh trong học tập.
- Xử lý kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.

5
VII. Điểm mới của đề tài
- Lần đầu tiên tuyển chọn và biên soạn hệ thống bài tập tự luận và
TNKQ theo các mức độ biết, hiểu, vận dụng thuộc chương trình hoá học 12

NC, phần hóa học hữu cơ.
- Đề xuất phương hướng sử dụng hệ thống bài tập này nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
- Góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa và tác dụng của BTHH trong quá trình
phát triển tư duy và phát huy tính tích cực của HS trong dạy học hoá học THPT.
VIII. Phạm vi ứng dụngcủa đề tài
- Sử dụng trong quá trình dạy học hóa học lớp 12NC phần hóa học hữu cơ.
- Dùng để củng cố và nâng cao kiến thức, kỹ năng hoá học của học
sinh lớp 12 nâng cao sau mỗi bài học.
- Dùng trong kiểm tra- đánh giá kiến thức hoá học của học sinh lớp 12
NC phần hóa học hữu cơ.


6
PHẦN II:NỘI DUNG

CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

I.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC
I.1.1. Tính tích cực nhận thức [36]
I.1.1.1. Tính tích cực nhận thức
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người không
chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất ra
những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, chủ
động cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội.
Hình thành và phát triển tính tích cực là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần
phát triển xã hội.
I.1.1.2. Tính tích cực học tập

Tính tích cực con người được thể hiện trong hoạt động, đặc biệt trong
những hoạt động chủ động của chủ thể.
Tính tích cực trong hoạt động học tập, về thực chất là tính tích cực nhận
thức và được đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận thức
trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết đến mà
nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích luỹ được. Tuy nhiên, trong
học tập học sinh cũng “khám phá” ra những hiểu biết mới đối với bản thân
dưới sự tổ chức và hướng dẫn của GV.
Học sinh sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động
nỗ lực của chính mình. Nhưng khi đạt tới một trình độ nhất định thì sự học tập
tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng có thể tạo ra
những tri thức mới cho khoa học.

7
I.1.1.3. Những dấu hiệu của tính tích cực học tập
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:
- Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên đặt ra, tích cực bổ sung
các câu trả lời của bạn.
- Thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra và có lập luận
để bảo vệ ý kiến đó.
- Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ
và đi sâu vào bản chất của sự kiện.
- Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
- Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước những tình
huống khó khăn….
Tính tích cực học tập được sắp xếp theo những cấp độ từ thấp đến cao như:
- Bắt chước: gắng sức là theo các mẫu hành động của thầy, của

bạn…. Bắt chước thường được biểu hiện trong các tiết thực hành: học sinh bắt
chước các kĩ năng biểu diễn thí nghiệm của giáo viên và khi đạt được ở mức
độ cao hơn thì biến thành kỹ năng của mình.
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một vấn đề…, được biểu hiện khi học sinh tự giải bài tập
hoá học hay tự tiến hành thí nghiệm theo hướng nghiên cứu….
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tính tích cực trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ
học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính
tích cực tạo ra nếp tư duy độc lập. Tư duy độc lập là mầm mống của sáng tạo.
Sự biểu hiện và cấp độ từ thấp đến cao của tính tích cực học tập, mối liên
quan giữa động cơ và hứng thú trong học tập được diễn đạt trong sơ đồ sau:


8


























I.1.1.4. Nhng nguyờn tc s phm cn m bo nõng cao tớnh
tớch cc nhn thc cho hc sinh
Qua nhng c s lý lun trờn ta nhn thy mun nõng cao tớnh tớch cc
nhn thc ca hc sinh cn dm bo nhng nguyờn tc sau:
- Vic dy hc phi c tin hnh mc gng sc i vi HS.
Cn phi lụi cun hc sinh vo hot ng nhn thc tớch cc, kớch thớch s
ham hiu bit ca hc sinh, cú chỳ trng n nng lc v kh nng ca hc
sinh sao cho mi hc sinh phi huy ng ht mc trớ lc ca mỡnh. Giỏo viờn
khụng nờn lm cho hot ng hc tp tr nờn khú khn vi hc sinh bng bi
- Khao khát học,hăng
hái trả lời câu hỏi
- Hay nêu thắc mắc
- Chủ động vận dụng
- Tập trung chú ý
- Kiên trì
Biểu hiện


- Bắt ch-ớc
- Tìm tòi

- Sáng tạo
Cấp độ
Động cơ
Hứng thú
Tự giác
Sáng tạo
tích cực
độc lập
Tích cực học
tập

9
tập tình huống khó mà phải tạo cho học sinh một chướng ngại nhận thức bằng
những bài tập sáng tạo và rèn luyện ý chí nhận thức.
- Việc nắm vững kiến thức lý thuyết phải chiếm ưu thế. Cần giúp học
sinh nắm vững một cách sâu sắc nội dung lý thuyết, đi sâu vào bản chất của
các hiện tượng và các chất nghiên cứu nhằm lĩnh hội những quan điểm và
khái niệm quan trọng nhất. Nội dung lý thuyết, khái niệm là cơ sở cho tư duy
hoạt động trí tuệ.
- Trong quá trình dạy học phải duy trì nhịp độ khẩn trương của việc
nghiên cứu tài liệu, còn những kiến thức đã lĩnh hội sẽ được củng cố khi
nghiên cứu kiến thức mới. Qua thực tế đã chứng minh việc dừng lại lâu để
nghiên cứu một nội dung học tập sẽ chóng làm học sinh mệt mỏi vì tính chất
đơn điệu của nó, nên khi học sinh đã hiểu một số vấn đề rồi thì phải chuyển
sang nghiên cứu vấn đề khác. Như vậy hoạt động của học sinh sẽ được liên
tục, không bị nhàm chán.
- Trong dạy học phải tích cực chăm lo sự phát triển trí tuệ của tất cả các
đối tượng học sinh (khá giỏi, trung bình, yếu kém). Giáo viên điều khiển, chỉ đạo
hoạt động trí tuệ của học sinh theo năng lực của họ làm cho học sinh tư duy tích
cực để vượt qua chướng ngại nhận thức bằng hoạt động tự lực, độc lập.

Như vậy những nguyên tắc trên đều hướng tới các hoạt động điều khiển
của giáo viên nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong đó
có chú trọng đến việc dạy học sinh phương pháp học tập, phương pháp hoạt
động trí tuệ, hình thành năng lực giải quyết vấn đề và khả năng tự đánh giá
kết quả học tập của mình.
I.1.2. Phƣơng hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học hoá học
I.1.2.1. Khái niệm phƣơng pháp dạy học [16]
Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của
giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục
đích dạy học.

10
I.1.2.2. Phƣơng hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học hoá học [36]
Từ thực tế của ngành giáo dục, cùng với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển đất nước chúng ta đang tiến hành đổi mới phương pháp
dạy học chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của HS, coi học
sinh là chủ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.
Nguyên tắc này đã được nghiên cứu, phát triển mạnh mẽ trên thế giới và được
xác định là một trong những phương hướng cải cách giáo dục phổ thông Việt
Nam. Những tư tưởng, quan điểm, những tiếp cận mới thể hiện nguyên tắc
trên đã được chúng ta nghiên cứu, áp dụng trong dạy học các môn học và
được coi là phương pháp dạy học tích cực.
Những quan điểm, những tiếp cận mới dùng làm cơ sở cho việc đổi
mới phương pháp dạy học hoá học:
a. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Đây là một quan điểm được đánh giá là tích cực vì hướng dạy học chú
trọng đến người học để tìm ra những phương pháp dạy học có hiệu quả. Quan
điểm này đã chú trọng các vấn đề:
- Về mục tiêu dạy học: Chuẩn bị cho HS thích ứng với đời sống, xã hội.
Tôn trọng nhu cầu, hứng thú, khả năng và lợi ích của HS.

- Về nội dung: Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng thực hành, vận
dụng kiến thức, năng lực giải quyết vấn đề học tập và thực tiễn, hướng vào sự
chuẩn bị thiết thực cho HS hoà nhập với xã hội.
- Về phương pháp: Coi trọng rèn luyện cho HS phương pháp tự học, tự
khám phá và giải quyết vấn đề, phát huy sự tìm tòi tư duy độc lập sáng tạo của
HS thông qua các hoạt động học tập. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là
phương pháp tự học. Học sinh chủ động tham gia các hoạt động học tập. Giáo
viên là người tổ chức, điều khiển, động viên, huy động tối đa vốn hiểu biết,
kinh nghiệm của từng HS trong việc tiếp thu kiến thức và xây dựng bài học.

11
- Về hình thức tổ chức: Không khí lớp học thân mật tự chủ, bố trí lớp
học linh hoạt phù hợp với hoạt động học tập, đặc điểm của từng tiết học.
- Về kiểm tra đánh giá: Giáo viên đánh giá khách quan, học sinh tham
gia vào quá trình nhận xét đánh giá kết quả học tập của mình (tự đánh giá),
đánh giá nhận xét lẫn nhau. Nội dung kiểm tra chú ý đến các mức độ: biết,
hiểu, vận dụng.
- Kết quả đạt được: Tri thức thu được vững chắc bằng con đường tự tìm
tòi, học sinh được phát triển cao hơn về nhận thức, tình cảm, hành vi, tự tin
trong cuộc sống.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm đặt vị trí của người học vừa là chủ
thể, vừa là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học, phát huy tối đa những
tiềm năng của từng người học. Do vậy vai trò tích cực, chủ động, độc lập sáng
tạo của người học được phát huy. Người giáo viên đóng vai trò là người tổ
chức, hướng dẫn động viên các hoạt động độc lập của học sinh, đánh thức các
tiềm năng của mỗi học sinh giúp họ chuẩn bị tham gia vào cuộc sống.
Như vậy bản chất của “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” là đặt
người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, chú trọng đến những
phẩm chất, năng lực riêng của mỗi người, họ vừa là chủ thể vừa là mục đích
cuối cùng của quá trình dạy học, phấn đấu cá thể hoá quá trình dạy học để cho

các tiềm năng của mỗi cá nhân được phát huy tối đa. Tư tưởng của quan điểm
này đã được thể hiện qua các định hướng chỉ đạo hoạt động dạy học ở nước ta
với các phong trào: “ Tất cả vì học sinh thân yêu”, “ Thầy chủ đạo, trò chủ
động”, “ Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, “học sinh là chủ
thể sáng tạo trong học tập”.
b. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hoá người học
Định hướng hoạt động hoá người học đã chú trọng đến việc giải quyết
vấn đề dạy học thông qua hoạt động tự giác tích cực và sáng tạo của người

12
học, hình thành công nghệ kiểm tra đánh giá, sử dụng phương tiện kĩ thuật,
đặc biệt là công nghệ thông tin trong quá trình dạy học.
Theo định hướng hoạt động hoá người học các nhà nghiên cứu đã đề xuất:
- Học sinh phải được hoạt động nhiều hơn và trở thành chủ thể hoạt
động đặc biệt là hoạt động tư duy.
- Các phương pháp dạy học hoá học phải thể hiện phương pháp nhận
thức khoa học hoá học như: thực nghiệm hoá học, phân tích lí thuyết, dự đoán
lí thuyết, mô hình hoá… và tận dụng khai thác nét đặc thù của môn hoá học để
tạo ra các hình thức hoạt động đa dạng phong phú của học sinh trong giờ học.
- Chú trọng dạy học sinh phương pháp tự học, phương pháp tự nghiên
cứu trong quá trình học tập.
Nét đặc trưng cơ bản của định hướng hoạt động hoá người học là sự
học tập tự giác và sáng tạo của học sinh. Để học sinh học tập tích cực, tự giác
cần làm cho học sinh biết biến nhu cầu của xã hội thành nhu cầu nội tại của
bản thân mình. Để có tư duy sáng tạo thì phải tập luyện hoạt động sáng tạo
thông qua học tập. Như vậy ngay trong bài học đầu tiên của môn học phải đặt
học sinh vào vị trí của người nghiên cứu, người khám phá, chiếm lĩnh tri thức
mới và coi việc xây dựng phong cách “ học tập sáng tạo” là cốt lõi của việc
đổi mới phương pháp dạy học.
Biện pháp hoạt động hoá người học áp dụng trong dạy học hoá học là:

- Khai thác nét đặc thù môn hoá học tạo ra các hình thức hoạt động đa
dạng, phong phú của học sinh trong giờ học như:
+Tăng cường sử dụng thí nghiệm hoá học, các phương tiện trực quan
(mô hình, tranh vẽ…), phương tiện kĩ thuật trong dạy học hoá học (máy
chiếu, máy tính, các phần mềm dạy học…).
+ Trong giờ học cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức hoạt động
phong phú của học sinh như: thí nghiệm, dự đoán lí thuyết, mô hình hoá, giải
thích, thảo luận nhóm… giúp học sinh được hoạt động tích cực chủ động.

13
- Tăng thời gian hoạt động của học sinh trong giờ học. Hoạt động của
giáo viên chú trọng đến việc thiết kế, hướng dẫn điều khiển các hoạt động và
tư duy hay hoạt động nhóm. Giáo viên cần động viên học sinh hoạt động
nhiều hơn trong giờ học, giảm tối đa các hoạt động nhận thức thụ động.
- Tăng mức độ hoạt động trí lực chủ động của học sinh thông qua việc
lựa chọn nội dung và hình thức sử dụng các câu hỏi, bài tập có sự suy luận,
vận dụng kiến thức một cách sáng tạo.
Như vậy tư tưởng chủ đạo của định hướng đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng hoạt động hoá người học là học sinh được phát huy tính tích
cực nhận thức học tập đến mức tối đa thông qua các hoạt động chủ động, độc
lập, sáng tạo trong giờ học.
I.1.2.3. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học [6]
Cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới hoạt động học tập tích cực,
chống lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt
động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới
hình thức tương tác xã hội trong dạy học với định hướng:
- Chuyển từ mô hình dạy học truyền thụ một chiều sang mô hình dạy
học hợp tác hai chiều.
- Chuyển từ xu hướng dạy học “ lấy GV làm trung tâm” sang quan
điểm dạy học “ lấy HS làm trung tâm”, “ hoạt động hóa người học”.

- Dạy cách học, bồi dưỡng năng lực tự học và tự đánh giá.
- Sử dụng các PPDHTC.
- Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc các phương pháp
dạy học hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương
pháp dạy học truyền thống.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học, lưu ý đến ứng
dụng của công nghệ thông tin.

14
I.1.3. Phƣơng pháp dạy học tích cực [36]
I.1.3.1. Khái niệm phƣơng pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là khái niệm nói tới những phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
Vì vậy phương pháp dạy học tích cực thực chất là các phương pháp dạy học
hướng tới việc giúp học sinh học tập chủ động, tích cực, sáng tạo chống lại
thói quen học tập thụ động.
Phương pháp dạy học tích cực chú trọng đến hoạt động học và vai trò của
người học trong quá trình dạy học theo các quan điểm, tiếp cận mới về hoạt động
dạy học như: “ Lấy người học là trung tâm”, “Hoạt động hoá người học”
I.1.3.2. Đặc trƣng cơ bản của phƣơng pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực có những dấu hiệu đặc trưng cơ bản như:
- Dạy học có chú trọng đến việc tổ chức, chỉ đạo để người học trở
thành chủ thể hoạt động, tự khám phá những kiến thức mà mình chưa biết.
Trong giờ học học sinh được tổ chức, động viên tham gia vào các hoạt động
học tập qua đó vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới vừa nắm được phương
pháp nhận thức, học tập. Trong phương pháp dạy học tích cực việc tổ chức để
học sinh học được tri thức, kĩ năng, phương pháp học tập luôn gắn quyện vào
nhau theo quá trình học kiến thức- hoạt động đến biết hoạt động và muốn hoạt
động, qua đó mà phát triển nhân cách người lao động tự chủ, năng động và
sáng tạo. Người học- đối tượng của hoạt động “ dạy” đồng thời là chủ thể của

hoạt động “ học”- được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và
chỉ đạo thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ.
- Dạy học có chú trọng rèn luyện kĩ năng, phương pháp và thói quen tự
học, từ đó mà tạo cho HS hứng thú, lòng ham muốn, khát khao học tập, khơi
dậy những tiềm năng vốn có trong mỗi HS để giúp họ dễ dàng thích ứng với
cuộc sống của xã hội phát triển. PPDHTC xem việc rèn luyện phương pháp

15
học tập không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một
mục tiêu dạy học.
- Dạy học chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động học tập của từng
học sinh, hoạt động hợp tác trong tập thể nhóm, lớp học thông qua tương tác
giữa GV với HS, giữa HS với HS. Bằng sự trao đổi, tranh luận, thể hiện quan
điểm của từng cá nhân, sự đánh giá nhận xét những quan điểm của bạn mà học
sinh nắm được kiến thức, cách tư duy, sự phối hợp hoạt động trong một tập thể.
Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan
hệ hợp tác giữa các cá thể trên con đường chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng.
Thông qua thảo luận, tranh luận ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng
định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận
dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của HS, lớp học sẽ sinh động và kích
thích được sự hứng thú học tập nhờ sự động viên khích lệ của thầy, của bạn.
Học hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là khi xuất hiện nhu cầu
phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.
Trong việc học hợp tác tính cách, năng lực của mỗi thành viên được
bộc lộ, tính ỷ lại được uốn nắn, ý thức tổ chức, tình bạn, tinh thần tương trợ
được phát triển, lớp học sẽ trở nên thân thiện hơn.
- Dạy học có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan
nhất là các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn, máy vi tính, phần mềm dạy
học…tăng tính năng động cho người học đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt
động học tập theo năng lực và nhu cầu của mỗi học sinh, giúp các em tiếp cận

được với các phương tiện hiện đại trong xã hội phát triển.
- Dạy học có sử dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá đa dạng,
khách quan, tạo điều kiện để học sinh được tham gia tích cực vào hoạt động
tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Nội dung, phương pháp, hình thức kiểm tra
đánh giá phải đa dạng, phong phú với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật,

16
máy tính và phần mềm kiểm tra để đảm bảo tính khách quan, phản ánh trung
thực tình trạng kiến thức của học sinh và quá trình đào tạo. Sự thay đổi khâu
đánh giá sẽ có tác dụng mạnh mẽ là động lực để đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng dạy học tích cực.
I.1.3.3. Sự đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng dạy học tích cực
Sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực
được dựa trên cơ sở quan niệm về tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
và dạy học hướng vào học sinh. Dạy học tích cực áp dụng trong dạy học hoá
học được đặt ra do yêu cầu đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung môn
học và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kiểm tra - đánh giá kết quả học
tập của học sinh.
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với việc đổi
mới mục tiêu, nội dung dạy học và cách thức tổ chức dạy học nhằm phát huy
tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
a Đổi mới hoạt động dạy của giáo viên
Hoạt động dạy học hoá học không chỉ là quá trình truyền thụ kiến thức,
thông báo thông tin mà chủ yếu là quá trình giáo viên thiết kế, tổ chức, điều
khiển các hoạt động học tập của học sinh để đạt được các mục tiêu cụ thể ở
mỗi bài học.
Như vậy hoạt động cụ thể của giáo viên sẽ là:
- Thiết kế giáo án (kế hoạch giờ dạy) gồm các hoạt động của học sinh
theo những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà học sinh cần đạt được.
- Tổ chức các hoạt động trên lớp để học sinh hoạt động theo cá nhân

hoặc theo nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức hoạt động tìm tòi, phát
hiện tri thức và hình thành kĩ năng hoá học, kĩ năng nghiên cứu hoá học
- Định hướng điều chỉnh các hoạt động của học sinh: giáo viên có
nhiệm vụ làm chính xác hóa các khái niệm, kết luận, nhận xét về các hiện

17
tượng, bản chất của quá trình hoá học mà học sinh đã tự tìm tòi trong hoạt
động học tập của mình và thông báo thêm một số thông tin có liên quan đến
bài học mà học sinh không thể tự tìm tòi được qua hoạt động trên lớp
- Thiết kế và thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, thí
nghiệm hoá học, hiện tượng thực tế như là nguồn kiến thức để học sinh tìm
tòi, phát hiện những kiến thức kĩ năng cần nghiên cứu, tiếp thu.
Trong quá trình tổ chức, điều khiển luôn tạo điều kiện để học sinh được bộc
lộ và vận dụng nhiều hơn những kiến thức đã có của mình để giải quyết các vấn
đề học tập và các vấn đề có liên quan đến hoá học trong đời sống sản xuất.
b. Đổi mới hoạt động học tập của học sinh
Quá trình học tập hoá học không phải là quá trình tiếp nhận một cách thụ
động kiến thức mà chủ yếu là quá trình tự học, tự nhận thức, tự khám phá, tìm
tòi các tri thức hoá học một cách chủ động, tích cực. Đó chính là quá trình tự
phát hiện và giải quyết các vấn đề hay là quá trình tập nghiên cứu khoa học
dưới sự điều khiển của giáo viên. Như vậy trong giờ học, học sinh được tiến
hành các hoạt động như:
- Tự phát hiện vấn đề hoặc hiểu được vấn đề, nhiệm vụ do giáo viên nêu ra.
- Hoạt động cá nhân hoặc hợp tác theo nhóm để tìm tòi phát hiện vấn đề,
giải quyết các vấn đề đặt ra. Tuỳ theo nội dung và nhiệm vụ đặt ra mà học
sinh cần thực hiện các hoạt động như: dự đoán lý thuyết, làm thí nghiệm,
quan sát, mô tả hiện tượng, giải thích rút ra kết luận hoặc phán đoán, suy luận,
đề ra giả thuyết, trả lời câu hỏi, tìm dữ kiện để khẳng định hoặc bác bỏ giả
thuyết đề ra. Nếu nhiệm vụ đòi hỏi hoạt động nhóm, học sinh cần chuẩn bị ý
kiến, tham gia thảo luận nhóm rút ra kết luận và báo cáo kết quả hoạt động

của cá nhân hoặc nhóm của mình
- Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải thích hiện tượng hoá học xảy
ra trong đời sống, sản xuất và giải các dạng bài tập hoá học.

18
- Tự đánh giá và đánh giá việc nắm kiến thức của bản thân, của bạn, của nhóm.
Như vậy sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học là cần phải làm cho học
sinh được hoạt động nhiều hơn, tư duy một cách tích cực chủ động hơn trong
việc chiếm lĩnh kiến thức và kỹ năng. Học sinh phải luôn có ý thức và biết cách
vận dụng kiến thức hoá học vào thực tế đời sống. Thông qua các hoạt động điều
khiển của giáo viên, học sinh không chỉ nắm được các tri thức, kĩ năng hoá học
mà còn nắm được kĩ năng hoạt động tìm tòi, phát hiện vấn đề học tập và kĩ năng
hoạt động tích cực để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt và sáng tạo.
Cùng với sự đổi mới hoạt động dạy, hoạt động học thì cũng cần có sự
đổi mới hình thức tổ chức dạy học.
c. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học và sử dụng phương tiện dạy học
Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học thì hình thức tổ chức dạy
học cũng cần thay đổi cho phù hợp với các phương pháp dạy học được sử
dụng trong bài học. Hình thức tổ chức lớp học phải đa dạng phong phú cho
phù hợp với việc tìm tòi của cá nhân, hoạt động nhóm và cả lớp. Địa điểm học
của HS không chỉ diễn ra trên lớp mà còn thực hiện ở phòng bộ môn, phòng
học đa phương tiện, ở ngoài trường học…HS thu nhận thông tin qua nhiều
kênh khác nhau như SGK, băng, đĩa, mạng internet…
Khi lựa chọn các hình thức tổ chức lớp học giáo viên cần chú ý tạo ra
môi trường học tập đảm bảo được mối liên hệ tương tác giữa hoạt động của
giáo viên, hoạt động của học sinh và nhằm đảm bảo cho học sinh tiến hành
các hoạt động học tập có hiệu quả, chất lượng cao.
Các phương tiện dạy học được đa dạng hóa , không chỉ là phấn, bảng,
sách vở…mà còn là dụng cụ thí nghiệm, mô hình , mẫu vật, máy chiếu, bản
trong, máy tính, phần mềm ứng dụng dạy học. Phương tiện dạy học, thí

nghiệm hóa học được sử dụng như là nguồn kiến thức để HS tìm tòi, phát
hiện, thu nhận kiến thức.

19
d. Sử dụng phối hợp, linh hoạt các phương pháp đặc thù của hóa học
Với yêu cầu đổi mới quá trình dạy học hoá học, GV cần chú ý đến việc
khai thác các yếu tố tích cực trong từng phương pháp dạy học được sử dụng
để tạo điều kiện cho HS được hoạt động nhiều hơn, tích cực, chủ động hơn
trong giờ học. Sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực đóng
vai trò quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng dạy và học hoá học.
Trong dạy học hoá học có nhiều phương pháp được sử dụng theo hướng dạy
học tích cực như: sử dụng các PPDH dạy học truyền thống theo hướng tích
cực, sử dụng thí nghiệm, phương tiện dạy học, sử dụng bài tập hoá học …,
tiếp thu có chọn lọc những phương pháp dạy học hiện đại như: dạy học kiến
tạo, dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, dạy học tương tác….
I.1.3.4. Một số phƣơng pháp dạy học tích cực [6]
- Nhóm phương pháp trực quan: Sử dụng thí nghiệm hay các phương tiện
trực quan theo PP nghiên cứu, để kiểm nghiệm giả thuyết, thí nghiệm đối
chứng, thí nghiệm nêu vấn đề…, sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng… để tổ
chức các hoạt động dạy học.
- Nhóm phương pháp thực hành: Về mặt hoạt động nhận thức thì các PP
thực hành là “tích cực” hơn các PP trực quan, các PP trực quan là “tích cực”
hơn các PP dùng lời .Trong nhóm các PP thực hành, HS được trực tiếp tác
động vào đối tượng (quan sát mẫu chất, lắp dụng cụ thí nghiệm, làm thí
nghiệm …) tự lực khám phá tri thức mới.
- Đàm thoại tìm tòi : Trong số các PP dùng lời thì đàm thoại tìm tòi là
một PPDHTC. Trong đàm thoại tìm tòi, GV là người tổ chức sự tìm tòi, còn
HS là người tự lực phát hiện kiến thức mới.
- Dạy học nêu và giải quyết vấn đề: Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
giúp cho HS không chỉ nắm được tri thức mới mà còn nắm được cả phương

pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị
một năng lực thích ứng với đời sống xã hội: phát hiện kịp thời và giải quyết

20
hợp lí các vấn đề nảy sinh.
- Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ: Lớp học được chia thành từng
nhóm nhỏ từ 4 đến 6 em. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các
nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ ý, được duy trì ổn định hoặc
thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc
những nhiệm vụ khác nhau bằng phiếu giao việc. Nhóm cử nhóm trưởng phân
công mỗi người một phần việc. Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm
việc tích cực. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra
trong không khí thi đua với các nhóm khác.
I.2. BÀI TẬP HOÁ HỌC TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC [30]
I.2.1. Ý nghĩa, tác dụng của bài tập hoá học trong dạy học tích cực
Trong dạy học hoá học, bản thân bài tập hoá học đã được coi là phương
pháp dạy học có hiệu quả cao trong việc rèn luyện kỹ năng hoá học. Nó giữ
vai trò quan trọng trong mọi khâu, mọi loại bài dạy hoá học. Song tính tích
cực của phương pháp này còn được nâng cao hơn khi được sử dụng như là
nguồn kiến thức để học sinh tìm tòi chứ không phải để tái hiện kiến thức.
Với tính đa dạng của mình bài tập hoá học có tác dụng:
- Đối với học sinh, nó là phương pháp học tập tích cực, hiệu quả và
không có gì thay thế được giúp học sinh nắm vững kiến thức hoá học, phát
triển tư duy, hình thành kĩ năng, vận dụng kiến thức hoá học vào thực tiễn, từ
đó làm giảm nhẹ sự nặng nề căng thẳng của khối lượng kiến thức lý thuyết và
gây hứng thú say mê học tập cho học sinh.
- Đối với giáo viên, bài tập hoá học là phương tiện, là nguồn kiến thức để
hình thành khái niệm hoá học, tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
trong quá trình dạy học. Cụ thể là:
+ Bài tập hoá học được sử dụng như là nguồn kiến thức để học sinh tìm

tòi, phát triển kiến thức, kỹ năng.
+ Bài tập hoá học dùng để mô phỏng một số tình huống thực tế đời sống

21
để học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề của thực tế đặt ra.
+ Sử dụng bài tập để tạo tình huống có vấn đề kích thích hoạt động tư
duy tìm tòi sáng tạo và rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề học tập, nâng cao
hứng thú học tập bộ môn.
Như vậy bài tập hoá học được coi như là một nhiệm vụ học tập cần giải
quyết, giúp học sinh tìm tòi, nghiên cứu đi sâu vận dụng kiến thức hoá học
một cách sáng tạo từ đó giúp học sinh có năng lực phát hiện vấn đề - giải
quyết vấn đề học tập hoặc thực tiễn đặt ra có liên quan đến hoá học.
I.2.2. Phân loại bài tập hoá học
I.2.2.1. Dựa vào nội dung có thể phân bài tập hoá học thành 4 loại
*Bài tập định tính: là các dạng bài tập có liên hệ với sự quan sát để mô
tả, giải thích các hiện tượng hoá học. Các dạng bài tập định tính:
- Giải thích, chứng minh, viết PTHH của các phản ứng.
- Phân biệt các chất.
- Tách các chất ra khỏi hỗn hợp.
- Điều chế chất
Đặc biệt trong bài tập định tính có rất nhiều bài tập thực tiễn giúp học
sinh giải quyết các vấn đề thực tiễn có liên quan đến hoá học.
*Bài tập định lượng (bài toán hoá học): là loại bài tập cần dùng các kỹ
năng toán học kết hợp với kỹ năng hoá học để giải.
Căn cứ vào nội dung có các dạng bài tập định lượng như:
- Xác định nguyên tố hóa học.
- Dựa vào thành phần để xác định công thức hoá học.
- Tính theo công thức, phương trình hoá học.
- Tính toán với các chất khí.
- Tính độ điện li, hằng số phân li axit, bazơ.

- Bài tập về nồng độ dung dịch

22
*Bài tập thực nghiệm: là dạng bài tập có liên quan đến kĩ năng thực
hành như:
- Lắp dụng cụ thí nghiệm.
- Quan sát để mô tả, giải thích các hiện tượng thí nghiệm.
- Làm thí nghiệm để nghiên cứu tính chất của một chất hoặc một hiện
tượng hóa học.
- Phân biệt các chất.
- Tách các chất ra khỏi hỗn hợp…
*Bài tập tổng hợp: là dạng bài tập có tính chất gồm các dạng trên.
I.2.2.2. Dựa vào hình thức thể hiện có thể phân bài tập hoá học
thành 2 loại [41]
*Bài tập trắc nghiệm khách quan: là loại bài tập hay câu hỏi có kèm
theo câu trả lời sẵn và yêu cầu học sinh suy nghĩ rồi dùng 1 ký hiệu đơn giản
đã quy ước để trả lời.
Các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan:
- Điền khuyết.
- Đúng sai.
- Ghép đôi.
- Nhiều lựa chọn.
Ưu điểm nổi bật của bài tập TNKQ là:
- Trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra được nhiều nội dung kiến
thức, tránh được tình trạng học tủ, học lệch.
- Việc chấm điểm là khách quan, không phụ thuộc vào người chấm nên
độ tin cậy cao hơn các phương pháp kiểm tra đánh giá khác.
- Rèn luyện cho học sinh khả năng nhận biết, khai thác, xử lý thông tin
và khả năng tư duy phán đoán nhanh.
- Giúp người học tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập kết quả của mình

một cách khách quan.
Tuy nhiên loại bài tập trắc nghiệm khách quan cũng có những nhược

23
điểm đáng kể như:
- Ít góp phần phát triển ngôn ngữ hoá học.
- Không thể dùng để kiểm tra kỹ năng thực hành hoá học.
- Giáo viên chỉ biết kết quả suy nghĩ của học sinh, rất khó đánh giá khả
năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ và tư duy của HS để đi đến câu trả lời.
Trong 4 loại bài tập trắc nghiệm khách quan trên thì bài tập nhiều lựa
chọn là loại hay dùng nhất vì có nhiều ưu điểm hơn như xác suất đúng ngẫu
nhiên thấp, dễ chấm.
*Bài tập tự luận.
Là dạng bài tập yêu cầu học sinh phải kết hợp cả kiến thức hoá học, ngôn
ngữ hoá học và công cụ toán học để trình bày nội dung của bài toán hoá học,
phải tự viết câu trả lời bằng ngôn ngữ của chính mình.
Bài tập tự luận cho phép giáo viên kiểm tra kiến thức của học sinh ở góc độ
hiểu và khả năng vận dụng. Hình thành cho HS kỹ năng sắp đặt ý tưởng, diễn đạt,
khái quát hóa, phân tích, tổng hợp phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo.
Trên thực tế, sự phân loại trên chỉ là tương đối. Có những bài vừa có nội
dung thuộc bài tập định tính lại vừa có nội dung thuộc bài tập định lượng hoặc
trong một bài có thể có phần trắc nghiệm khách quan cùng với giải thích, viết
PTHH của phản ứng xảy ra.
I.3. SỬ DỤNG BÀI TẬP HOÁ HỌC ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC
TẬP CỦA HỌC SINH [36]
Trong dạy học tích cực, bài tập hoá học được sử dụng theo một số phương
hướng sau:
I.3.1. Sử dụng bài tập hoá học để hình thành khái niệm hóa học
Sự hình thành các khái niệm hoá học phải dựa trên các kiến thức thực
tiễn đơn giản, vốn kiến thức hoá học mà học sinh có được từ trước hoặc từ

các môn học khác thông qua con đường quy nạp từ các hình mẫu - kiến thức,
hay từ sự phân tích tính chất, hoặc so sánh đối chiếu rồi tổng hợp. Các khái
niệm được hình thành phải chính xác, nhất quán để gây ấn tượng mạnh, nhớ

24
lâu cho học sinh. Vì vậy khi hình thành khái niệm hoá học, ta có thể xây dựng
hệ thống các bài tập, câu hỏi về nội dung của khái niệm có liên quan chặt chẽ
với nhau để học sinh tìm hiểu một cách đầy đủ khái niệm đó.
I.3.2. Tăng cƣờng sử dụng bài tập thực nghiệm hoá học
Trong mục tiêu môn học có nhấn mạnh đến việc tăng cường rèn luyện kĩ
năng hoá học cho học sinh, trong đó chú trọng đến kĩ năng thí nghiệm hoá học.
Bài tập thực nghiệm là một phương tiện có hiệu quả cao trong việc rèn luyện kĩ
năng thực hành, phương pháp làm việc khoa học, độc lập cho học sinh. Giáo
viên có thể sử dụng bài tập thực nghiệm khi nghiên cứu, hình thành kiến thức
mới, khi luyện tập, rèn luyện kĩ năng cho học sinh, trong giờ thực hành….
I.3.3. Tăng cƣờng sử dụng bài tập thực tiễn
Theo phương hướng dạy học tích cực giáo viên cần tăng cường sử dụng,
giúp học sinh vận dụng kiến thức hoá học giải quyết các vấn đề thực tiễn có
liên quan đến hoá học. Thông qua việc giải bài tập thực tiễn sẽ tạo cho học sinh
hứng thú, say mê trong học tập hoá học. Các bài tập có liên quan đến kiến thức
thực tế còn có thể dùng để tạo tình huống có vấn đề trong dạy học hoá học. Các
bài tập này có thể ở dạng bài tập lí thuyết hoặc bài tập thực nghiệm.
I.3.4. Sử dụng sơ đồ, đồ thị trong việc giải, chữa bài tập
Sử dụng bài tập có hình vẽ, mô hình, sơ đồ, đồ thị để tổ chức các hoạt
động học tập của học sinh có tác dụng phát triển năng lực quan sát tư duy trừu
tượng và khả năng vận dụng kiến thức một cách tổng hợp.
Có thể sử dụng sơ đồ ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình dạy học đặc
biệt ở giai đoạn ôn tập, củng cố, hoàn thiện, hệ thống hoá kiến thức.
I.3.5. Sử dụng các bài toán có nội dung biện luận để tăng cƣờng tính suy
luận cho học sinh khi học tập hoá học

Nhiều bài toán có phần tính toán đơn giản nhưng có nội dung biện luận hóa
học phong phú, sâu sắc là phương tiện tốt để tích cực hóa hoạt động của HS
trong quá trình dạy học và rèn luyện tư duy hóa học cho học sinh.

×