Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.37 KB, 4 trang )
Không nên lạm dụng nhân
trần
Theo lương y Vũ Quốc Trung, có hai loại nhân trần Bắc và Nam. Nhân trần Nam
còn gọi là hoắc hương núi, họ hoa mõm chó, khi khô màu nâu sẫm, mùi thơm hắc;
khác với nhân trần Bắc họ cúc, màu xám hơi vàng, mùi thơm nhẹ.
Nhân trần thường mọc hoang nhiều ở các tỉnh phía Bắc như Lạng Sơn, Bắc Kạn,
Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang…, và một số tỉnh ở miền Trung
như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên – Huế.
Theo y học cổ truyền, nhân trần có vị đắng, cay, tính bình vào các kinh, tỳ, can,
đởm, thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi tiểu, giúp ra mồ hôi. Nhân trần
có tác dụng tăng bài tiết mật, chống viêm, nhất là với các bệnh về gan mật. Còn
theo dược lý y học hiện đại, nhân trần có tác dụng làm tăng tiết và thúc đẩy quá
trình bài xuất dịch mật, bảo vệ tế bào gan và phòng chống tích cực tình trạng gan
nhiễm mỡ, làm hạ huyết áp, điều chỉnh rối loạn lipid máu, cải thiện lưu lượng tuần
hoàn nuôi tim và não, giải nhiệt, giảm đau và chống viêm, ức chế một số vi khuẩn
như tụ cầu vàng, trực khuẩn bạch hầu, thận, thương hàn, phó thương hàn, mủ xanh,
E.coli, lỵ…
Lương y Vũ Quốc Trung cho hay, ở một số vùng, miền có thói quen thường uống
trà nhân trần phối hợp với cam thảo và uống thường xuyên thay cho nước, vì cho
rằng như thế sẽ giúp mát gan, giải độc. Mặc dù có tác dụng như nói trên, nhưng
cần phải hiểu rằng, nhân trần là một vị thuốc, do vậy việc sử dụng phải tuân theo
một số nguyên tắc và không phải uống bao nhiêu cũng được, hoặc ai dùng cũng
được.
Theo nguyên lý, khi mật không tiết ra (mật viêm, tắc mật…) thì mới cần lợi mật;
và khi gan có vấn đề thì mới phải nhuận gan. Nếu không có bệnh mà lại uống hằng
ngày, nghĩa là bắt gan và mật không có nhu cầu tiết cũng phải tiết, điều đó sẽ dẫn
tới các cơ quan này phải làm việc nhiều hơn nên dễ bị tổn thương, mất cân bằng và