Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, tái chế và tái sử dụng là giải pháp có ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường ở các đô thị ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.29 KB, 10 trang )

Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, tái chế và tái sử dụng là giải
pháp có ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường ỏ các đô thị
(Cập nhật ngày: 16/12/2010 14:45:00)
Bài của GS.TS. Lê Văn Khoa, Trường Đại học khoa học Tự nhiên- ĐHQGHN.

GS.TS. Lê Văn Khoa
Trường Đại học khoa học Tự nhiên- ĐHQGHN.
I. Khái niệm về rác thải
Tại khoản 10 Điều 3 của Luật bảo vệ môi trường 2005 thì: “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng,
khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác". Như vậy, rác
thải là tất cả những thứ vật chất từ đồ ăn, đồ dùng, chất phế thải sản xuất, dịch vụ, y tế, mà mọi người
không dùng nữa và thải bỏ đi.
Rác thải sinh hoạt ( chất thải rắn sinh hoạt) sinh ra từ mọi người và mọi nơi: Gia đình, trường học,
chợ, nơi mua bán, nơi công cộng, nơi vui chơi giải trí, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất kinh doanh, bến xe, bến
đò,
Rác thường được chia thành ba nhóm sau:
1. Rác khô hay còn gọi là rác vô cơ: gồm các loại phế thải thuỷ tinh, sành sứ, kim loại, giấy, cao
su, nhựa, vải, đồ điện, đồ chơi, cát sỏi, vật liệu xây dựng
2. Rác ướt hay thường gọi là rác hữu cơ: gồm cây cỏ loại bỏ, lá rụng, rau quả hư hỏng, đồ ăn
thừa, rác nhà bếp, xác súc vật, phân động vật.
3. Chất thải nguy hại (CTNH): là những thứ phế thải rất độc hại cho môi trường và con người như
pin, bình ắc quy, hoá chất, thuốc trừ sâu, bom đạn, rác thải y tế, rác thải điện tử
II.Tác động của rác thải sinh hoạt đến môi trường và sức khỏe cộng đồng
Rác khi thải vào môi trường gây ô nhiễm, đất, nước, không khí. Ngoài ra, rác thải còn làm mất vệ
sinh công cộng, làm mất mỹ quan môi trường. Rác thải là nơi trú ngụ và phát triển lý tưởng của các loài
gây bệnh hại cho người và gia súc.
Rác thải ảnh hưởng tới môi trường nhiều hay ít còn phụ thuộc vào nền kinh tế của từng quốc gia,
khả năng thu gom và xử lý rác thải, mức độ hiểu biết và trình độ giác ngộ của mỗi người dân. Khi xã hội
phát triển cao, rác thải không những được hiểu là có ảnh hưởng xấu tới môi trường mà còn được hiểu là
một nguồn nguyên liệu mới có ích nếu chúng ta biết cách phân loại chúng, sử dụng theo từng loại.
2.1. Ảnh hưởng đến môi trường không khí: Nguồn rác thải từ các hộ gia đình thường là các loại thực


phẩm chiếm tỷ lệ cao trong toàn bộ khối lượng rác thải ra. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và mưa nhiều ở
nước ta là điều kiện thuận lợi cho các thành phần hữu cơ phân huỷ, thúc đẩy nhanh quá trình lên men,
thối rữa và tạo nên mùi khó chịu cho con người. Các chất thải khí phát ra từ các quá trình này thường là
H
2
S, NH
3
, CH
4
, SO
2
, CO
2
.
2.2. ẢTheo thói quen nhiều người thường đổ rác tại bờ sông, hồ, ao, cống rãnh. Lượng rác này sau khi bị
phân huỷ sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nước mặt, nước ngầm trong khu vực. Rác có
thể bị cuốn trôi theo nước mưa xuống ao, hồ, sông, ngòi, kênh rạch, sẽ làm nguồn nước mặt ở đây bị
nhiễm bẩn .
Mặt khác, lâu dần những đống rác này sẽ làm giảm diện tích ao hồ, giảm khả năng tự làm sạch của nước
gây cản trở các dòng chảy, tắc cống rãnh thoát nước. Hậu quả của hiện tượng này là hệ sinh thái nước
trong các ao hồ bị huỷ diệt . Việc ô nhiễm các nguồn nước mặt này cũng là một trong những nguyên
nhân gây các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ trực khuẩn thương hàn,ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ cộng đồng
2.3. Ảnh hưởng của rác thải tới môi trường đất: Trong thành phần rác thải có chứa nhiều các chất độc, do
đó khi rác thải được đưa vào môi trường thì các chất độc xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh
vật có ích cho đất như: giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch nhái làm cho môi
trường đất bị giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đặc biệt hiện nay
sử dụng tràn lan các loại túi nilôn trong sinh hoạt và đời sống, khi xâm nhập vào đất cần tới 50 - 60 năm
mới phân huỷ hết và do đó chúng tạo thành các "bức tường ngăn cách" trong đất hạn chế mạnh đến quá
trình phân huỷ, tổng hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất
cây trồng giảm sút .

2.4. Ảnh hưởng của rác thải đối với sức khoẻ con người:Trong thành phần rác thải sinh hoạt, thông
thường hàm lượng hữu chiếm tỉ lệ lớn. Loại rác này rất dễ bị phân huỷ, lên men, bốc mùi hôi thối. Rác
thải không được thu gom, tồn đọng trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
sống xung quanh. Chẳng hạn, những người tiếp xúc thường xuyên với rác như những người làm công
việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác dễ mắc các bệnh như viêm phổi, sốt rét, các bệnh về mắt, tai, mũi
họng, ngoài da, phụ khoa. Hàng năm, theo tổ chức Y tế thế giới, trên thế giới có 5 triệu người chết và có
gần 40 triệu trẻ em mắc các bệnh có liên quan tới rác thải. Nhiều tài liệu trong nước và quốc tế cho thấy,
những xác động vật bị thối rữa trong hơi thối có chất amin và các chất dẫn xuất sufua hyđro hình thành
từ sự phân huỷ rác thải kích thích sự hô hấp của con người, kích thích nhịp tim đập nhanh gây ảnh
hưởng xấu đối với những người mắc bệnh tim mạch.
Các bãi rác công cộng là những nguồn mang dịch bệnh. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng:
trong các bãi rác, vi khuẩn thương hàn có thể tồn tại trong 15 ngày, vi khuẩn lỵ là 40 ngày, trứng giun đũa
là 300 ngày.Các loại vi trùng gây bệnh thực sự phát huy tác dụng khi có các vật chủ trung gian gây bệnh
tồn tại trong các bãi rác như những ổ chứa chuột, ruồi, muỗi và nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh cho
người và gia súc, một số bệnh điển hình do các trung gian truyền bệnh như:Chuột truyền bệnh dịch hạch,
bệnh sốt vàng da do xoắn trùng.ruồi, gián truyền bệnh đường tiêu hoá ;muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất
huyết
III. Kinh nghiệm phân loại và xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên thế giới làm phân bón
Công nghệ xử lý CTR trên thế giới hiện nay có rất nhiều phương pháp, trong đó các phương
pháp truyền thống vẫn tiếp tục được sử dụng như:
- Công nghệ chôn lấp chất thải.
- Công nghệ thiêu đốt.
- Những năm gần đây, công nghệ phân loại rác tại nguồn và chế biến rác thải hữu cơ làm phân
compost ((phân ủ ) phát triển rất mạnh.Đây là công nghệ phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, nhằm tái
chế, tái sử dụng chất thải, góp phần giảm thiểu lượng phát sinh chất thải rắn và BVMT. Những bài học về
thu gom và xử lý CTR trên thế giới có rất nhiều. Ví dụ: ở Châu Âu, nhiều quốc gia đã thực hiện quản lý
chất thải thông qua phân loại chất thải rắn tại nguồn và xử lý tốt, đạt hiệu quả cao về kinh tế và MT. Tại
các quốc gia như Đan Mạch, Anh, Hà lan, Đức, việc quản lý chất thải được thực hiện rất chặt chẽ công
tác phân loại và thu gom rác đã trở thành nề nếp và người dân chấp hành rất nghiêm quy định này. Các
loại rác thải có thể tái chế được như giấy loại, chai lọ thuỷ tinh, vỏ đồ hộp được thu gom vào các thùng

chứa riêng. Đặc biệt rác thải nhà bếp có thành phần hữu cơ dễ phân huỷ được yêu cầu phân loại riêng
đựng vào các túi có màu sắc theo đúng quy định thu gom hàng ngày để đưa đến nhà máy chế biến phân
compost ( phân ủ). Đối với các loại rác bao bì có thể tái chế, người dân mang đến thùng rác đặt cố định
trong khu dân cư.
Ở Nhật Bản, trong 37 Đạo luật về BVMT có 7 Đạo luật về quản lý và tái chế CTR. Việc phân loại
rác tại nguồn đã được triển khai từ những năm 1970. Tỷ lệ tái chế CTR ở Nhật Bản đạt rất cao. Hiện nay
tại các thành phố của Nhật chủ yếu sử dụng công nghệ đốt để xử lý phần rác khó phân huỷ. Các hộ gia
đình được yêu cầu phân loại rác thành 3 dòng:
- Rác hữu cơ dễ phân huỷ để làm phân hữu cơ vi sinh, được thu gom hàng ngày đưa đến nhà
máy chế biến.
- Rác vô cơ gồm các loại vỏ chai,hộp đưa đến nhà máy để phân loại, tái chế.
- Loại rác khó tái chế, hiệu quả không cao nhưng cháy được sẽ đưa đến nhà máy đốt rác thu hồi
năng lượng. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong những túi có màu sắc khác nhau và các hộ
gia đình tự mang ra điểm tập kết rác của cụm dân cư vào các giờ quy định dưới sự giám sát của đại diện
cụm dân cư.
Ở Hàn Quốc, cách quản lý chất thải giống với Nhật Bản, nhưng cách xử lý lại giống ở Đức. Rác
hữu cơ nhà bếp một phần được sử dụng làm giá thể nuôi trồng nấm thực phẩm, phần lớn hơn được
chôn lấp có kiểm soát để thu hồi khí biôga cung cấp cho phát điện. Sau khi rác tại hố chôn phân huỷ hết,
tiến hành khai thác mùn ở bãi chôn làm phân bón. Như vậy, tại các nước phát triển việc phân loại rác tại
nguồn đã được tiến hành cách đây khoảng 30 năm và đến nay cơ bản đã thành công trong việc tách rác
thành 2 dòng hữu cơ dễ phân huỷ được thu gom xử lý hàng ngày, rác khó phân huỷ có thể tái chế hoặc
đốt, chôn lấp an toàn được thu gom hàng tuần.
Tại Đông Nam Á, Singapo đã thành công trong quản lý CTR để BVMT. Chính phủ Singapo đang
yêu cầu tăng tỷ lệ tái chế thông qua phân loại rác tại nguồn từ các hộ gia đình, các chợ, các cơ sở kinh
doanh để giảm chi ngân sách cho Nhà nước. Các quốc gia còn lại đang trong quá trình tìm kiếm hoặc
triển khai mới mô hình quản lý CTR. Tại Bangkok, việc phân loại rác tại nguồn chỉ mới thực hiện được tại
một số trường học và một số quận trung tâm để tách ra một số loại bao bì dễ tái chế, lượng rác còn lại
vẫn đang phải chôn lấp, tuy nhiên được ép chặt để giảm thể tích và cuốn nilon rất kỹ xung quanh mỗi
khối rác để giảm bớt ô nhiễm. Một số công nghệ tái chế rác thải làm phân bón ở các nước như sau:
3.1. Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt của Mỹ - Canađa

a/. Nội dung công nghệ: ở các vùng của Mỹ và Canađa có khí hậu ôn đới thường áp dụng phương pháp
xử lý rác thải ủ đống tĩnh có đảo trộn như sau: Rác thải được tiếp nhận và tiến hành phân loại. Rác thải
hữu cơ được nghiền và bổ sung vi sinh vật, trộn với bùn và đánh đống ở ngoài trời. Chất thải được lên
men từ 8-10 tuần lễ, sau đú sàng lọc và đúng bao ( hình 1 ).
b, Ưu điểm: (i)Thu hồi được sản phẩm làm phân bón (ii) Tận dụng được nguồn bùn là các phế thải của
thành phố hoặc bùn ao (iii) Cung cấp được nguyên liệu tái chế cho các ngành công nghiệp và (iv)Kinh
phí đầu tư và duy trì thấp.
c, Hạn chế:(i) Hiệu quả phân huỷ hữu cơ không cao (ii) Chất lượng phân bón được thu hồi không cao vì
có lẫn các kim loại nặng trong bùn thải hoặc bùn ao (iii) Không phù hợp với khí hậu nhiệt đới tại Việt Nam
vì phát sinh nước rỉ rác, không đảm bảo được VSMT, ảnh hưởng đến nguồn nước mặt và nước ngầm và
(iv) Diện tích đất sử dụng quá lớn.

Hình 1. Sơ đồ công nghệ xử lý rác thải của Mỹ – Canada
3.2. Công nghệ xử lý rác làm phân bón của Đức
a/. Nội dung công nghệ: công nghệ phổ biến nhất của Đức là xử lý rác đi đôi với thu hồi khí sinh học và
phân bón hữu cơ vi sinh. Cụ thể như sau: Rác thải ở các gia đình đã được phân loại, ở những nơi công
cộng phân loại chưa triệt để, được tiếp nhận và tiến hành phân loại tiếp. Rác hữu cơ được đưa vào các
thiết bị ủ kín dưới dạng các thùng chịu áp lực cùng với thiết bị thu hồi khí sinh ra trong quá trình lên men
phân giải hữu cơ ( hình 2).
b/. Ưu điểm: (i) Xử lý triệt để, đảm bảo VSMT (ii) Thu hồi sản phẩm là khí đốt có giá trị cao, phục vụ cho
các ngành công nghiệp ở khu lân cận nhà máy (iii)Thu hồi phân bón có tác dụng cải tạo đất và (iv) Cung
cấp nguyên liệu tái chế cho các ngành công nghiệp.
c/. Hạn chế:( i) Đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn và kinh phí duy trì cao.(ii) Chất lượng phân bón thu hồi không
cao.
Hình 2. Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt của CHLB Đức

3.3. Công nghệ xử lý rác thải làm phân bón của Trung Quốc
a/. Nội dung công nghệ: ở những thành phố lớn thường áp dụng công nghệ trong các thiết bị kín. Rác
được tiếp nhận, đưa vào thiết bị ủ kín ( hầm ủ) sau 10-12 ngày, hàm luợng các khí H
2

S, CH
4
, SO
2
giảm
được đưa ra ngoài ủ chín. Sau đó mới tiến hành phân loại, chế biến thành phân bón hữu cơ (hình 3).
b/. Ưu điểm:( i) Rác được ủ từ 10-12 ngày đã giảm mùi của khí H
2
S, sau đó mới đưa ra ngoài xử lý, góp
phần giảm nhẹ mức độ độc hại đối với người lao động (ii) Thu hồi được nước rác, không gây ảnh hưởng
tới tầng nước ngầm (iii)Thu hồi được sản phẩm tái chế (iv)Rác vô cơ khi đưa đi chôn lấp không gây mùi
và ảnh hưởng đến tầng nước ngầm vì đã được ôxy hoá trong hầm ủ và ( iv)Thu hồi được sản phẩm làm
phân bón.
c/. Hạn chế: (i)Chất lượng phân bón không cao, chưa xử lý triệt để các vi khuẩn gây bệnh (ii)Thao tác
vận hành phức tạp(iii) Diện tích hầm ủ rất lớn không được phân loại, diện tích nhà máy lớn và (iv) Kinh
phí đầu tư ban đầu lớn.
Hình 3. Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt Trung Quốc
IV. Các bài học rút ra từ những kinh nghiệm quốc tế
Sự thành công của việc sử dụng lại, tái chế chất thải là kết quả của 3 yếu tố gắn bó hữu cơ với
nhau:
4.1. Sự tham gia của cộng đồng
Công tác thu gom và xử lý rác thải nói riêng và công tác bảo vệ môi trường nói chung chỉ có thể
được giải quyết một cách ổn thoả khi có sự tham gia chủ động, tích cực của cộng đồng. Sự tham gia này
thể hiện ngay từ khi xác định các vấn đề, các biện pháp, cách thức cụ thể giải quyết các vấn đề môi
trường do rác thải gây nên. Sự tham gia của cộng đồng còn có nghĩa là việc tăng quyền làm chủ và trách
nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo cho họ quyền được sống trong một
môi trường trong lành, sạch, đẹp, đồng thời được hưởng những lợi ích do môi trường đem lại. Để làm
được việc này, các nước đã trải qua quá trình kiên trì vận động, tuyên truyền và thậm chí cưỡng chế
người dân tiến hành phân loại rác tại nguồn.
Nhiều nước đã đưa vào chương trình giáo dục phổ thông kiến thức môi trường và về thu gom

phân loại rác thải. Đặc biệt sử dụng phương pháp giáo dục trẻ em thu gom, phân loại rác thải sinh hoạt
tại các trường tiểu học. Bên cạnh chương trình bài giảng, các thầy cô giáo có rất nhiều tranh vẽ và giáo
cụ trực quan về trẻ em tham gia thu gom, phân loại rác thải sinh hoạt trên đường phố, tại gia đình. Chính
vì vậy, khi các em lớn, ra đời, việc giữ gìn vệ sinh, vứt rác đúng chỗ, đúng thùng phân loại không chỉ là ý
thức mà còn là thói quen hàng ngày. Các chuyên gia nước ngoài đều khẳng định đây là một chương trình
giáo dục tuyên truyền hiệu quả nhất, bền vững nhất và không thể thiếu được trong các trường học phổ
thông.
4.2. Sự đầu tư thoả đáng của nhà nước và xã hội vào các cơ sở tái chế rác thải để đủ năng lực tiếp nhận,
tiếp tục phân loại và tái chế lượng rác đã được phân loại sơ bộ tại nguồn . Như vậy,trình độ phát triển về
kinh tế - xã hội, sự giác ngộ và nhận thức của cộng đồng, sự đầu tư cơ sở vật chất đạt ngưỡng cần thiết
để thực hiện xử lý, tái chế phần lớn lượng rác thải ra hàng ngày có vai trò rất quan trọng.
4.3. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ, có nhiệt tâm tình nguyện khuyến cáo, vận động cộng đồng
thu gom, phân loại rác thải tại nguồn.
Ở CHLB Đức, tất cả các Bang, các khu đô thị, dân cư đều có các cơ quan, công ty khuyến cáo
tuyên truyền cho chương trình bảo vệ môi trường sống nói chung và đặc biệt là vấn đề thu gom, phân
loại và xử lý rác thải sinh hoạt nói riêng. Họ xây dựng những tài liệu, tư liệu giảng bài cho cộng đồng
bằng nhiều hình thức:
a. Sáng tạo ra những thùng phân tách rác với những màu sắc, ký hiệu rõ rệt, đẹp, hấp dẫn, dễ
phân biệt; các loại rác được tách ra theo các sơ đồ, hình ảnh dây chuyền rất dễ hiểu, dễ làm theo, từ
phân loại rác thải giấy, thủy tinh, kim loại, chất dẻo nhân tạo, vải và đặc biệt là rác thải hữu cơ; hoạt động
tuyên truyền, khuyến cáo còn được thể hiện bằng các áp phích tuyên truyền phong phú, hấp dẫn.
b. Tài liệu tuyên truyền khuyến cáo quảng đại dân chúng
Các áp phích, tờ rơi, thùng, túi đựng các loại rác thải được trình bày, trang trí tùy thuộc vào đối
tượng được tuyên truyền khuyến cáo và nhất là phải sử dụng màu sắc và hình ảnh dễ hấp dẫn, dễ hiểu.
c. Vật liệu để chứa đựng rác thải thu gom, phân loại
Các loại vật liệu này phải được các công ty sản xuất theo mẫu mã, màu sắc, in chữ đồng nhất ở
mỗi quốc gia, vùng/địa phương.Ví dụ,thùng rác thu gom rác hữu cơ màu xanh thì túi đựng cũng màu
xanh, chữ viết to, hình vẽ tượng trưng dễ nhận biết. Giá thành các bao túi phải rẻ, phù hợp với khả năng
trả tiền của công chúng. Một số quốc gia còn phát miễn phí túi đựng rác thải hữu cơ sinh hoạt cho người
dân để họ thêm phấn khởi tham gia chương trình.

Ở một số nước phát triển, chất liệu túi đựng rác hữu cơ sinh hoạt đã được chế tạo đặc biệt: bằng
giấy "xi măng bao bì" hoặc bằng ni lông chế từ bột khoai tây. Như vậy, khi thu gom những túi rác thải hữu
cơ sinh hoạt đem đến nơi ủ, người thu gom không phải vứt bỏ lại túi ni lông nữa mà các túi giấy, chất bột
này sẽ cùng phân loại với rác.
V. Hiện trạng công tác thu gom xử lý rác thải ở Việt Nam
5.1. Hiện trạng chất thải rắn (CTR) toàn quốc
Rác thải đang là vấn đề bức xúc ở nước ta hiện nay. Mỗi năm có khoảng hơn 15 triệu tấn chất
thải rắn phát sinh trên cả nước và theo dự báo thì tổng lượng chất thải rắn (CTR) phát sinh vẫn tiếp tục
tăng lên nhanh chóng trong những thập kỷ tới đây, đặc biệt ở các đô thị lớn, khu du lịch. Chất thải rắn
được phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau.Trong số hơn 15 triệu tấn CTR có: - 12,8 triệu tấn (khoảng
80% tổng lượng chất thải) phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, chợ, khu kinh doanh.
- 2,6 triệu tấn (chiếm 17%) từ các cơ sở công nghiệp và
- Khoảng 160.000 tấn (chiếm 1%) là chất thải nguy hại, gồm chất thải y tế nguy hại, các chất dễ cháy, chất
độc hại từ công nghiệp, các loại thuốc trừ sâu, thùng chứa thuốc, vỏ, bao bì. (bảng 1)
Bảng 1. Hiện trạng phát sinh, thu gom và xử lý chất thải rắn ở Việt Nam
Loại chất thải rắn Toàn quốc Đô thị Nông thôn
Tổng lượng chất thải rắn sinh họat (tấn/năm)
+ Các vùng đô thị
+ Các vùng nông thôn


12.800.000



6.400.000
6.400.000


6.400.000

Chất thải rắn nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm 128.400 125.000 3.400
Chất thải rắn không nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm 2.510.000 1.740.000 770.000
Chất thải nguy hại phát sinh từ nông nghiệp (tấn/năm 8.600 - -
Lượng hóa chất tồn lưu (tấn) 37.000
Chất thải y tế lây nhiễm (tấn/năm) 21.000
Tỷ lệ thu gom trung bình (%) 71 20
Tỷ lệ phát sinh chất thải theo người (kg/người) 0,4 0,8 0,3
Số lượng các cơ sở tiêu huỷ chất thải rắn
- Bãi rác và bãi chôn lấp không hợp vệ sinh
- Bãi chôn lấp hợp vệ sinh

74
17

(Số liệu tổng hợp từ Báo cáo diễn biến Môi trường Việt Nam 2006)
5.2. Chất thải rắn sinh hoạt đô thị
Lượng chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở nước ta phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình
mỗi năm tăng khoảng 10-15% .Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang mở rộng, phát triển mạnh cả về
quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý
(17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%) Các đô thị khu vực Tây Nguyên có
tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Theo thống
kê năm 2002, lượng CTR sinh hoạt trung bình từ 0,6-0,9 kg/người/ngày ở các đô thị lớn và 0,4-0,5
kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ, thị trấn thị tứ. Đến năm 2008 và đầu 2009, tỷ lệ này ở các đô thị lớn đã
tăng lên tương ứng là 0,9-1,3 kg/người/ngày ( bảng 2). Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho
thấy, đô thị có lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh (5.500 tấn/ngày), Hà
Nội (2.500 tấn/ngày); đô thị có lượng chất thải rắn phát sinh ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị xã Gia
Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng 20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên Bái 33,4 tấn/ngày và
thị xã Hà Giang 37,1 tấn/ngày.Như vậy,lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở
2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng chất thải rắn sinh
hoạt phát sinh tới 8.000 tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt

phát sinh từ tất cả các đô thị ( hình 4).
Bảng 2. Phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
Khu vực Lượng phát thải theo đầu
người (kg/người/ngày)
%
so với tổng lượng chất
thải
%
thành phần hữu cơ
Đô thị ( toàn quốc ) 0,7 50 55
- Tp. Hồ Chí Minh 1,3 9
- Hà Nội 1,0 6
- Đà Nẵng 0,9 2
Nông thôn ( toàn quốc ) 0,3 50 60 - 65
Nguồn : Tổng cục BVMT,2009


Hình 4. Số lượng CTR sinh hoạt phát sinh ở các loại đô thị khác nhau
Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng Đông Nam Bộ có lượng
chất thải rắn sinh hoạt phát sinh lớn nhất tới 6.713 tấn/ngày hay 2.450.245 tấn/năm (chiếm 37,94% tổng
lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng
Đồng bằng sông Hồng có lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt đô thị là 4.441 tấn/ngày hay 1.622.060
tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị khu vực miền núi Tây Bắc Bộ có lượng phát sinh chất thải rắn sinh
hoạt đô thị thấp nhất chỉ có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng Tây
Nguyên, tổng lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm 3,68%) (bảng 3).
Bảng 3. Lượng CTRSH đô thị theo vùng địa lý ở Việt Nam đầu năm 2007
STT Đơn vị hành chính
Lượng CTRSH bình quân đầu
người (kg/người/ngày)
Tổng lượng CTRSH đô

thị phát sinh (tấn/ngày)
1 Đồng bằng sông Hồng 0,81 4.441
2 Đông Bắc 0,76 1.164
3 Tây Bắc 0,75 190
4 Bắc Trung Bộ 0,66 755
555 Duyên hải Nam Trung Bộ 0,85 1.640
6 Tây Nguyên 0,59 650
7 Đông Nam Bộ 0,79 6.713
8 Đồng bằng sông Cửu Long 0,61 2.136
Tổng cộng 0,73 17.692
Nguồn: Xây dựng mô hình và triển khai thí điểm việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt cho
các khu đô thị mới, Cục Bảo vệ môi trường 2008
5.3. Hiện trạng quản lý chất thải rắn đô thị
Từ trước tới nay, phần lớn rác thải sinh hoạt đô thị ở nước ta không được tiêu huỷ một cách an toàn ,chủ
yếu vẫn là đổ ở các bãi thải lộ thiên không có sự kiểm soát, gây ra nhiều vấn đề môi trường cho dân cư
quanh vùng mùi hôi và nước rác là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường đất, nước, không khí và là ổ phát
sinh ruồi, muỗi, chuột, bọ.
Việc chôn lấp rác đã và đang gây những tác động nhiều mặt đến môi trường sống của cộng đồng: (i)
Tốn diện tích đất rất lớn để chôn rác;(ii) Gây mùi hôi thối, ô nhiễm môi trường sống cho dân chúng sống cạnh hố
chôn rác;(iii) Nước thải từ các đống rác chứa nhiều chất độc hại, kim loại nặng gây ô nhiễm đất và ô nhiễm môi trường sản
xuất nông nghiệp; (iv) Những bãi chôn rác thường ở xa các đô thị nên tốn kém cho công đoạn chuyên chở rác và (v) Các
loại túi ni lông đựng rác khi chôn không bị phân hủy, tồn tại rất lâu trong đất dẫn đến làm giảm độ phì nhiêu đất.Từ đặc điểm
này cho thấy muốn tận dụng các chất thải hữu cơ sinh hoạt làm phân bón, cần thiết phải tiến hành thu gom và phân loại rác
ngay tại nguồn. Theo báo cáo của sở khoa học công nghệ và môi trường các tỉnh, thành và theo kết quả quan trắc của 3
vùng, mới chỉ có 32/64 tỉnh, thành có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã được đầu tư
xây dựng. Tuy nhiên, trừ bãi chôn lấp chất thải rắn tại Khu Liên hợp Xử lý chất thải Nam Sơn, Hà Nội và bãi chôn lấp chất
thải rắn tại thành phố Huế đang hoạt động trong sự tuân thủ các yêu cầu đảm bảo môi trường một cách tương đối, còn các
bãi khác, kể cả bãi chôn lấp rác thải hiện đại như Gò Cát ở thành phố Hồ Chí Minh, cũng đang ở trong tình trạng hoạt động
không hợp vệ sinh.Thành phố Hà Nội là địa phương đầu tiên tiến hành xử lý chất thải sinh hoạt bằng phương pháp chôn lấp
hợp vệ sinh (Sanitary Landfill) tại Khu Liên hợp Xử lý chất thải Nam Sơn kể từ năm 1999 đến nay với tổng năng lực chôn

lấp khoảng 13 triệu tấn chất thải sinh hoạt trên tổng diện tích 83ha.
- Tại các thành phố, việc thu gom và xử lý chất thải đô thị thường do Công ty Môi trường đô thị
(URENCO) đảm nhận. Tuy nhiên đã xuất hiện các tổ chức tư nhân tham gia công việc này ( Công ty Huy
Hoàng, Tp.Lạng Sơn ).Hầu hết rác thải không được phân loại tại nguồn,thường thu gom lẫn lộn và vận
chuyển đến bãi chôn lấp. Tỷ lệ thu gom tăng từ 40% - 67% năm 2002 lên đến 70 - 75% năm 2007 ở các
thành phố lớn, còn ở các đô thị nhỏ tỷ lệ này tăng lên tới 30% - 50% Tỷ lệ thu gom bình quân toàn quốc
vào khoảng 55%.
- Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động thu gom rác thải chủ yếu dựa vào kinh phí bao cấp từ
ngân sách nhà nước, chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia, tính chất xã hội hoá hoạt
động thu gom còn thấp, người dân chưa thực sự chủ động tham gia vào hoạt động thu gom cũng như
chưa thấy rõ được nghĩa vụ đóng góp kinh phí cho dịch vụ thu gom rác thải.
6. Phân loại rác tại nguồn và tái sử dụng- giải pháp có ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường
6.1. Hiện trạng phân loại rác tại nguồn ở một số đô thị
Dự báo tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị đến năm 2020 khoảng gần 22 triệu tấn/năm. Tỷ lệ phần
trăm các chất có trong rác thải không ổn định, biến động, phụ thuộc vào mức sống và phong cách tiêu
dùng của nhân dân ở mỗi đô thị. Tính trung bình, tỷ lệ thành phần các chất hữu cơ chiếm 45% - 60%
tổng lượng chất thải rắn; tỷ lệ thành phần nilông, chất dẻo chiếm từ 6 - 16%, độ ẩm trung bình của rác
thải từ 46 % - 52%. Để quản lý tốt nguồn chất thải này, đòi hỏi các cơ quan hữu quan cần đặc biệt quan
tâm hơn nữa đến các khâu giảm thiểu tại nguồn, tăng cường tái chế, tái sử dụng, đầu tư công nghệ xử
lý, tiêu hủy thích hợp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Theo các chuyên gia MT, nếu thực hiện
phân loại rác tại nguồn ( chỉ có rác vô cơ mới phải đưa đi chôn lấp) thì sẽ giảm ít nhất 50% khối lượng và
các vấn đề MT cũng giảm nhiều.Ở Hà Nội, chương trình thí điểm phân loại rác tại nguồn đã được triển
khai tại phường Phan Chu Trinh từ năm 2002. Các hộ gia đình được hướng dẫn cách phân loại rác thành
2 túi, một loại có thể làm phân compost, loại còn lại được phát túi nilon 2 màu để phân loại rác tại nhà.
Tuy nhiên hiệu quả của Dự án chưa cao, khi Dự án kết thúc thì quá trình phân loại rác cũng kết thúc.
Trung tuần tháng 2/2007, Công ty MT đô thị Hà Nội và cơ quan hợp tác phát triển Nhật Bản
(JICA) đã tổ chức hội nghị " Sáng lập các ngôi sao 3R Hà Nội" nhằm liên kết thiết lập mạng lưới các tổ
chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực MT. Đây là một phần của Dự án tái chế, tái sử dụng và giảm
thiểu rác thải tại 4 quận nội thành Hà Nội, được gọi là Dự án 3R.
Từ tháng 3/2007, thành phố Hà Nội đã tiến hành triển khai dự án phân loại rác tại nguồn áp dụng

cho 4 quận: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình và Đông Đa. Tại Tp. Hồ Chí Minh, Dự án " Thu gom, vận
chuyển và xử lý CTR với phương thức phân loại rác tại nguồn” ở Quận 5 với mã số: VNM 5-20 trong
chương trình ASIA URBS được sự tài trợ của UB Châu Âu đã được triển khai từ năm 2004 và kết thúc
vào tháng 9/2006. Mục tiêu của Dự án là quản lý rác thải bằng cách tiếp cận và giải quyết trên cả 3 mặt:
kinh tế- kỹ thuật, xã hội và MT, góp phần quan trọng vào việc giải quyết tình trạng ô nhiễm MT trầm trọng
ở Quận 5- một trong những trung tâm có mật độ dân số cao. Gần đây thị xã Long An đã triển khai
chương trình thí điểm phân loại rác tại nguồn với sự giúp đỡ của Liên minh Châu Âu. Dự án đã cung cấp
túi nilon và thùng đựng rác 2 màu để hỗ trợ người dân tiến hành phân loại rác dễ phân huỷ và rác có thể
tái chế ngay tại các hộ gia đình, cơ quan, xí nghiệp, trường học, cơ sở dịch vụ. Việc phân loại rác tại
nguồn ở thành phố Hà Nội đem lại nhiều lợi ích: (i) Tổng giá trị thu được từ phế liệu có thể tới 800 triệu
đồng/ ngày; (ii) Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nước; (iii) Tiết kiệm năng lượng (iv) Giảm
thiểu ô nhiễm môi trường nhờ giảm thiểu lượng khí mêtan ( CH
4
) và CO
2
phát sinh từ các bãi chôn lấp,
vốn là những khí gây hiệu ứng nhà kính; (v) Giảm tối đa khối lượng nước rác rò rỉ,đồng thời nước rò rỉ
được xử lý dễ dàng hơn và (vi) Giảm gánh nặng ngân sách chi cho công tác vệ sinh đường phố, vận
chuyển và xử lý ( hình 5).Điều quan trọng hơn, việc" phân loại rác tại nguồn" thì những công nhân vệ
sinh MT không còn là những người làm công việc thu dọn vệ sinh thầm lặng mà chính họ là những người
hướng dẫn gần gũi nhất với người dân về cách thức phân loại rác tại nguồn
Hình 5. Lợi ích của phân loại rác tại nguồn
6.2. Công nghệ ủ, chế biến rác thải hữu cơ - Composting (gọi tắt là công nghệ Composting). Người dân thành phố
thu gom rác hữu cơ sinh hoạt đã được phân loại tại gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Rác được thu gom
và chuyên chở đến địa điểm chế biến/ủ Composting.Trong bước này, khâu phân loại tại nguồn là quan trọng nhất vì
như vậy mới tiết kiệm được chi phí chuyên chở rác và chất lượng ủ phân mới đảm bảo. Nếu không phân loại ngay
tại nguồn thì trước khi ủ cũng phải phân loại. Thực tế tại nhà máy xử lý rác thải và sản xuất phân hữu cơ Cầu Diễn -
Hà Nội, quy mô nhà máy, trang thiết bị máy móc rất hiện đại nhưng tiêu tốn vào khâu phân loại rác rất lớn. Chỉ 1/3
lượng rác hữu cơ sau khi phân loại được đưa vào ủ làm phân, còn lại, hàng ngày nhà máy phải huy động 10-15 xe
chở rác to đưa chất vô cơ lên bãi rác Nam Sơn, rất tốn kém về chi phí và thời gian chở rác. Trong quy trìnhcông

nghệ Composting luôn có sự tham gia của vi sinh vật phân giải thông qua việc bổ sung các chế phẩm VSV, như vậy sẽ
tạo ra một loại phân hữu cơ an toàn, có chất lượng cao. Ở nội dung này kỹ thuật ủ và giống loại vi sinh vật đưa vào bể
ủ phân là quan trọng hơn cả, nó quyết định thời gian ủ và chất lượng phân hữu cơ. Hiện có nhiều phương pháp và quy
trình khác nhau nhưng đều theo nguyên tắc chung là bước đầu ủ nóng, sau đó ủ nguội ( hình 6 ).
Hình 6. Quy trình quản lý CTR hữu cơ bằng công nghệ Composting


×