Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học ''''tìm hiểu các kiểu (hình thức) tố tụng hình sự ''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.26 KB, 21 trang )

Tìm hiểu các kiểu (hình thức) tố tụng hình sự
LÊ TIẾN CHÂU
ThS.GV khoa Luật Hình sự - ĐH Luật TP.HCM
Trong quá trình cải cách tư pháp nói chung, hịan
thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt nam nói riêng,
việc tìm hiểu các kiểu tố tụng hình sự có ý nghĩa rất
quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy cho đến nay chưa có bài viết hay
công trình nghiên cứu khoa học nào được công bố về
vấn đề này. Để góp phần làm rõ về mặt lí luận, từ đó
dẫn đến khả năng tiếp thu những hạt nhân hợp lí của
từng kiểu tố tụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam, trong phạm vi bài viết này,
chúng ta tìm hiểu các kiểu tố tụng hình sự.
Căn cứ vào địa vị pháp lí của các chủ thể thực hiện
và vị trí, vai trò của các chức năng buộc tội, bào chữa
và xét xử, học thuyết tố tụng hình sự của nước Nga
đã phân biệt bốn kiểu tố tụng hình sự cơ bản đã từng
tồn tại và phát triển ở những thời kì khác nhau đó là:
kiểu tố tụng tố cáo, kiểu tố tụng thẩm vấn (tố tụng xét
hỏi), kiểu tố tụng tranh tụng và kiểu tố tụng pha trộn.
1. Kiểu tố tụng tố cáo
Đây là kiểu tố tụng được hình thành từ thời kì chiếm
hữu nô lệ, vì vậy nó mang nhiều dấu vết dân chủ của
thời kì thị tộc tan rã1. Nó tồn tại và phát triển cực
thịnh trong thời kì đầu của xã hội phong kiến. Nét
đặc trưng nhất trong hình thức tố tụng này là sự công
nhận vị trí đặc biệt của người buộc tội mà người này
thường là người bị tội phạm xâm hại. Việc khởi tố
hay không khởi tố vụ án phụ thuộc vào ý chí của


người buộc tội. Một công thức cổ La Mã đã khẳng
định: “Không có người tố cáo thì không có quan tòa”
(Memo Judex Sine Action). Ở kiểu tố tụng này vai
trò của bên buộc tội và bên bào chữa quan trọng như
nhau, các bên đều có các điều kiện “như nhau” khi
tham gia “tranh cãi”. Bất kì người nào khi quyền lợi
bị xâm hại đều có quyền tố cáo tới “cơ quan”, “ nhà
chức trách” có thẩm quyền, đây là cơ quan có quyền
phán xử bị cáo có tội hay vô tội2.
Do chủ thể thực hiện sự buộc tội chính là người bị kẻ
phạm tội xâm hại (người bị hại), nên khởi nguyên của
hình thức tố tụng này được gọi là “Tư tố”. Dần dần
về sau do nhận thức rằng hành vi phạm tội không chỉ
xâm hại đến lợi ích cá nhân người bị hại mà nó còn
gây ra thiệt hại cho xã hội, cho nhà vua, đòi hỏi khi tố
cáo tội phạm với nhà chức trách, người bị hại phải
tuyên thệ và nếu bị cáo được trắng án thì người tố cáo
có thể bị xử phạt… đã làm cho việc tố cáo dần dần bị
ngừng trệ. Do vậy, chủ thể buộc tội được chuyển giao
cho người đại diện lợi ích của nhà vua, tư tố chuyển
dần sang công tố.
Chủ thể thực hiện việc bào chữa chính là người bị
buộc tội, “và mọi người đều có thể tham gia nhằm
bảo vệ lợi ích của người bị buộc tội”3. Vào thời kì
này xuất hiện một tầng lớp người được gọi là “hiệp
sĩ” có điều kiện, có khả năng tự nguyện đứng ra bảo
vệ quyền lợi cho người bị buộc tội. Đó là những
người thân, bạn bè của người bị buộc tội, việc bào
chữa thực chất là việc thi thố tài năng, bất vụ lợi và
mang ý nghĩa cao cả là nhằm minh oan cho bạn bè,

người thân của mình4.
Còn chủ thể thực hiện việc xét xử lại không có sự
thống nhất ở các quốc gia trải qua kiểu tố tụng này,
đồng thời ở các thời điểm khác nhau, cơ quan xét xử
cũng khác nhau. Chẳng hạn ở nước Nga cổ đại “Công
xã trong những trường hợp nhất định xuất hiện dưới
hình thức Tòa án, các vị Tổng đốc, Đại công, Tri
Châu, Quan tài phán, Quan tòa, Quan thu thuế kiêm
cảnh sát… cũng đóng vai trò là người phân xử”5. Ở
nước Pháp, mãi cuối thời kì phong kiến, cơ quan xét
xử mới được thành lập và tách ra khỏi cơ quan hành
pháp…6.
Điều đặc biệt lưu ý là hệ thống chứng cứ trong kiểu
tố tụng này rất đơn giản. Ở đây, lời nhận tội của bị
can, bị cáo được coi là chứng cứ tốt nhất, là “Vua của
các chứng cứ”(Regina probationum - Theo cách diễn
đạt của Luật La Mã), ngoài ra còn có các hình thức
chứng minh khác như lời thề, phán xử theo ý trời
hoặc các thử thách khác (thử bằng lửa, dìm xuống
nước, dùng sắt đâm…). Hệ thống chứng cứ phổ biến
này mang tính chất mê tín dị đoan, định kiến và thể
hiện quan điểm tôn giáo. Đánh giá các hình thức
chứng minh này, Giáo sư Xơlusepxki - người Nga đã
viết: “Hai lực lượng ấy - lực lượng vật chất và lực
lượng mê tín - đã biểu lộ tác dụng đặc thù của chúng
trong con người của thời đại ấy, vì vậy rất tự nhiên là
cái trí tuệ không có khả năng tư duy trừu tượng của
con người đã tìm ra thủ đoạn đấu tranh chống tội
phạm trong hai nguồn gốc ấy”7. Như vậy, cơ quan có
quyền phán xử không cần quan tâm đến việc gì đã

xảy ra mà chỉ quan tâm đến khả năng chịu đựng thử
thách của người bị buộc tội hay quan tâm đến việc họ
cần phải thề thốt như thế nào… Đây là kiểu tố tụng
cổ xưa nhất và được hầu hết các nước trên thế giới sử
dụng vào các thời điểm khác nhau.
2. Kiểu tố tụng thẩm vấn (tố tụng xét hỏi)
Đây là kiểu tố tụng xuất hiện vào thời kì chiếm hữu
nô lệ, trong các Tòa án tôn giáo và dần dần thâm
nhập vào Tòa án thường. Kiểu tố tụng này phát triển
mạnh mẽ và phổ biến vào thời kì quân chủ, “Nó phản
ánh chế độ chính trị độc đoán, tàn bạo của giai cấp
phong kiến và phối hợp với chế độ Trung ương tập
quyền của nền quân chủ chuyên chế”8.
Đặc điểm của tố tụng xét hỏi được tiến hành bằng
hình thức viết, bí mật, không trực diện; các chức
năng tố tụng không được phân định một cách rõ ràng,
sự quan tâm đến các chức năng được thể hiện ở các
mức độ rất khác nhau. Đặc biệt là các cơ quan, tổ
chức thực hiện chức năng chưa được xác định cụ thể
mà hầu như tập trung vào Tòa án. Người bị hại bị loại
khỏi vai trò của người buộc tội và thay vào đó là một
công chức, còn bị cáo thì bị hạn chế khả năng bào
chữa. “Thẩm phán không chỉ thực hiện chức năng xét
xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, chức
năng buộc tội và một phần nào đó của chức năng bào
chữa. Bị cáo bị hạn chế khả năng bào chữa, họ không
được coi là chủ thể của quá trình tố tụng mà là đối
tượng truy cứu của tố tụng”9.
Hệ thống chứng cứ đặc trưng của hình thức tố tụng
này là tính hợp lệ của chứng cứ, khi đánh giá chúng

với những đòi hỏi hết sức khắt khe, nhưng nhiều quy
định về chứng cứ lại hết sức trừu tượng. Chẳng hạn
lời nhận tội của bị cáo được coi là “ chứng cứ vua”
của mọi loại chứng cứ, lời khai của người đàn ông,
của người giàu… đáng tin cậy hơn lời khai của người
đàn bà và của người nghèo… pháp luật còn cho phép
dùng nhục hình để thu thập chứng cứ.
Trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, những quy
định tố tụng trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia
Long… và thực tiễn xét xử đều phản ánh hình thức tố
tụng thẩm vấn mà đặc điểm cơ bản là: quan cai trị
hành chính là Thẩm phán và Điều tra viên; việc điều
tra tiến hành bí mật, chứng cứ chủ yếu là lời khai của
nhân chứng và lời nhận tội của bị cáo, việc xét xử
không công khai, tra tấn, gông cùm là biện pháp chủ
yếu trong tố tụng hình sự.
Trải qua từng thời kì lịch sử, kiểu tố tụng này đã có
nhiều thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới, mặc
dù Thẩm phán vẫn là trung tâm của quá trình thu thập
dữ kiện nhưng không còn hoặc hạn chế việc tra tấn.
Với mô hình đưa công tố thành một bên trong bất kì
vụ án hình sự nào và sử dụng hai Thẩm phán trong
quá trình điều tra, xét xử, phiên tòa cũng không phải
là sự cạnh tranh giữa hai bên đối địch mà là sự tiếp
tục điều tra, các bên phải cung cấp tất cả chứng cứ
thích hợp cho Tòa án10. Nhưng dù biểu hiện dưới
hình thức và trong giai đoạn lịch sử nào thì mô hình
tố tụng này bao giờ cũng đề cao vai trò quyết định
của Thẩm phán, các chức năng buộc tội và bào chữa
có tồn tại, song khá mờ nhạt, tại các phiên tòa, bên

buộc tội và bào chữa gần như thụ động, “vì sự thật
chỉ có thể và phải được tìm ra trong quá trình thẩm
vấn và điều tra”.
3. Kiểu tố tụng tranh tụng
Đây là kiểu tố tụng có nguồn gốc từ kiểu tố tụng tố
cáo và phát triển mạnh mẽ ở các nước theo hệ thống
luật án lệ “Ăng -lô-xắc - xông”, phổ biến nhất là
khoảng từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XIII. Tố tụng
tranh tụng cho rằng: “Sự thật sẽ được mở ra qua sự
tranh luận tự do và cởi mở giữa những người có dữ
liệu chính xác”11.
Hình thức tố tụng này dựa trên quan điểm cho rằng:
“Tố tụng là một cuộc tranh đấu tại Tòa án giữa một
bên là Nhà nước (thông qua đại diện) và một bên là
công dân bị nghi thực hiện tội phạm; là cuộc tranh
đấu thì hai bên đều được sử dụng các quyền và nghĩa
vụ pháp lí như nhau trong việc thu thập, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ, phân tích và đưa ra các kết luận
đối với những việc cụ thể. Ngôn ngữ được sử dụng
trong quá trình tố tụng đòi hỏi phải rất chính xác và
tố tụng có vai trò đặc biệt quan trọng đến mức nhiều
người cho rằng tố tụng tranh tụng là hệ thống coi
trọng luật tố tụng hơn luật nội dung. Về nguyên tắc
hai bên tranh tụng có khả năng như nhau không chỉ
tại phiên tòa mà cả trong giai đoạn trước phiên tòa
(giai đoạn điều tra), mặc dù các tư tưởng này thực
chất chỉ tồn trên giấy hoặc chỉ nằm trong đầu óc của
các luật sư xa rời cuộc sống mà thôi”12.
Ở hình thức tố tụng này, các bên buộc tội, bào chữa
không bắt buộc phải khách quan trong khi làm nhiệm

vụ. Công việc của họ là thu thập chứng cứ để buộc
tội hoặc bào chữa, phục vụ cho cuộc tranh đấu ở Tòa
án và họ có trách nhiệm chứng minh tính có lỗi (buộc
tội) hoặc tính không có lỗi, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự (bào chữa)13. Trong quá trình xét xử Tòa án
đóng vai trò “người trọng tài lạnh lùng” quan sát sự
tuân thủ quy tắc cuộc đấu của hai bên và quyết định
bên nào sẽ chiến thắng. Việc đánh giá chứng cứ phụ
thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm phán khi Thẩm
phán dựa vào tiêu chí hợp lệ của chứng cứ, “khuôn
mẫu chứng cứ”.
Để đảm bảo sự bình đẳng trong tranh tụng, người ta
đưa ra hai điều kiện:
- Sử dụng việc kiểm tra chéo, đối chất để xác định
tính chính xác của chứng cứ. Bên buộc tội và bên bào
chữa tập trung chỉ ra cái mà nhân chứng biết thực,
chứ không phải là cái mà họ nghĩ rằng họ biết.
- Quyền lực được chia sẻ cho các bên buộc tội và bào
chữa. Tòa án đóng vai trò “trọng tài” đảm bảo cho
các bên có đầy đủ các điều kiện như nhau khi tham
gia tranh tụng.
Với quan niệm tố tụng hình sự chỉ gồm có giai đoạn
xét xử vụ án tại phiên tòa14, các chức năng buộc tội,
bào chữa và xét xử chỉ thực sự bắt đầu tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm. Tại đây, với sự tham gia của các chủ
thể bên buộc tội (Công tố viên, người bị hại), bên bào
chữa (người bào chữa, bị cáo) và các chủ thể khác
dưới sự điều khiển của Tòa án (Thẩm phán) và dưới
sự giám sát của Hội đồng xét xử, ba chức năng buộc
tội, bào chữa và xét xử đều được thực hiện công khai.

Còn giai đoạn trước khi mở phiên tòa xét xử được
xem là giai đoạn tiền tố tụng, do các bên tiến hành
một số hoạt động để chuẩn bị cho cuộc tranh tụng tại
phiên tòa. Vì vậy, có một điều thú vị là trong kiểu tố
tụng này chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật
được giao cho Tòa án.Với tư cách là trung tâm của cơ
quan tư pháp, của hoạt động tố tụng, Tòa án có quyền
và có trách nhiệm đảm bảo cho các bên nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của pháp luật. Điều này khác
với những nước có tổ chức VKS như Liên Xô, Trung
Quốc, Việt Nam…. Mặc dù có những ưu điểm, song
kiểu Tố tụng mang tính “đối trọng” này cũng bị phê
phán là xa rời thực tế, “việc con người bị phán xét
như thế nào dường như quan trọng hơn việc xem họ
đã làm gì trên thực tế”15.
4. Kiểu tố tụng pha trộn (hỗn hợp)
Tố tụng pha trộn là kiểu tố tụng hỗn hợp giữa tố tụng
thẩm vấn và tố tụng tranh tụng. Chúng ta biết rằng
kiểu tố tụng thẩm vấn và kiểu tố tụng tranh tụng đều
có những ưu điểm, đồng thời cũng có những hạn chế
nhất định. Vì vậy quá trình tiếp nhận các kiểu tố tụng,
các quốc gia đều có sự lựa chọn. Tất nhiên là họ sẽ
lựa chọn những ưu điểm, tích cực của cả hai hệ thống
(và phù hợp với quốc gia của họ). Và đó chính là một
trong những nguyên nhân ra đời kiểu tố tụng pha
trộn.
Trong kiểu tố tụng này, ở giai đoạn trước khi xét xử
(khởi tố và điều tra) các hoạt động tố tụng hầu như
được tiến hành bí mật, hạn chế sự tham gia của
những người có liên quan, bị can hầu như bị tách

khỏi quá trình tố tụng…. Tuy nhiên, ở giai đoạn xét
xử, phiên tòa được tiến hành công khai, quyền bình
đẳng trước phiên tòa và quyền bào chữa của bị cáo
được đảm bảo, các bên buộc tội và bào chữa có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc đưa ra
những chứng cứ và những yêu cầu, lúc này Tòa án
đóng vai trò là người trọng tài đảm bảo cho các bên
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình…. Hình thức
này xuất hiện lần đầu tiên trong pháp luật tố tụng
hình sự của Cộng hòa Pháp 1808, sau đó được phát
triển mạnh mẽ trong pháp luật TTHS của các nước
theo truyền thống luật lục địa: Đức , Áo, Italia,
Bỉ…16.
Qua nội dung trình bày trên đây, có thể nhận xét rằng
mỗi kiểu tố tụng đều có những ưu điểm, tích cực, tất
nhiên cũng có những hạn chế nhất định xét dưới các
góc độ lý luận, lịch sử, điều kiện kinh tế – chính trị –
xã hội, phong tục tập quán, của mỗi quốc gia. Có thể
kiểu tố tụng có nhiều ưu điểm ở quốc gia này nhưng
ở quốc gia khác đó lại là những hạn chế. Cho đến nay
có những kiểu tố tụng không còn tồn tại (kiểu tố tụng
tố cáo), có những kiểu tố tụng có nhiều ảnh hưởng
đối với pháp luật tố tụng hình sự các nước. Chẳng
hạn kiểu tố tụng tranh tụng rất phổ biến ở những quốc
gia theo truyền thống Luật án lệ “Ăng-lô-xắc-xông”
như Anh, Mỹ, Canada và các nước thuộc địa của Anh
– Mỹ…. Trong khi đó kiểu tố tụng thẩm vấn lại có
ảnh hưởng rất lớn ở các nước theo truyền thống luật
lục địa. Do có nguồn gốc từ truyền thống luật lục địa
nên pháp luật các nước XHCN cũng bị ảnh hưởng

của hệ tố tụng thẩm vấn17. Tuy nhiên hiện nay, ở các
quốc gia việc vận dụng mô hình tố tụng nào đã có sự
lựa chọn và vận dụng linh hoạt, hầu như không có sự
áp dụng cứng nhắc một mô hình tố tụng nào.
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy
TTHS Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của kiểu tố
tụng hỗn hợp (pha trộn) tức là đã tiếp thu lựa chọn
những ưu điểm, những yếu tố hợp lý của cả hai kiểu
tố tụng thẩm vấn và tranh tụng. Vì vậy, qua hơn 50
năm tồn tại và phát triển, mô hình TTHS của Việt
Nam đã đem lại những kết quả rất đáng tự hào, góp
phần quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ mới
thì: “Chất lượng công tác tư pháp nói chung (trong đó
vai trò của pháp luật TTHS-NV) chưa ngang tầm với
yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường
hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các
cơ quan tư pháp”18. Vì vậy, để góp phần quan trọng
vào cuộc đấu tranh chống tội phạm trong điều kiện
mới, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục cải cách tư pháp.
Chúng ta không thể chấp nhận những thủ tục rườm
rà, nhiều tầng nấc, quan liêu và bất lợi cho các bên
tham gia tố tụng.
Tại Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị đã xác định yêu cầu là phải: “Nâng cao chất
lượng công tố của Kiểm sát viên tại Phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử

Toà án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình
đẳng trước Pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan;
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo Pháp luật; việc xét xử của Toà án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo…”.
Từ nội dung định hướng trên đây, có thể nhận thức
rằng TTHS Việt Nam cần tăng cường các yếu tố
tranh tụng, như Mác đã nói”sự thật chỉ có thể được
tìm ra thông qua tranh luận và bút chiến…”.
Muốn vậy trong quá trình hoàn thiện pháp luật
TTHS, theo chúng tôi cần phải phân định rõ ràng các
chức năng của tố tụng, xác định rõ phạm vi quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ thể thực hiện các
chức năng tố tụng hình sự. Qua đó cần có cơ chế
pháp lý (hoàn thiện qui định pháp luật đảm bảo sự
công bằng trong tranh tụng, trả lại đúng chức năng
của các cơ quan THTT…) và tổ chức (nâng cao trình
độ, số lượng đội ngũ thực hiện chức năng tố tụng, cải
cách bộ máy, nâng cao nhận thức cán bộ…) để thực
hiện tốt các chức năng tố tụng, trong đó đặc biệt chú
trọng đến các chức năng cơ bản, đó là chức năng
buộc tội, bào chữa, xét xử….

1 Vư-sin-xki, Lý luận chứng cứ tư pháp trong pháp
luật Xô viết, NXB Hà Nội, 1967, trang 37.
2 Võ Thọ, Một số vấn đề về Tố tụng hình sự, NXB
Pháp lý, Hà Nội, 1985, trang 11.
3 Võ Thọ, sđd, trang 11.

4 Trần Văn Bảy, Người bào chữa trong Tố tụng hình
sự, Luận văn thạc sĩ Luật học 2000, trang 31.
5 V.M. Xavitxki, Buộc tội Nhà nước tại phiên tòa,
Nhà xuất bản Khoa học, Matxcơva, 1971, trang 116.
6 Vũ Mộc, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu đề tài
khoa học cấp bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Hà Nội, 1999, trang 190.
7 Kanxtantin-Phêđơrôvich Giusencô, Giáo trình
TTHS, NXB MGU, 2000, trang 19.
8 Chuyên đề “Những vấn đề lí luận về Hình sự,
TTHS, Tội phạm học” của Viện thông tin Khoa học
Xã hội, Hà Nội,1981 trang 11.
9 Kanxtantin- Phêđơrôvich Gusenco, Sđd, trang 22.
10 Chuyên đề: Tư pháp Hình sự so sánh, Thông tin
Khoa học pháp lí, Viện nghiên cứu khoa học pháp lí,
Số đặc biệt, trang 122.
11 Chuyên đề: Tư pháp Hình sự so sánh, Sđd, tr.123.
12 Chuyên đề: Tư pháp Hình sự so sánh, Sđd, tr.123.
13 Kanxtantin Phêđơrôvich Gusencô, Sđd, trang 22.
14 Nguyễn Đức Mai, Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ
yếu đề tài khoa học cấp bộ của VKSNDTC, Hà Nội
1995, trang 100.
15 Tư pháp hình sự so sánh, Sđd, trang 126.
16 V.M.Xavitxki, Buộc tội nhà nước tại phiên tòa,
Sđd, trang 25.
17 Chuyên đề Tư pháp hình sự so sánh, Sđd, trang
120.
18 Nghị Quyết 08/BCT, ngày 2-1-2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới.
g

×