Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

luận văn hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty cptm tin học &kỹ thuật công nghệ tân dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.44 KB, 105 trang )









LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công tác kết toán bán hàng và xác
định kết quả kinh doanh tại công ty CPTM tin
học &kỹ thuật công nghệ Tân Dương





Lời nói đầu


Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có những chuyển biến to lớn,
Trước xu thế hội nhập toàn cầu hóa các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước
một thử thách đó là sự cạnh tranh, Khi mà tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng
trở nên gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp Thương mại phải xác định cho mình hướng
kinh doanh đúng đắn.
Đứng trước thực tiễn đó, các biện pháp quản lý nói chung, kế toán bán hàng và
xác định kết quả bán hàng nói riêng cần phải thường xuyên bổ sung, đổi mới cho phù
hợp với sự vận động và phát triển của thị trường lưu thông hàng hóa. Công tác kế
toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở các doanh nghiệp đã được tổ chức hoàn
thiện dần, nhưng mới chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Số liệu kế
toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở nhiều doanh nghiệp chưa là cơ sỏ tin


cậy cho công tác quản lý của các cấp có liên quan; chưa là cơ sở tin cậy cho việc
đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bởi vậy, cải tiến và hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nói chung, kế toán bán
hàng và xác định kết quả kinh doanh thương mại nói riêng trong các doanh nghiệp
thương mại luôn được đặt ra với mục đích nhằm tổ chức khoa học, hợp lý hơn nữa
công tác kế toán này, làm cơ sở cho các thông tin kế toán cung cấp đảm bảo tính đúng
đắn và đáng tin cậy. Nhận thức được tầm quan trọng này, đồng thời để đưa kiến thức
vào thực tế, nâng cao trình độ hiểu biết bản thân; em đã thực hiện chuyên đề với đề
tài :
“Hoàn thiện công tác kết toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
tại công ty CPTM tin học &kỹ thuật công nghệ Tân Dương”





Nội dung của chuyền đề chia làm ba phần chính:
Chương1:Những vấn đề lý luận chung của công tác hạch toán bán hàng và xác
định kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ.
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
tại công ty CPTM tin học và kỹ thuật công nghệ Tân Dương.
Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định
kết quả kinh doanh ở công ty CPTM tin học và kỹ thuật công nghệ Tân Dương.



1: Những vấn đề lý luận chung về công tác kế toán bán hàng và xác định kết
quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại



1.1 - Đặc điểm của hoạt động sản xuất, kinh doanhThương mại:
Đặc trưng của các doanh nghiệp Thương mại là hoạt động mua, bán vật tư,
hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trung gian và nhu cầu tiêu dùng cuối cùng
của xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp Thương mại phải tìm hiểu,
bám sát thị trường, nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó tác
động thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, đảm bảo chất lượng hàng hóa và phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Trong nền kinh tế mở thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng là hoạt
động quan trọng trong ngành Thương mại. Hoạt động của các doanh nghiệp Thương
mại chủ yếu là tổ chức thu mua, gia công hàng hóa để xuất khẩu, đồng thời nhập hàng
hóa của nước ngoài về nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng.
Mặt khác khi nền kinh tế, xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì hoạt
động kinh doanh dịch vụ là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tê xã hội. Hoạt

động kinh doanh dịch vụ cũng là hoạt động kinh doanh Thương mại. Hoạt động của
các doanh nghiệp thương mại này là hoạt động cung ứng lao vụ, dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu của sản xuất kinh doanh, nhu cầu về đời sống và sinh hoạt của nhân dân.
Song, trong nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường,
các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành các hoạt động sản xuất, gia công để tăng
thêm hàng hóa cả về chất lượng, số lượng và chủng loại, đảm bảo nhu cầu đa dạng
hóa khách hàng.

1.2 - Những vấn đề lý luận chung về bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
Thương mại:
1.2.1 - Bán hàng và đặc điểm của quá trình bán hàng:
1.2.1.1- Khái niệm:
Bán hàng ở các đơn vị kinh doanh là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn
hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả tiêu thụ, là kết quả cuối cùng của
hoạt động SXKD ở đơn vị, thông qua quá trình bán hàng, nhu cầu của người tiêu

dùng về một giá trị sử dụng nào đó được thoả mãn và giá trị của hàng hoá được thực
hiện.
Bán hàng là quá trình thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá thông qua quan
hệ trao đổi, đó là quá trình doanh nghiệp cung cấp hàng hoá cho khách hàng và khách
hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp
1.2.1.2-Đặc điểm
* Có sự thoả thuận, trao đổi giữa người mua và người bán. Người bán đồng ý
bán, người mua đồng ý mua, trả tiền và chấp nhận trả tiền.
* Có sự thay đổi quyền sở hữu về hàng hoá: người bán mất quyền sở hữu còn
người mua có quyền sở hữu về hàng hoá đã mua bán.
* Trong quá trình tiêu thụ hàng hoá các đơn vị kinh tế cung cấp cho khách hàng
một khối lượng hàng hoá nhất định và nhận lại từ khách hàng một khoản tiền gọi là
doanh thu tiêu thụ hàng hoá.
1.2.2 - Khái niệm doanh thu bán hàng:
Doanh thu bán hàng là số tiền đã thu hoặc phải thu tính theo giá bán của số sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ đã được xác định đã bán (đã tiêu thụ)
Trong mọi hình thái xã hội, mọi ngành nghề và loại hình doanh nghiệp các
hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải quan tâm đến kết quả của quá trình hoạt động
đó. Kết quả hoạt động kinh doanh Thương mại là phần thu nhập còn lại sau khi trừ đi
tất cả các chi phí để có thu nhập. Kết quả hoạt động kinh doanh Thương mại còn gọi
là lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh.

1.2.3 - ý nghĩa, vai trò của quá trình bán hàng và XĐKQ bán hàng:
Trong nền kinh tế chỉ huy kế hoạch hóa tập trung, việc tiêu thụ sản phẩm của
các doanh nghiệp được thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo từ trên xuống và không chú
trọng đến nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ là linh hồn của mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp phải tự tìm thị trường và mọi
biện pháp để đạt được mục đích tiêu thụ càng nhiều càng tốt.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi

thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của hàng hóa. Thời điểm
xác định doanh thu bán hàng tùy thuộc vào từng phương thức bán hàng và phương
thức thanh toán tiền bán hàng. Tuy nhiên, điều đó sẽ chi phối việc hạch toán doanh
thu và tiền bán hàng, cũng như thanh toán với khách hàng.
Tiêu thụ hàng hóa là điều kiện để tái sản xuất xã hội. Qua tiêu thụ giá trị sản
phẩm được thực hiện. Do vậy, tiêu thụ khuyến khích tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất
phát triển để đạt được sự thích ứng giữa cung và cầu. Thông qua thị trường, tiêu thụ
góp phần điều hòa giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng hóa và tiêu thụ trong lưu
thông, giữa nhu cầu và khả năng thanh toán Đồng thời, đó cũng là điều kiện để đảm
bảo sự phát triển cân đối trong từng ngành, từng vùng cũng như trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Bên cạnh đó, tiêu thụ tốt đảm bảo thu hồi được vốn nhanh, tăng tốc độ quay
vòng của đồng vốn, tiết kiệm vốn lưu động và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
sản xuất được tiến hành bình thường. Về luân chuyển vốn, tiêu thụ là quá trình
chuyển hóa hình thức giá trị của vốn đầu tư, từ hình thức hàng hóa thông thường sang
hình thức hàng hóa tiền tệ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến
sự tồn tại, phát triển hay phá sản của doanh nghiệp. Tiêu thụ cũng là cơ sở của doanh
thu và lợi nhuận, tạo ra lợi nhuận để bù đắp chi phí, đồng thời góp phần bảo toàn và
phát triển nguồn vốn kinh doanh.

1.2.4 - Mối quan hệ giữa bán hàng và XĐKQ bán hàng:
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh Thương mại bán hàng và xác định kết
quả kinh doanh tuy là khâu cuối cùng nhưng lại đóng vai trò trọng yếu, tác động đến
sự thành bại của doanh nghiệp. Do đó, chúng thực sự có sự liên kết và có mối quan
hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng đến nhau. Thật vậy, tiêu thụ hàng hóa là cơ sở để xác
định kết quả bán hàng. Việc XĐKQ bán hàng đạt được lại chính là cơ sở để xác định
chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ; xác định nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với Nhà nước: như là phần thuế doanh thu phải nộp; xác định được
chi phí phục vụ cho sản xuất, kinh doanh sẽ bỏ ra và số lợi nhuận thu về.
Mặt khác, kết quả bán hàng sau mỗi kỳ hoạt động có tác động trực tiếp tới

doanh nghiệp. Bởi lẽ, bản chất của koạt động kinh doanh Thương mại là buôn bán vật
tư, hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của xã hội. Như vậy, bán hàng
và kết quả bán hàng có mối liên hệ mật thiết không thể tách rời. Việc bán hàng hóa
như thế nào là cơ sở xác định kết quả bán hàng. Ngược lại, kết quả bán hàng là căn cứ
quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định sẽ tiếp tục tiêu thụ mặt hàng nào, giảm
việc kinh doanh mặt hàng nào không còn thích ứng với nhu cầu của thị trường và giá
cả ra sao Qua đây, ta có thể khẳng định kết quả bán hàng là mục tiêu hàng đầu của
đơn vị hướng tới, còn bán hàng chính là “ phương tiện trực tiếp” để thực hiện.
1.3 - Các phương thức bán hàng và thủ tục chứng từ ban đầu:
Trong doanh nghiệp Thương mại, bán hàng bao gồm hai khâu: bán buôn và
bán lẻ. Do vậy, các phương thức bán hàng cũng được chia thành các phương thức bán
buôn và các phương thức bán lẻ riêng biệt.
1.3.1 - Các phương thức bán buôn:
Bán buôn là việc tiêu thụ hàng hóa cho các đơn vị Thương nghiệp để tiếp tục
chuyển bán hoặc bán các loại nguyên liệu, vật liệu cho các đơn vị sản xuất; Bên cạnh
đó, còn cung cấp hàng hóa cho các tổ chức xã hội khác để thỏa mãn nhu cầu kinh tế.
1.3.1.1- Bán buôn qua kho:
Đây là phương thức bán buôn mà hàng hóa xuất từ kho của doanh nghiệp để
bán cho người mua. Qua phương thức này, hàng hóa được tập trung ở kho của doanh

nghiệp trước khi tiêu thụ. Phương thức bán buôn qua kho giúp cho doanh nghiệp tập
trung được nguồn hàng, chủ động ký kết hợp đồng kinh tế với người mua; nhưng bên
cạnh đó cũng có những bất cập như: chi phí kinh doanh cao hơn, đặc biệt là khâu dự
trữ hàng hóa và làm chậm tốc độ lưu chuyển hàng hóa cũng như vòng luân chuyển
vốn kinh doanh. Đối với phương thức bán buôn qua kho thường sử dụng 2 hình thức
bán hàng sau đây:
1.3.1.1.1-Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng:
Theo hình thức này, doanh nghiệp Thương mại căn cứ vào hợp đồng kinh
tế đã ký với người mua để gửi hàng cho người mua bằng phương tiện vận chuyển tự
có hoặc thuê ngoài. Trong trường hợp này, hàng hóa gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu

của doanh nghiệp. Chi phí vận chuyển do doanh nghiêp chịu hoặc bên mua phải trả,
tùy thuộc vào điều kiện quy định trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận, ký kết.
Chứng từ bán hàng trong trường hợp này là hóa đơn hoặc phiếu xuất kho
kiêm hóa đơn do doanh nghiệp lập. Thời điểm hàng hóa được coi là bán theo hình
thức này là khi bên mua xác nhận đã nhận được hàng hoặc chấp nhận thanh toán; lúc
đó hàng hóa mới được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp sang người mua.
Trong trường hợp này khi hàng xuất kho chuyển đi, phòng kinh doanh lập
“Phiếu xuất kho kiêm phiếu vận chuyển” thành 5 liên: phòng kinh doanh lưu 1 liên;
sau khi xuất hàng thủ kho lưu 1 liên; gửi kèm hàng hóa 1 liên; chuyển cho phong kế
toán 2 liên. Hàng chưa được tiêu thụ nên được theo dõi ở trạng thái “Hàng gửi đi
bán” và vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Khi giao hàng tại kho của người mua, được người mua thanh toán hoặc
chấp nhận thanh toán cho số hàng hóa đó thì lập “Hóa đơn bán hàng” thành 3 liên:
giao cho bên mua 1 liên; phòng kinh doanh lưu 1 liên; gửi phòng kế toán 1 liên; Tại
thời điểm này hàng hóa mới được coi là tiêu thụ.
1.3.1.1.2- Bán buôn giao hàng trực tiếp tại kho doanh nghiệp:
Theo hình thức này, bên mua căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký sẽ uỷ nhiệm
cho cán bộ nghiệp vụ của mình đến nhận hàng tại kho người bán và chịu trách nhiệm
áp tải hàng hóa về bằng phương tiện tự có hoặc thuê ngoài. Khi hàng hóa xuất giao

cho người mua thì được coi là tiêu thụ. Từ đó, phòng kinh doanh lập “Phiếu xuất kho
kiêm hóa đơn bán hàng” thành 4 liên: lưu 1 liên, chuyển cho kho 3 liên; thủ kho xuất
hàng xong lưu 1liên chuyển 1 liên cho người mua, còn 1 liên giao cho phòng kế toán.
1.3.1.2- Bán buôn vận chuyển thẳng:
Với phương thức này, hàng hóa bán cho bên mua được giao thẳng từ bên cung
cấp không qua kho của doanh nghiệp. Theo phương thức này, doanh nghiệp Thương
mại mua hàng của bên cung cấp để bán thẳng cho người mua. Đây là phương thức
bán hàng tiết kiệm nhất vì giảm được chi phí kinh doanh, tăng nhanh tốc độ tiêu thụ
hàng hóa, giảm sự ứ đọng của hàng tồn kho, đảm bảo quay vòng vốn nhanh. Có 2
hình thức bán buôn trong phương thức bán buôn vận chuyển thẳng:

1.3.1.2.1- Bán buôn vận chuyển thẳng trực tiếp:
(Không tham gia thanh toán)
Theo hình thức này, doanh nghiệp Thương mại mua hàng của bên cung cấp
giao bán thẳng cho người mua; Doanh nghiệp chỉ đóng vai trò trung gian môi giới
trong quan hệ mua bán với người mua; uỷ nhiệm cho người mua đến nhận hàng và
thanh toán với người bán theo hợp đồng kinh tế mà doanh nghiệp đã ký với người
bán. Tùy theo điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế mà doanh nghiệp Thương
mại được hưởng một khoản lệ phí do bên mua hoặc bên bán trả (thường là bên bán
trả). Khoản lệ phí này chính là doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp.Trong trường
hợp này, doanh nghiệp Thương mại không lập chứng từ kế toán bán hàng mà chỉ lập
“Phiếu thu” về số hoa hồng được hưởng.
1.3.1.2.2-Bán buôn VCT theo hình thức chuyển hàng:
(Có tham gia thanh toán)
Theo hình thức này, doanh nghiệp vừa phải thanh toán tiền mua hàng với
người bán, vừa phải thanh toán tiền bán hàng với người mua, nghĩa là đồng thời phát
sinh cả hai nghiệp vụ mua hàng và bán hàng. Doanh nghiệp Thương mại có thể vận
chuyển hàng đến kho người mua, giao hàng xong được coi là tiêu thụ. Nếu bên mua
tự vận chuyển thì thực hiện giao hàng tay ba tại kho của người bán, sau đó háng hóa
được coi là xác định tiêu thụ ngay. Chứng từ kế toán bán hàng trong trường hợp này

là “ Hóa đơn bán hàng giao thẳng”, đây là “Hóa đơn kiêm phiếu vận chuyển hàng
giao thẳng” do doanh nghiệp lập thành 3 liên: gửi cho bên mua 1 liên, chuyển cho
phòng kế toán 2 liên để ghi sổ.
1.3.2 - Các phương thức bán lẻ:
Bản lẻ là viêc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng cá nhân và một bộ phận nhu cầu kinh tế tập thể. Hàng hóa bán lẻ vượt ra
khỏi lĩnh vực lưu thông, đi sâu vào lĩnh vực tiêu dùng và số lượng qua mỗi lần bán
thường sử dụng hai phương thức bán hàng sau đây: Bán lẻ thu tiền tập trung; Bán lẻ
thu tiền trực tiếp; Bán hàng tự động; Bán hàng theo phương thức đặt hàng. Bên cạnh
đó, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội, các doanh nghiệp đều

đưa ra các phương thức bán lẻ khác phù hợp với loại hình kinh doanh buôn bán của
doanh nghiệp mình.
1.3.2.1- Bán lẻ thu tiền tập trung:
Trong phương thức này, nghiệp vụ thu tiền và nghiệp vụ giao hàng tách rời
nhau nhằm chuyên môn hóa công tác bán hàng. Mỗi quầy hàng hoặc liên quầy hàng
đều bố trí một nhân viên thu ngân chuyên thu tiền và viết hóa đơn hoặc tích kê mua
hàng cho khách.
Cuối ca hoặc cuối ngày, nhân viên thu ngân kiểm tiền, lập giấy nộp tiền bán
hàng (đây chính là doanh thu của cửa hàng trong ngày); Sau đó, nhân viên bán hàng
tập hợp hóa đơn và tích kê hàng hóa để tiến hành kiểm kê; Đối chiếu 2 chứng từ này
với nhau để làm căn cứ cho kế toán ghi sổ.
1.3.2.2- Bán lẻ thu tiền trực tiếp:
Theo phương thức bán lẻ thu tiền trức tiếp, nhân viên bán hàng hoàn toàn chịu
trách nhiệm vật chất về số hàng đã nhận để bán ở quầy; đồng thời, chịu trách nhiệm
quản lý tiền bán hàng trong ngày. Nhân viên bán hàng trực tiếp thực hiện việc thu
tiền và giao hàng cho người mua. Cuối ca, cuối ngày nhân viên bán hàng lập giấy nộp
tiền bán hàng, đồng thời kiểm kê hàng còn lại ghi vào “Thẻ quầy hàng” và xác định
lượng hàng bán ra trong ngày cho từng mặt hàng. Qua phương thức này, nghiệp vụ
bán hàng hoàn thành trực diện với người mua và thường không cần lập chứng từ cho

từng nghiệp vụ bán lẻ. Tùy thuộc vào yêu cầu quản lý mà cuối ca, cuối ngày hoặc
định kỳ ngắn nhân viên bán hàng kiểm kê hàng hóa và dựa vào quan hệ cân đối luân
chuyển hàng hóa để xác định lượng hàng tiêu thụ.
Sau đó, nhân viên bán hàng lập “Báo cáo bán hàng” trong ca, ngày hoặc trong
kỳ để nộp cho phòng kế toán. Hàng ngày, khi nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ, nhân
viên bán hàng phải lập giấy nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ, đây chính là một loại
chứng từ; “Báo cáo bán hàng” do nhân viên bán hàng lập.
Để thuận tiện cho việc quản lý hàng hóa bán ra trong ca, hàng ngày hoặc định
kỳ nhân viên bán hàng phải mở Thẻ hàng cho từng mặt hàng để ghi chép, tập hợp
nghiệp vụ bán hàng theo mẫu sau đây:

Như vậy, đối với phương thức bán lẻ thời điểm được coi là tiêu thụ chính là
khi người mua nhận được hàng và trả tiền. Vì bán lẻ là bán trực tiếp với số lượng
hàng ít, quá trình bán hàng diễn ra đơn giản, nhanh chóng nên việc XĐ thời điểm
hàng hóa được coi là bán không phức tạp như đối với các phương thức bán buôn.
Về hình thức chứng từ, đối với phương thức bán lẻ thường không cần lập
chứng từ cho từng nghiệp bán hàng mà mỗi ca, hàng ngày hoặc định kỳ ngắn tiến
hành lập chứng từ chung đó là “Báo cáo bán hàng ”, còn tiền bán hàng ghi theo giấy
nộp tiền bán hàng; Đối chiếu doanh thu bán hàng trên Báo cáo với số tiền thực nộp sẽ
xác định được số tiền thừa (thiếu) trong quá trình tiêu thụ hàng hóa.
1.3.2.3-Bán hàng tự động:
Phương thức bán hàng này được áp dụng đối với một số mặt hàng có thể sử
dụng máy bán hàng tự động để thực hiện nghiệp vụ bán hàng. Qua cách thức thực
hiện của phương thức bán hàng tự động này cho thấy sự tiện dụng và cũng không
kém phần hiệu quả nhằm đưa hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng ở mọi lúc, mọi
nơi. Tuy nhiên, nó cũng không đòi hỏi phải có một không gian rộng lớn.
1.3.2.4- Bán hàng theo phương thức đặt hàng:
Theo phương thức bán hàng này, khách hàng đặt mua hàng hóa tại quầy hàng;
doanh nghiệp cử nhân viên chuyên trách vận chuyển hàng đến địa điểm mà người

tiêu dùng yêu cầu. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp phải lập “Báo cáo bán hàng”
phản ánh riêng.
1.3.2.5-Bán hàng theo phương thức khách hàng tự chọn:
Theo phương thức bán hàng này, các quầy hàng, các gian hàng không có nhân
viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách hàng tại từng quầy hàng mà chỉ có các
nhân viên chuyên trách làm nhiệm vụ quan sát, bảo vệ gian hàng do mình đảm
nhiệm; Đồng thời, có trách nhiệm hướng dẫn, giới thiệu hàng hóa cho khách hàng có
nhu cầu mua. Trong hình thức bán hàng này, khách hàng sẽ tự lựa chọn hàng hóa ở
quầy hàng, gian hàng; sau đó thanh toán tiền ở bàn thu ngân; nhân viên thu ngân
được bố trí ngay ở lối ra.


1.3.2.6- Phương thức bán hàng đại lý:
Giao hàng cho đại lý chính là biến tướng của phương thức bán buôn chuyển
hàng và rất phổ biến ở các doanh nghiệp Thương mại hiện nay. Hàng ký gửi được coi
là “Hàng gửi đi bán” vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cho đến khi chính
thức tiêu thụ. Để thực hiện được phương thức bán hàng này cần phải có Hợp đồng
Bán hàng đại lý ký kết giữa 2 bên: Bên chủ hàng (gọi là bên giao đại lý - gọi tắt là
Bên A); Bên bán hàng đại lý (Bên B).
Theo hợp đồng đại lý, bên chủ hàng (bên A) xuất giao sản phẩm, hàng hóa cho
bên bán hàng đại lý Số sản phẩm, hàng hóa này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên chủ
hàng ( bên A), khi bên B báo đã bán được hàng lúc đó mới ghi nhận tiêu thụ cho số
sản phẩm, hàng hóa đã giao cho bên B. Bên đại lý khi bán hàng được hưởng hoa
hồng đại lý (tiền công bán hàng). Hoa hồng bán đại lý chính là doanh thu của bên B.
Bên chủ hàng (bên A) trả tiền hoa hồng cho bên B, đây là chi phí thuê bán hàng
thuộc phần chi phí bán hàng.
Bên bán hàng đại lý khi nhận được hàng của chủ hàng về bán, số hàng này vẫn
thuộc quyền sở hữu của bên A; bên B chỉ là đối tượng đi bán thuê để nhận lại phần
hoa hồng được hưởng ( tiền thù lao bán thuê) ; do đó số sản phẩm, hàng hóa nhận về
được ghi nhận là số sản phẩm, hàng hóa bán hộ, nhận ký gửi. Khi bán được hàng, lúc
đó mới khai doanh thu, đây chính là hoa hồng được hưởng.
Phương thức bán hàng đại lý là hình thức tiêu thụ hàng hóa đang được các
doanh nghiệp quan tâm. Phương thức này giúp cho các doanh nghiệp (các nhà sản
xuất, các nhà phân phối) mở rộng được thị trường, tăng sức cạnh tranh; mặt khác tận
dụng được cơ sở vật chất sẵn có như ( quầy hàng, cửa hàng, kinh nghiệm kinh
doanh )
1.3.2.7- Phương thức bán hàng trả góp:
Bán hàng trả góp là một hình thức biến tướng của phương thức bán hàng trả
chậm. Các phương thức thanh toán tiền bán hàng bao gồm: bán hàng thu tiền trực tiếp
và bán trả chậm (bán chịu). Qua phương thức này, người mua trả tiền hàng làm nhiều
lần, trong một khoảng thời gian tương đối dài. Lần đầu tại thời điểm mua hàng (nhập


hàng) số còn lại sẽ trả dần vào các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi theo thỏa
thuận.
Tổng số tiền người mua chấp nhận trả (cam kết sẽ trả) cao hơn số tiền mua
hàng hóa đó ở điều kiện bình thường. Phần chênh lệch giữa giá bán hàng theo phương
thức trả góp với giá bán thông thường chính là thu nhập hoạt động tài chính của bên
bán.
Phương thức bán hàng trả góp là phương thức rất quen thuộc trong xã hội tiêu
dùng Phương thức bán hàng trả góp lấy đối tượng phục vụ chính là các “Thượng đế”
có thói quen và nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao nhưng khả năng tài chính có hạn.
Qua phương thức bán hàng này, giúp doanh nghiệp khai thác thị trường tiềm
năng một cách triệt để mà hầu như không phải đầu tư thêm ( lãi suất thu tiền hàng bù
đắp chi phí, vốn tăng trong khâu thanh toán và dự phòng rủi ro có thể xảy ra).
1.3.2.8-Tiêu thụ theo phương thức hàng đổi hàng:
Theo phương thức tiêu thụ này, bên bán xuất giao hàng hóa cho bên mua;
đồng thời nhận lại từ bên mua (vật liệu, hàng hóa hoặc tài sản cố định ) Như vậy,
quà trình mua và bán diễn ra đồng thời trên nguyên tắc giá phí của hạch toán kế toán.
Khi xuất giao sản phẩm hàng hóa cho bên mua, bên bán phải phản ánh thuế giá trị gia
tăng (GTGT) phải nộp theo giá bán. Đồng thời, khi nhận vật liệu, hàng hóa hoặc
TSCĐ phải phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ. Phương thức tiêu thụ hàng đổi
hàng được áp dụng cho những doanh nghiệp mà sản phẩm của doanh nghiệp đó là
những vật liệu hoặc là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp khác hoặc giữa hai doanh
nghiệp có mối quan hệ giao dịch cung ứng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
1.3.2.9-Phương thức tiêu thụ nội bộ:
Trong các doanh nghiệp ngoài các nghiệp vụ thông thường còn phát sinh các
nghiệp vụ cung ứng sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ giữa đơn vị chính với đơn vị
trực thuộc. Ngoài ra, tiêu thụ nội bộ còn bao gồm nội dung sau đây:
* Doanh nghiệp sử dụng hàng hóa của mình để trả lương cho công nhân viên
trong những trường hợp cần thiết.

* Sử dụng sản phẩm hàng hóa để biếu tặng, phục vụ hội nghị của doanh

nghiệp.
* Sử dụng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, quảng cáo
1.4 - Phương pháp xác định KQKD kinh doanh Thương mại:
Trong nền kinh tế thị trường, kết quả tiêu thụ là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà quản trị, nhà đầu tư, tài trợ. Kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ
được biểu hiện bằng chỉ tiêu “Lãi gộp” và “Lãi thuần”. Kế toán phải xác định kết quả
kinh doanh của kỳ kế toán, tức là xác định lợi nhuận (hoặc lỗ) của một kỳ kế toán.
Hoạt động kinh doanh của đơn vị diễn ra liên tục từ kỳ kế toán này sang kỳ kế
toán khác; vì vậy việc phân định các nghiệp vụ kinh tế, tài chính liên quan đến thu
nhập và chi phí của hoạt động SXKD trong kỳ cho đúng đắn là vấn đề phức tạp trong
công tác kế toán.
Nguyên tắc phù hợp chi phối việc ghi nhận chi phí hoạt động kinh doanh trong
kỳ phải có mối liên hệ tương ứng, phù hợp với thu nhập của hoạt động kinh doanh
trong kỳ mà đơn vị đã ghi nhận được. Nói cách khác, trị giá vốn của sản phẩm hàng
hóa bán ra (giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ) phải được tính toán,
xác định đúng đắn phù hợp với khối lượng sản phẩm, hàng hóa đã bán ra trong kỳ.
Tuân thủ nguyên tắc phù hợp mới có thể xác định được đúng đắn kết quả kinh
doanh trong kỳ. Song, để thực hiện được thì kế toán phải sử dụng đúng đắn phương
pháp tài khoản, phương pháp tính giá và quá triệt các nguyên tắc kế toán khác trong
quá trình hệ thống hóa và xử lý thông tin về thu nhập, chi phí của các hoạt động kinh
doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, ngoại trừ một số doanh nghiệp hoạt động vì mục
đích công ích, có thể nói “lợi nhuận” là mục tiêu hàng đầu chi phối mọi quyết định
Lợi nhuận
hoạt động
kinh doanh
trong kỳ
=
Thu nhập

hoạt động
kinh doanh
trong kỳ

Chi phí
hoạt động
kinh doanh
trong kỳ

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nắm bắt được hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có đem lại lợi nhuận hay không; nếu có thì lợi nhuận thu được là bao
nhiêu, doanh nghiệp phải tính toán, xác định kết quả kinh doanh. “Kết quả kinh
doanh” là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp hướng tới; mọi chính sách, biện pháp
đề ra trong doanh nghiệp đều xoay quanh vấn đề làm thế nào để đạt được kết quả
kinh doanh càng cao càng tốt.
Thông thường, việc xác định kết quả bán hàng cũng như XĐKQ kinh doanh
nói chung được tiến hành vào cuối kỳ kế toán; tức là vào cuối tháng, cuối quý hoặc
cuối năm tùy thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý của
từng doanh nghiệp. Kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà quản lý. KQKD của doanh nghiệp được xác định bằng cách so sánh
giữa một bên là doanh thu thuần, một bên là giá vốn hàng bán và chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp và được biểu hiện qua chỉ tiêu lãi (hoặc lỗ). Kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định theo trình tự sau đây:
a) Bước 1: Xác định doanh thu bán hàng thuần:
Doanh thu bán hàng thuần được tính bằng doanh thu bán hàng trừ đi các
khoản giảm trừ doanh thu.
Các khoản giảm trừ doanh thu theo quy định bao gồm: Chiết khấu thương
mại; Giá trị hàng bán bị trả lại; Giảm giá hàng bán
*Chiết khấu thương mại: là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho
khách hàng mua hàng với khối lượng lớn, hoặc giảm trừ cho người mua do thanh

toán tiền hàng trước thời hạn thanh toán đã thỏa thuận.
*Hàng bán bị trả lại: là doanh thu của số hàng hóa đã bán nhưng bị khách
hàng trả lại do không phù hợp với yêu cầu của người mua, do vi phạm cam kết, vi
phạm hợp đồng kinh tế, hàng bị mất, hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách
chủng loại; Hay nói cách khác, đây chính là giá trị khối lượng hàng bán đã xác định
là tiêu thụ bị khách hàng trả lại và từ chối thanh toán.
*Giảm giá hàng bán: là khoản giảm trừ cho người mua do hàng hóa kém
phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu. Giảm giá hàng bán bao gồm: giảm giá,

bớt giá. Khi khách hàng mua với khối lượng lớn sẽ được doanh nghiệp bớt giá; Khi
hàng hóa đã bán cho khách hàng có thể có một số hàng bị kém phẩm chất vì lý do
nào đó, khách hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp giảm giá. Nếu doanh nghiệp kiểm
tra lại số hàng hóa thấy đúng là không đạt quy cách phẩm chất thì sẽ chấp nhận giảm
giá.
Doanh thu thuần được xác định như sau:
b) Bước 2: Xác định lợi tức gộp:
Lãi gộp (lãi Thương mại) là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần và trị giá
vốn hàng bán. Giá vốn hàng đã bán là giá trị thực tế của sản phẩm sản xuất ra được
tiêu thụ trong kỳ (nếu là doanh nghiệp sản xuất). Giá vốn hàng đã bán có thể là giá
thực tế hàng mua vào được tiêu thụ trong kỳ.
Trong kế toán, hàng hóa sự trữ được phản ánh theo giá vốn; tức là phản ánh
theo đúng số vốn thực tế doanh nghiệp đã bỏ ra để có hàng hóa đó, bao gồm trị giá
mua vào của hàng xuất kho, gồm hai bộ phận:
* Trị giá mua thực tế của hàng xuất kho bao gồm giá mua phải trả người bán và
thuế nhập khẩu (nếu có). Trường hợp doanh nghiệp mua hàng hóa về để bán lại
nhưng phải qua gia công, sơ chế thì trị giá mua còn bao gồm cả chi phí gia công, chế
biến.
* Chi phí mua hàng phân bổ cho hàng xuất kho bao gồm các chi phí liên quan trực
tiếp đến quá trình thu mua như: Chi phí bảo hiểm hàng hóa; Tiền thuê kho, bến bãi;
Chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản đưa hàng hóa từ nơi mua đến kho chứa hàng

của DN; Khoản hao hụt tự nhiên trong định mức phát sinh qua quá trình thu mua
Lãi
gộp

Doanh
thu
thuần
Trị giá
vốn hàng
đ
ã bán

=

Doanh thu
thuần
=
Doanh thu
bán hàng
Các khoản
giảm trừ


1.4.1- Cách tính trị giá vốn hàng xuất kho trong trường hợp kế toán chi ti
ết hàng
tồn kho theo giá thực tế:
(Giá thành thực tế của hàng hóa mua vào nhập kho)
Để tính được trị giá vốn thực tế của toàn bộ hàng hóa xuất kho phải tính trị giá
vốn của từng mặt hàng xuất kho rồi tổng hợp lại. Có thể tính cho từng lần xuất hàng
và cũng có thể cuối tháng mới tính cho toàn bộ hàng xuất kho trong tháng. Để tính trị

giá vốn từng mặt hàng, người ta có thể xác định bởi nhiều phương pháp khác nhau;
Song, doanh nghiệp sử dụng phương pháp tính đối với mặt hàng nào thì phải sử dụng
nhất quán, không được thay đổi phương pháp tính một cách tuỳ tiện nhằm đảm bảo
nguyên tắc nhất quán trong kế toán. Xác định chính xác trị giá vốn hàng bán có ý
nghĩa quan trọng trong việc XĐKQ bán hàng bán hàng. Trong trường hợp này “Trị
giá vốn của hàng xuất kho được tính theo 3 bước”
+ ở bước 1:
Tính trị giá mua thực tế của hàng xuất kho trong tháng tính riêng đối với từng
mặt hàng, sau đó tổng hợp lại. Có thể sử dụng một trong các phương pháp tính dưới đây:
*Phương pháp nhập trước, xuất trước:
Theo phương pháp này người ta giả thiết, lô hàng nào nhập trước thì xuất trước.
Hàng hóa xuất thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá vốn của lô hàng đó để tính.
*Phương pháp nhập sau, xuất trước:
Theo phương pháp này, người ta giả thiết lô hàng nào nhập sau thi xuất trước.
Hàng xuất thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá vốn của lô hàng đó để tính. Nếu cuối
tháng mới tính một lần trị giá vốn của toàn bộ hàng hóa xuất kho trong tháng thì có
Tr
ị giá mua
của hàng

hóa xuất
kho trong
tháng


=
Đơn giá mua
thực tế của
hàng nhập kho
theo từng lần

nh
ập kho sau




Số lượng hàng
xuất kho trong
tháng thuộc số
lượng từng lần
nh
ập kho

Trị giá
mua của
hàng hóa
xuất kho
trong
Đơn giá mua
thực tế của
hàng nhập kho
theo từng lần
nh
ập kho tr
ư
ớc


=




Số lượng hàng
xuất kho trong
tháng thuộc số
lượng từng lần
nh
ập kho


thể tính ngược lại như phương pháp “Nhập trước, xuất trước”.
+ ở bước 2:
Tiến hành phân bổ chi phí mua hàng cho hàng còn lại đầu tháng và chi phí mua
hàng phát sinh trong tháng này cho hàng xuất kho và hàng còn lại cuối tháng tỷ lệ
thuận với trị giá mua hàng hóa.
Phân bổ chi phí mua hàng cho hàng xuất kho trong tháng và hàng tồn kho cuối
tháng tỷ lệ thuận với trị giá mua của chúng.
+ ở bước 3:
Tính trị giá vốn hàng xuất kho trong tháng bằng cách lấy trị giá mua hàng xuất
kho trong tháng cộng với chi phí phân bổ cho hàng xuất kho trong tháng.
1.4.2 Cách tính trị giá vốn hàng xuất kho trong trường hợp kế toán chi tiết hàng
tồn kho theo giá hạch toán:
Để tính trị giá vốn hàng xuất kho trong kỳ theo phương pháp này thì phải đến
cuối kỳ hạch toán kế toán mới tính được, và được tính theo công thức sau:
Gọi H là hệ số giá và tính theo công thức:
Chi phí mua
hàng phân bổ
cho
hàng xuất kho
trong tháng



=
Chi phí mua
hàng phân bổ
cho hàng còn đầu
thá
ng

Chi phí mua
hàng phát
sinh

trong tháng

Trị giá mua của
hàng còn đầu
tháng

+
+
Trị giá mua
hàng nhập
trong tháng



Trị giá mua
hàng xuất
kho

trong tháng

Trị giá vốn
của hàng xuất
kho trong
tháng


=
+
Trị giá mua
của hàng xuất
kho trong
tháng

Chi phí mua
hàng xuất
kho trong
tháng


=
+


Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ thì không ghi chép kế
toán chi tiết hàng tồn kho. Cuối tháng kiểm kê hàng còn lại và tính trị giá vốn
hàng còn lại trước. Sau đó dùng quan hệ cân đối hàng luân chuyển trong tháng để
tính trị giá vốn hàng xuất kho trong kỳ.



c) Bước 3: Xác định lãi thuần trước thuế:
Lãi thuần trước thuế là khoản chênh lệch giữa lãi gộp với chi phí bán hàng và
chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng đã bán ra trong kỳ.

H

=
Trị giá thực tế của
hàng tồn đầu kỳ+ Trị
giá thực tế của hàng
Trị giá hạch toán của
hàng tồn ĐK + Trị giá
h
ạch toán của hàng nhập
Trị giá hàng
xuất kho trong
k


= H




Trị giá hạch
toán hàng xuất
trong kỳ

Trị giá

vốn hàng
xu
ất kho


=
Trị giá vốn
hàng còn đầu
k


Trị giá vốn
hàng nhập
trong k


Trị giá vốn
hàng tồn kho
cu
ối kỳ

+

Chi phí QLDN
phân bổ cho
hoạt động
Chi phí bán
hàng phân
bổ cho hàng
Kết quả bán

hàng
(Lãi thu
ần)

Lãi
gộp

=
 
Trong đó, cần xem xét đến những chỉ

1.4.3- Chi phí bán hàng:
Chi phí bán hàng (CPBH) là các khoản chi phí thực tế phát sinh trong qúa
trình tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ CPBH là một bộ phận của chi phí thời
kỳ, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh (Lãi _ Lỗ) của doanh nghiệp trong
một kỳ hạch toán. Hoạt động tiêu thụ diễn ra liên tục do đó sẽ có những hàng hóa
mua ở kỳ trước lại tiêu thụ ở kỳ sau; hoặc những chi phí tiêu thụ, quảng cáo không
chỉ phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hóa trong kỳ phát sinh chi phí mà còn tác dụng
trong nhiều kỳ sau. Do đó, phải tiến hành phân bổ chi phí bán ra cho hàng hóa, sản
phẩm bán ra trong kỳ.
Chi phí bán hàng là biểu hiện bằng tiền của những hao phí lao động sống và
lao động vật hóa cần thiết dùng trong quá trình bảo quản, dự trữ và tiêu thụ sản phẩm,
hàng hoá. Gọi là CPBH nhưng thực chất nó bao gồm cả những chi phí phát sinh trong
khâu dự trữ như: chi phí bảo quản, phân loại, chọn lọc, đóng gói và chi phí ở khâu
bán hàng như: chi phí vận chuyển; quảng cáo; giới thiệu, bảo hành sản phẩm hàng
hóa.
Cuối kỳ kinh doanh, kế toán phải tổng hợp các yếu tố chi phí bán hàng để

lấy số liệu phân bổ cho từng nhóm hàng, loại hàng làm cơ sở để xác định KQKD.
Trường hợp những đơn vị có khối lượng hàng tồn kho lớn, giự trữ giữa các kỳ không

ổn định, các khoản chi phí bán hàng phát sinh liên quan đến việc hàng bán bị trả lại;
chi phí phát sinh liên quan đến việc gửi hàng đi bán chưa tiêu thụ trong kỳ; chi phí
bảo quản hàng hóa tại các cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng Như vậy, chi phí bán hàng
CPBH
phân bổ
cho hàng
còn lại
cuối kỳ

=

Tổng tiêu thức phân bổ
của hàng còn lại cuối
k


Tổng tiêu thức phân bổ
của hàng đã tiêu thụ
trong kỳ và hàng còn
l
ại cuối kỳ ch
ưa tiêu

Tổng CPBH
cần phân
b



cuối kỳ phải phân bổ những khoản mục chi phí liên quan đến hàng còn lại. Từng

khoản mục chi phí bán hàng cần phân bổ cho hàng còn lại .
Sau đó, xác định chi phí bán hàng phân bổ cho hàng hóa bán ra trong kỳ:
Sau khi phân bổ chi phí bán hàng cho hàng còn lại và hàng bán ra, chỉ cần
phân bổ bộ phận chi phí dự trữ, bảo quản nhằm xác định đúng đắn trị giá vốn của
hàng còn lại và trị giá vốn của hàng bán ra đảm bảo nguyên tắc phù hợp giữa thu
nhập và chi phí xác định kết quả bán hàng. Có một số chi phí phát sinh ở khâu bán
hàng liên quan trực tiếp đến bán hàng thì không cần phân bổ cho hàng còn lại mà tính
hết cho hàng đã bán.
1.4.4-Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí thời kỳ, bao gồm những chi phí có liên
quan chung đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ hạch toán mà không
thể tách riêng cho bất kỳ một hoạt động riêng lẻ nào.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là khoản chi phí phục vụ cho quản lý chung của
doanh nghiệp, gồm có: chi phí quản lý kinh doanh, chi phí quản lý hành chính, chi
phí chung khác liên quan đến hoạt động quản lý doanh nghiệp. Ngoài hoạt động sản
xuất kinh doanh hàng hóa, doanh nghiệp Thương mại còn có thể có các hoạt động
kinh doanh khác như: hoạt động tài chính, hoạt động bất thường. Mỗi hoạt động đều
có thu nhập, chi phí và kết quả riêng; Do đó, CPQL doanh nghiệp cũng cần được
phân bổ theo từng hoạt động.
CPBH phân
bổ cho hàng
bán ra
trong k



=
CPBH phân bổ
cho hàng còn
đầu kỳ

CPBH phân
bổ cho hàng
còn lại
cu
ối kỳ

Tổng CPBH
phát sinh
trong kỳ
+ -
CPQL doanh
nghiệp phân
bổ cho hoạt
động kinh
doanh

Toàn bộ chi phí
quản lý doanh
nghi
ệp

Doanh
thu bán
hàng

Tổng doanh thu
các hoạt động
kinh doanh của
doanh nghi
ệp





=

Đây mới chỉ là chi phí quản lý sử dụng để xác định kết quả bán hàng. Trong
trường hợp doanh nghiệp có khối lượng lớn hàng hóa chưa bán, dự trữ hàng hóa giữa
các kỳ không ổn định, nếu cần thiết cũng cần phải phân bổ chi phí cho hàng còn lại
và hàng bán ra tương tự như phân bổ chi phí bán hàng.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp phân cấp quản lý kế toán cho từng địa điểm kinh
doanh, tính kết quả kinh doanh cho từng ngành hàng, nhóm hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp theo địa điểm kinh doanh, theo ngành hàng, nhóm hàng cụ thể.
1.5 - Kế toán bán hàng. và XĐKQ kinh doanh Thương mại:
1.5.1 - Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh
Thương mại:
Đặc trưng của doanh nghiệp Thương mại là hoạt động mua, bán vật tư, hàng
hoá phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của xã hội. Đối với doanh nghiệp
Thương mại vốn hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn lưu động cũng như
tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, kế toán hàng hóa là khâu chủ yếu,
quan trọng nhất. Đồng thời nghiệp vụ bán hàng và XĐKQ bán hàng là vấn đề trọng
yếu hàng đầu của doanh nghiệp, có liên quan và bao quát tất cả các hoạt động khác
của quá trình kinh doanh Thương mại.
Trong quản lý kinh tế tài chính ở các doanh nghiệp Thương mại và dịch vụ, kế
toán với tư cách là công cụ không thể thiếu trong việc quản lý kinh tế, là khoa học thu
nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản, sự vận động của tài sản đó nhằm
kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị.
Kế toán bán hàng và XĐKQ bán hàng chính là công cụ đắc lực, hữu hiệu đáp
ứng yêu cầu quản lý của các hoạt động kinh doanh. Do vậy, tổ chức công tác kế toán
bán hàng và XĐKQ bán hàng một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ

thể của từng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh, thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, cơ quan chủ
quản, cơ quan tài chính, thuế, ngân hàng… Bởi vậy, tổ chức kế toán bán hàng và
XĐKQ bán hàng cần thực hiện tốt các nhiệm vụ kế toán sau:

* Ghi chép, phản ánh đầy đủ kịp thời lượng hàng bán ra, số lượng hàng hóa
đã giao cho các cửa hàng tiêu thụ, số hàng gửi đi bán và tình hình tiêu thụ đối với mặt
hàng đó; Xác định chính xác, đầy đủ doanh thu bán hàng; Tổ chức tốt kế toán chi tiết
hàng hóa ở khâu bán nhằm đảm bảo phản ánh hàng hóa cả về số lượng, chủng loại và
giá trị.
* Đồng thời, kế toán phải ghi chép, phản ánh kịp thời doanh thu bán hàng,
doanh thu thuần; Tính toán đúng đắn trị giá vốn hàng xuất kho để tiêu thụ; Phân bổ
đúng đắn chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho hàng bán ra trong kỳ
nhằm tính được một cách chính xác trị giá vốn của hàng hóa tiêu thụ trong kỳ và xác
định đúng đắn kết quả bán hàng, đảm bảo đúng nguyên tắc phù hợp trong kế toán.
* Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa; các dự
toán chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và kế hoạch lợi nhuận của doanh
nghiệp; Kiểm tra tình hình tuân thủ nguyên tắc thanh toán về tiền bán hàng và các
khoản thuế phải nộp ngân sách ở khâu bán. Kế toán phải ghi chép, phản ánh kịp thời,
đầy đủ kết hợp với việc kiểm tra thường xuyên kế hoạch đó; Phản ánh với giám đốc
tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch bán hàng và KQKD của doanh nghiệp: mức
bán ra, doanh thu bán hàng về thời gian và địa điểm, theo tổng số và theo nhóm hàng;
Quan trọng nhất là xác định chỉ tiêu lãi thuần về hoạt động kinh doanh.
1.5.2. Chi phí bán hàng.
1.5.2.1. Tài khoản sử dung.
- TK641 - "Chi phí bán hàng":
Tài khoản “Chi phí bán hàng” dùng để phản ánh các chi phí trực tiếp phát sinh
trong quá trình dự trữ và bán hàng hóa, thành phẩm, cung cấp dịch vụ. Tài khoản 641
“Chi phí bán hàng” có các TK cấp II sau đây:
+ TK6411 – Chi phí nhân viên;

+ TK6412 – Chi phí vật liệu, bao bì;
+ TK6413 – Chi phí dụng cụ đồ dùng
+ TK6414 – Chi phí khấu hao TSCĐ;
+ TK6415 – Chi phí bảo hành sản phẩm;

+ TK6417 – Chi phí dịch vụ mua ngoài;
+ TK6418 – Chi phí dụng cụ đồ dùng.
- Kết cấu TK641 "Chi phi bán hàng":
*Bên Nợ:
Chi phí bán hàng phát sinh trong ký hạch toán.
*Bên Có:
+ Phân bổ chi phí bán hàng hóa, thành phẩm cuối kỳ chưa tiêu thụ được.
+ Kết chuyển chi phí bán hàng vào TK911 để xác định kết quả kinh doanh.
Tài khoản 641 " Chi phi bán hàng " không có số dư.
1.5.2.2. Trình tư hạch toán.
- Khi trích lương, phụ cấp lương phải trả cho nhân viên bán hàng, nhân viên bảo
quản, bao gói, vận chuyển,… hàng hoá tiêu thụ kế toán ghi:
Nợ TK 641.1 “Tập hợp chi phí nhân viên bán hàng”
Có TK 334 “ Tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả”
- Khi trĩch quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ quy định trên tiền lương nhân viên,
kế toán ghi:
Nợ TK 641.1 “Tập hợp chi phí nhân viên bán hàng”
Có TK 338(2,3,4) “Trích BHXH, BHYT, KPCĐ”
- Khi xuất dùng vật liệu phục vụ cho tiêu thụ, kế toán ghi:
Nợ TK 641.2 “Tập hợp chi phí NVL”
Có TK 152 “Chi phí NVL phục vụ cho tiêu thụ”
- Trường hợp NVL mua ngoài được chuyển thẳng vào cho tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
không thông qua kho, kế toán ghi:
Nợ TK 641.2 “Tập hợp chi phí nhân viên bán hàng”
Nợ TK 133 “ Thuế VAT đầu vào được khấu trừ”

Có TK 111,112,113… “Tổng giá thanh toán”
- Khi xuất kho CCDC sử dụng ở bộ phận bán hàng
+ Nếu CCDC phân bổ một lần
Nợ TK 641.3 “Tập hợp chi phí CCDC”

×