Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

luận văn nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở thành phô đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.78 KB, 105 trang )



Mở Đầu




LUẬN VĂN:

Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế - xó hội ở Thành phô
Đà Nẵng








1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người luôn ở vị trí trung
tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tri thức con người là một
nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được tái sinh với chất lượng ngày càng cao hơn bất cứ
một nguồn lực nào khác. Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận:
Nguồn lực con người là lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội và sự
nghiệp tiến bộ của nhân loại.
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang trang mới với những thành tựu
có tính chất đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt trên
lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, trong đó nhân tố đóng vai trò quyết định sự biến đổi


về chất dẫn tới sự ra đời của kinh tế tri thức, chính là nguồn nhân lực (NNL) chất lượng cao.
Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao động, vốn
được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu tiên. Chính nguồn
nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi lẽ những yếu tố
khác người ta vẫn có thể có được nếu có trí thức, song tri thức chỉ xuất hiện thông qua quá
trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế trong đời sống kinh tế - xã hội; từ chính quá
trình sản xuất ra sản phẩm để nuôi sống con người và làm giàu cho xã hội. Vì vậy, để có
được tốc độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chât
lượng nguồn nhân lực. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, công
ty, các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ, nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với các quốc gia trên thế
giới đã và đang trở thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn đề có tính chất sống
còn trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế với trình độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ
ngày càng cao và sự lan tỏa của kinh tế trí thức.
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) rút ngắn,
chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh
nghiệm quản lý đòi hỏi phải biết phát huy được lợi thế của những nguồn lực hiện có, cần phải
có chiến lược và giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Trong phần mục
tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010 Báo cáo chính trị tại Đại hội X


Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: "Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao" [15, tr.95]. Điều đó cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu
quả NNL chất lượng cao trở thành một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I cấp quốc gia, là thành phố động lực của khu vực
miền Trung và Tây nguyên, có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện thành công
CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, hơn bất cứ địa phương nào trong khu vực, đòi hỏi Thành phố
Đà Nẵng cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những con người có đức, có

tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo
thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô
nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Đó phải là nguồn nhân lực
của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại. Hơn nữa, trong xu hướng phát triển nền kinh tế
tri thức và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nguồn nhân lực có chất lượng cao được coi là
điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng trưởng nhanh.
Nhìn chung nguồn nhân lực của Thành phố Đà Nẵng hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế - xã hội
của Thành phố. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định
số117/QĐ-UB ngày 07 tháng 7 năm 2004 về chương trình "Phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng nhu
cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Cho nên việc nghiên cứu lý luận và phân
tích thực trạng nguồn nhân lực để có những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về
chất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
của Thành phố Đà Nẵng trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài " Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế - xó hội ở Thành phố Đà Nẵng " để làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Thành phố Đà Nẵng cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa học về đề tài này ở
nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
- "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH", "Về phát triển toàn
diện con người thời kỳ CNH, HĐH" của GS.TS Phạm Minh Hạc;


- "Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH, những thách thức lớn đối
với Việt Nam" của Trần Văn Tùng;
- "Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam" của Tiến sỹ Đoàn
Khải;
- "Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH" của Tiến sỹ Vũ Bá Thể;

- "Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần Văn Tùng;
- "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay" của Tiến
sỹ Hồ Anh Dũng.
- "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước" của
Mai Quốc Chính;
- "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam" của Đỗ Minh Cương và
Nguyễn Thị Doan;
- "Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của Nguyễn Minh
Đường;
- "Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông á"
của Lê Thị ái Lâm;
- Luận án tiến sĩ "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức" của
Lê Thị Ngân;
- Luận văn thạc sĩ "Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Thành phố Đà Nẵng" của Vương Quốc Được;
- "Nhu cầu về nhân lực của một số ngành kinh tế - xã hội ở Quảng Nam - Đà Nẵng
thời kỳ 1996-2000 dưới góc độ dự báo giáo dục" của tập thể tác giả Sở Giáo dục và Đào tạo
Quảng Nam- Đà Nẵng;
- "Đề án đào tạo nguồn nhân lực dưới góc độ giáo dục chuyên nghiệp" của Phòng
giáo dục chuyên nghiệp Thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao động, một số tác giả
bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong một số ngành cụ thể. Cho đến nay, việc đi
sâu nghiên cứu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng chưa có công
trình nghiên cứu riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Nguồn nhân lực chất lượng cao
cho phát triển kinh tế-xã hội ở Thành phố Đà Nẵng" là cách tiếp cận cụ thể một lĩnh vực
chưa được đề cập một cách hoàn chỉnh, toàn diện như nội dung của luận văn đề cập.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn

- Nghiên cứu lý luận về NNL chất lượng cao tạo cơ sở khoa học cho phân tích thực
trạng phát triển NNL này ở Thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp để đào tạo và phát triển NNL chất lượng cao nhằm đáp ứng phát
triển kinh tế-xã hội của Thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận về NNL, chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
- Luận giải một cách khoa học nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực cho quá
trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL ở Thành phố Đà Nẵng, làm rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của chất lượng nguồn nhân lực đó, đưa ra những giải pháp khả
thi nhằm khắc phục những hạn chế về mặt chất lượng NNL, đề xuất một số phương hướng,
giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở
Thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận NNL, chất lượng NNL nói chung và
Thành phố Đà Nẵng nói riêng. Chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng số lượng,
chất lượng NNL, yêu cầu nâng cao chất lượng NNL để từ đó tìm ra các phương hướng và
giải pháp cơ bản để phát triển NNL chất lượng cao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội ở
Thành phố Đà Nẵng.
4.2. Giới hạn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong phạm vi Thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2001-2005. Chỉ nghiên cứu mặt chất lượng NNL (đặc biệt nhấn mạnh mặt
trí lực của NNL) trên giác độ Giáo dục và Đào tạo để có các giải pháp cơ bản phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp sử dụng các



phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử và các phương pháp điều tra xã hội
học, thống kê, so sánh, minh họa để thực hiện đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân
lực.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Đà Nẵng trong những năm qua.
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng đến 2010.
- Bằng xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ và bằng minh chứng các số liệu cụ
thể, đầy đủ, luận văn đã khẳng định NNL chất lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất cho
sự phát triển của mọi quá trình kinh tế xã hội. Do đó, Thành phố Đà Nẵng muốn phát triển
kinh tế, đi tắt đón đầu để trở thành Thành phố động lực của miền Trung phải phát triển NNL
chất lượng cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.














Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN Và THựC TIễN Về NGUồN NHÂN LựC,
NGUồN NHÂN LựC CHấT LƯợNG CAO CHO PHáT TRIểN
KINH Tế - Xã HộI

1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiêu thức xác định
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực (Human resource-HR)
Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ biến, thì sự phát triển của các
nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
thủ công, do đó nước nào giàu tài nguyên hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế
trong phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Trong thời đại bùng nổ của cách mạng KH -
CN, tình hình đã thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào chưa
hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc khan hiếm lao động
giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn, Singapo, với dân số chỉ có trên 3 triệu người, tài nguyên
không có gì đặc biệt, đã nổi lên như một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới
(qua nhiều cuộc bình chọn trong những năm gần đây). Để có được kết quả như vậy, trong
một hướng đi của họ là đào tạo một nguồn nhân lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ ban
cạnh tranh của họ (CSC) đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong một thập kỷ
với mục tiêu là “trí thức hóa” lực lượng lao động. Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo, Hàn
Quốc…là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng họ lại là những nước đạt tốc độ phát
triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất
nước họ trở thành các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trò quyết định cho
sự thành công trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất
lượng cao. ở các nước phát triển cao người ta đã tính toán được rằng trong giá trị của những
sản phẩm cao cấp thì hàm luợng chất xám chiếm 70%, năng lượng 10%, nguyên liệu 10%,
thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời đại ngày nay, những quan niệm về vai trò, vị
trí của nguồn nhân lực trong phát triển liên tục thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn
nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát
triển giống như mọi nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn
khác. Con người, nguồn nhân lực không chỉ là động lực chủ yếu mà còn là mục tiêu của sự

phát triển, với phương châm phát triển vì con người. Trí tuệ con người ngày càng được đề


cao, vì nó là nguồn lực to lớn và mạnh mẽ nhất cho tiến bộ và phát triển xã hội. Theo Alvin
Toffler, mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô
tận, bởi "tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết”. Trái lại, NNL, đặc biệt là NNL chất
lượng cao, nếu biết khai thác và bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả năng tái sinh
nhanh. Chính vì lẽ đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và
nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó người ta cũng tìm ra các phương cách khác nhau
để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Có quan điểm cho rằng: Thông thường những nguồn lực làm cơ sở cho chiến lược phát
triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể
là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, có thể là nguồn lực
ngoài như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực,
lịch sử cho thấy, NNL là nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước
đến nay…cho dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ
khả năng khai thác những nguồn lực đó, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật công nghệ
hiện đại và nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho con người
hoạt động, thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Theo giáo trình kinh tế lao động, thì: nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con
người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất,
nguồn lực công nghệ…) là ở chỗ: trong quá trình vận động, NNL chịu tác động của yếu tố
tự nhiên (sinh, chết…) và yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp ). Chính vì vậy, NNL là một
khái niệm khá phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau. Nguồn nhân lực
còn được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát
triển. Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con người, nghiêng về sự biến
động tự nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới sự biến động NNL. Nguồn nhân lực còn
được hiểu như một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, là tổng
thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có

thể lượng hóa được, đó là năng lực lao động của xã hội, bao gồm những người có khả năng
lao động, tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong NNL.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng
đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất,


quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. ở
đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội.
Theo Thuyết lao động xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng,
NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự
phát triển. Do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người
bị dị tật bẩm sinh). Theo nghĩa hẹp: Nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào
nền sản xuất xã hội tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể
các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, thì NNL chính là nguồn lực chủ yếu tạo động
lực cho sự phát triển. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ và kịp thời NNL theo yêu cầu của nền
kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Do đó,
bất cứ hiện tượng thiếu hoặc thừa sức lao động đều gây ra những khó khăn cho sản xuất xã hội
và ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là đối tượng của môn Kinh tế phát
triển.
Theo thuyết về vốn con người (Human resource), thì yếu tố con người được coi là
yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội.
NNL được coi như mọi nguồn lực khác (như vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất
đai…), cho nên cần phải đầu tư cho con người. Trên thực tế việc đầu tư cho con người có tỷ
lệ thu hồi vốn khá cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu tư vật chất.
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực,
trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, ở đây nguồn lực con người
được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên,… Do đó đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại

đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo cách tính toán của
WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu tư, cho trung
học là 17%, và cao đẳng đại học là 14%, trong khi đó đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất
tỷ lệ thu hồi chỉ đạt 13% tổng vốn đầu tư.
Biểu 1.1: Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cho giáo dục theo vùng và cấp giáo dục
Đơn vị tính: %
Khu vực Công cộng Tư nhân


Tiểu
học
Trung
học
Đại
học
Tiểu
học
Trung
học
Đại học
Các nước có thu nhập
trung bình và thấp

Tiểu Sahara và châu
Phi
24,3 18,2 11,2 41,3 26,6 27,8
Châu á 19,9 13,3 11,7 39,0 18,9 19,9
Châu Âu,Trung Đông
và Bắc Phi
15,5 11,2 10,6 17,4 15,9 21,7

Mỹ La tinh, Caribê 17,9 12,8 12,3 26,2 16,8 19,7
OECD 10,2 8,7 12,4 12,3
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Việt Nam-Nghiên cứu tài chính cho giáo dục-1996,
tr.80.
Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự và cho rằng: Nguồn nhân lực là tất cả
những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ
tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [55, tr.8]. Quan niệm này xem xét nguồn
lực con người chủ yếu ở phương diện chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó đối
với sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, Liên hiệp quốc đã kêu gọi các quốc gia quan tâm hơn
nữa tới nguồn nhân lực, vì:…đầu tư vào vốn con người trước hết có tỷ lệ thu hồi vốn cao
hơn so với đầu tư cho các nguồn lực khác…tiết kiệm được việc sử dụng và khai thác các
nguồn lực khác, lợi ích thu được từ đầu tư này có tính lan tỏa đồng đều hơn so với đầu tư
vào các nguồn lực khác. Do vậy, việc tập trung phát triển con người sẽ đem lại tốc độ phát
triển cao hơn, ổn định hơn và công bằng hơn trong phân phối lợi ích của sự phát triển [55,
tr.9].
Theo UNDP, thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của
con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực-nội lực đó của con người
cũng chính là nội lực xã hội của một quốc gia. Đối với những nước đang phát triển như Việt
Nam, với dân số đông, NNL dồi dào đang trở thành một trong những nguồn nội lực quan
trọng nhất và nếu biết khai thác nguồn nội lực đó một cách hiệu quả sẽ tạo ra một động lực
to lớn cho phát triển kinh tế-xã hội.


ở Việt Nam, theo ý kiến của các nhà khoa học tham gia chương trình khoa - công
nghệ cấp Nhà nước, mã số KX - 07 thì: Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội” do giáo sư, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho
rằng nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất [19, tr.328] còn trong dịp gặp gỡ các
nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, Thành phố phía Bắc khi đề cập
đến vấn đề tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ

và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời
phát biểu của mình nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: "Nguồn lực con người
bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [24].
Giáo sư, tiến sỹ Hoàng Chí Bảo cho rằng: Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực
và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát
triển của con người” [3, tr.14] tức là kết cấu bên trong của nguồn nhân lực bao gồm sức mạnh
thể lực, trí tuệ và sự kết hợp hai yếu tố đó tạo thành năng lực sáng tạo của con người trong quá
trình cải tạo tự nhiên.
Trong luận án tiến sỹ triết học - nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Đoàn Khải cho rằng: Nguồn lực con người là khái niệm
chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh
của nó trong sự phát triển xã hội” [23].
Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Ngân, trong luận án tiến sỹ thì nguồn nhân lực
được quan niệm là tổng thể sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận dụng cho quá trình
sản xuất xã hội hay nói một cách rõ hơn: NNL là tổng thể những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội và được họ đang và sẽ đem ra vận
dụng để sản xuất ra hàng hóa tiêu dùng cho xã hội [34].
Theo quan điểm của một số nhà khoa học khác, thì: nguồn nhân lực được xem là số
dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực
phẩm chất, thái độ và phong cách lao động.
Do khi nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau như vậy nên có
những khái niệm khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung các khái niệm đó đều thống nhất về
nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.


Như vậy, khi nói tới nguồn nhân lực trước hết phải hiểu đó là toàn bộ những người
lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội và các thế
hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội, con
người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó tới mục

tiêu đã được chọn. Cho nên NNL nó còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ
năng lao động, thái độ và phong cách làm việc- đó chính là các yếu tố thuộc về chất lượng
nguồn nhân lực. Ngoài ra khi nói tới nguồn nhân lực phải nói tới cơ cấu của lao động, bao
gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Khi nói nguồn nhân lực cần nhấn mạnh sự phát
triển trí tuệ, thể lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người, bởi vì trí lực là yếu tố
ngày càng đóng vai trò quyết định sự phát triển NNL. Ngoài ra khi nói đến NNL cũng cần phải
nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức và nhân cách của con người.
Do đó, NNL tiếp cận dưới giác độ phổ quát của Kinh tế Chính trị được hiểu là: Tổng
hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia,
trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch
sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại
và tương lai của đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Cho đến nay, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn còn nhiều cách
hiểu khác nhau, khi nói về phát triển NNL(Human Resource Development - HDR). Nhưng
chung quy lại, phát triển NNL của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) chính là sự biến đổi về
số lượng và chất lượng NNL trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng
với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL. Nói một cách khái quát nhất, phát
triển NNL chính là qúa trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh
tế xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người [53, tr.194].
Trước đây, sự giàu có, sức mạnh của một quốc gia, một dân tộc thường được hiểu
đồng nghĩa với sự phong phú giàu có của các nguồn tài lực, hoặc đánh giá thông qua khối
lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Còn ngày nay, nhờ những thành tựu to lớn của
khoa học công nghệ, sự giàu có của mỗi nước không chỉ đơn giản đo bằng khối lượng tài
nguyên thiên nhiên; trong thực tiễn một nước có thể nghèo về của cải tự nhiên song vẫn có
thể trở thành một nước giàu mạnh, nếu ở đó có được chiến lược phát triển đúng cùng với
NNL có chất lượng cao và biết khai thác hợp lý nó.


Vậy thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao? Trước hết, nhân lực chất lượng cao là

khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về
chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về
chuyên môn kỹ thuật nhất định (lao động kỹ thuật lành nghề, trên đại học). Giữa chất lượng
NNL và NNL chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến chất lượng nguồn
nhân lực là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó NNL chất lượng cao là
một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất, cho
nên khi nói về NNL chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất
lượng NNL nói chung của đất nước [30].
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường
(yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh
tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác;
có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc [29].
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới,
phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong đó, động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là NNL chất
lượng cao, tức là con người được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề,
kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn-vốn con người, vốn nhân lực”.
Đánh giá năm 2005 của diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về chất lượng lao động của
Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, trên thang điểm 10 điểm, so với Trung Quốc là 5,73 và
Malaysia là 5,59 [4]. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài chất lượng NNL Việt
Nam còn thấp trong so sánh quốc tế [12]. Tính theo chỉ số đánh giá tổng hợp về chất lượng
giáo dục và NNL thì Việt Nam chỉ đạt 3,2/10 điểm, thuộc vào nhóm yếu kém nhất (trong
khi Singapo dẫn đầu các quốc gia được khảo sát với 8,4/10 điểm), xếp thứ 11 trong số 12
quốc gia Châu á được so sánh, chỉ đứng trên Inđônêxia và kém xa so với Philipin, Thái Lan
và Malaxia. Về từng khía cạnh cụ thể:
- Chất lượng của Hệ thống giáo dục: VN được 3,25 điểm, đứng thứ 10/12 nước và
vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 8,00 điểm).
- Mức độ sẵn có về lao động sản xuất chất lượng cao: Việt Nam được 3,25 điểm,
đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Nhật Bản với 8,00 điểm).



- Sự thành thạo của lao động trình độ công nghệ cao: Việt Nam được 2,50 điểm,
đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ, tương đương với Inđônêxia (cao nhất là Singapo
7,83 điểm).
- Mức độ sẵn sàng về cán bộ quản ly kinh tế chất lượng cao: VN được 2,5 điểm,
đứng thứ 10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 7,50 điểm). Theo đánh giá
chung, các nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh
tranh trên thị trường toàn cầu (Việt Nam đạt 32 điểm) [56].
1.1.3. Các tiêu thức xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhiều mục tiêu cụ thể về phát triển NNL cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI đã được đề
ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2010. Những mục tiêu này phản
ánh khá toàn diện các nội dung cơ bản nhất của phát triển NNL Việt Nam đến năm 2010: về
thể lực (nâng cao tầm vóc trung bình của thanh niên, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em,
giảm tỷ lệ mắc bệnh,…) về trí lực (bao gồm trình độ học vấn, trình độ chuyên môn- kỹ
thuật…), và về giữ gìn, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam để đóng góp vào
sự nghiệp phát triển chung của đất nước, và đó được xem là các tiêu chí của NNL chất
lượng cao ở Việt Nam. Để thấy rõ, cần phân tích từng tiêu thức cụ thể sau:
1.1.3.1. Năng lực về thể chất (thể lực) của nguồn nhân lực
Nói đến thể lực là nói đến tình trạng sức khỏe của NNL, sức khỏe là sự phát triển hài
hòa của con người về cả thể chất lẫn tinh thần. Đó là sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần.
Trong hiến chương của tổ chức y tế thế giới đã nêu: "Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn
thỏa mái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải là không có bệnh hay thương tật”.
Quan niệm về chất lượng NNL mà đề tài phân tích là năng lực tinh thần và năng lực thể chất
của NNL, tức là nói tới sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng
lực thể chất chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì mới phát huy
được lợi thế của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh tế xã hội và ngược lai. Sức khỏe là
điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải tri thức vào
hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất phát triển kinh tế-xã hội. Do
đó, sức khỏe là yếu tố quan trọng của NNL, nó trở thành một chỉ tiêu quan trọng trong việc

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ
thống các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về
tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện về bảo vệ và chăm sóc sức


khỏe. Cho nên thể lực của NNL được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ nuôi
dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe…Vì thế, thể chất của NNL phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, phân phối thu nhập, cũng như chính sách xã hội trước mắt và lâu dài
của mỗi quốc gia, nếu các vấn đề liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng không được giải quyết
tốt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực cả về thể lực lẫn trí tuệ; Tình
trạng thể lực chung của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên, tầm vóc và
thể lực người Việt Nam hiện còn nhiều hạn chế. Tỷ trọng người lớn có chỉ số cơ thể (BMI)
bình thường chỉ chiếm khoảng 48% trong tổng số. Còn lại khoảng 52% tổng số người lớn có
những biểu hiện không bình thường trong phát triển cơ thể như quá gầy hoặc quá béo…Vì
vậy, để có NNL chất lượng cao không thể không đề cập đến phát triển y tế, chăm lo sức
khỏe cho người lao động. Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bĩ dẻo dai của
sức mạnh cơ bắp trong công việc. Thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Trình
độ kinh tế - xã hội càng phát triển càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu không có thể lực và
tinh thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của công việc, nhịp độ cuộc sống trong
thế giới hiện đại, không thể tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới và vật hóa các tri thức đó
thành sản phẩm có ích. Theo nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười: "Trí tuệ là tài sản quý giá nhất
trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra cái tài sản đó. Cần
cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực tầm vóc và thể trạng nhằm phát triển cân
đối, hài hòa giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam. Mục tiêu là nâng cao một cách liên
tục, bền vững tầm vóc của người Việt Nam bằng cách tăng chiều cao trong thời kỳ trung
hạn lên ngang bằng với các nước trong khu vực Đông á và lên ngang bằng với chuẩn quốc
tế của WHO trong thời kỳ dài hạn.
Nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng cường thể lực cùng với cải thiện nhanh về hình thể,
trước hết là chiều cao và trọng lượng của người lao động.
Biểu 1.2: Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam so với tiêu chuẩn chung

của WHO
Tuổi
Chiều cao (mét) Cân nặng (kg)
Việt Nam
2001
Tiêu chuẩn
WHO
Việt Nam
2001
Tiêu chuẩn
WHO
Nam


10 1,328 1,322 27,38 31,3
15 1,607 1,698 46,66 56,7
Nữ
10 1,339 1,383 27,23 32,5
15 1,527 1,618 42,76 53,7
Nguồn: Viện Khoa học Thể dục thể thao
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng đồng thời
đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể, tăng cường trạng thái
sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất thể lực cần thiết (sức bền, sức
mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo…) cho người lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt
động bình thường khác của mỗi người.
Biểu 1.3: Các mục tiêu cụ thể cần đạt được vào năm 2010
2000 2005 2010 2020
Tuổi thọ 67,8 70 71 75
Tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi (0/00) 42 37 32 20
Chiều cao của thanh niên (m) - - 1.6 1.65

Nguồn: Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo; Nghị quyết 37/CP
của Chính phủ về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và sức khỏe nhân dân giai đoạn
1996-2000 và 2020.
1.1.3.2. Năng lực tinh thần (trí lực) của nguồn nhân lực
Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu thông qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố
quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn nhân lực, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ
hóa lao động hiện nay. Trí lực của NNL biểu hiện ở năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi
và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hóa,
dân trí, học vấn trung bình của một người dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất
lượng đào tạo; mức độ lành nghề (kỹ năng, kỹ xảo…) của lao động; trình độ tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh; năng suất, chất lượng hiệu quả của lao động…
- Trình độ học vấn: là chỉ tiêu đầu tiên biểu hiện trí lực của NNL, bởi lẽ nó thể hiện
sự hiểu biết của người lao động về những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội, là khả


năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc
đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính
quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Trình độ học vấn của NNL được đánh
giá qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
Tỷ Lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế là số %
những người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có thể đọc, viết và hiểu những câu đơn giản
của tiếng mẹ đẻ hoặc tiếng nước ngoài so với tổng số dân số 15 tuổi trở lên hoạt động kinh
tế.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của nguồn
nhân lực. Các thống kê lao động và việc làm trong nước sử dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa (tiểu học, trung

học cơ sở, trung học phổ thông) là số % dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình
độ văn hóa tốt nghiệp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) so với dân số từ 15
tuổi trở lên hoạt động kinh tế.
Chỉ tiêu này đánh giá một cách đầy đủ trình độ văn hóa của nguồn nhân lực.
Thứ ba: Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
Số năm di học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế là số năm
trung bình một người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế dành cho học tập.
Đây là một trong những chỉ tiêu được liên hiệp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng
NNL của các quốc gia.
Thứ tư: Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông
Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: (Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông)
là số % trẻ em đi học cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) đủ độ tuổi của các
em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) hay không
trong tổng dân số ở độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi, cấp trung học cơ sở từ 11 - 14 tuổi; cấp
trung học phổ thông từ 15-17 tuổi).


Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn nhân lực của các quốc gia.
Thứ năm: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông là số %
trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi; cấp trung học cơ sở từ 11-14 tuổi, cấp trung
học phổ thông từ 15-17 tuổi đi học cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trong
tổng số em trong độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục, từ đó ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn nhân lực.
Biểu 1.4: Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ học vấn
Đơn vị tính: %

Trình độ học vấn 1996 2000 2004
Tổng số 100,00 100,00 100,00
Không biết chữ 5,72 3,97 4,24
Chưa tốt nghiệp cấp I 20,72 16,49 25,48
Tốt nghiệp tiểu học 27,70 29,29 31,51
Tốt nghiệp THCS 32,08 33,01 30,40
Tốt nghiêp THPT 13,78 17,24 18,37
Nguồn: Điều tra lao động việc làm 1.7 hằng năm, Bộ LĐ-TB và XH.
Chính phủ các nước căn cứ vào các chỉ tiêu trên để xây dựng mục tiêu phát triển giáo
dục trong chiến lược giáo dục của quốc gia. Ví dụ: định hướng phát triển giáo dục của Việt
Nam đến năm 2010 với mục tiêu đạt tỷ lệ đi học chung của các cấp tiểu học là 100%, cấp
THCS là 80%, cấp THPT là 45%.
Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của LLLĐ, là một chỉ tiêu rất
quan trọng để đánh giá chất lượng NNL, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra những điều kiện và
khả năng tiếp thu và vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:


Chất lượng của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng
hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua
đào tạo.Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương các
chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động có chuyên môn
kỹ thuật bao gồm những công nhân từ bậc 3 trở lên (có bằng hoặc không có bằng) cho tới
những người có trình độ trên đại học. Họ được đào tạo ở các Trường kỹ thuật, được trang bị
kỹ năng thực hành về công việc nào đó và được thể hiện thông qua các chỉ tiêu so sánh như
sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc là
% số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật đến sau đại học) so với lực
lượng lao động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát trình độ chuyên môn

kỹ thuật của nguồn nhân lực. Ví dụ: Năm 2005, ở Việt nam tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
24,8%, tăng thêm 2,2% so với năm 2004.
Biểu 1.5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tại Việt Nam
Đơn vị tính: %

1991 1996 1999 2002 2004 2005
Tổng số lao động(triệu
người)
30,97 35,87 37,78 40,69 50,3 44,38
Lao động không có
chuyên môn (%)
93,4 87,69 86,13 80,38 77,5 75,2
Lao động có chuyên
môn kỹ thuật (%)
6,6 12,31 13,87 19,62 22,5 24,8
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, Bộ lao động-Thương binh-Xã
hội
Thứ hai: trình độ chuyên môn kỹ thuật được thể hiện thông qua tỷ lệ lao động được
đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước, từng vùng, từng
ngành. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cụ thể nhất về trình độ CMKT của nguồn nhân lực.
Ví dụ: ở Việt Nam, năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với
năm 2004. trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề nói chung là 15,2% (tăng 1,8%), tỷ lệ tốt nghiệp
trung học chuyên nghiệp là 4,3% (giảm gần 0,1%), tỷ lệ tốt nghiêp CĐ, ĐH và trên ĐH là
5,3% (tăng 0,4%). Vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là đông Nam bộ(37,4%) và


đồng bằng sông Hồng (34,4%), thấp nhất là tây Bắc (13,5%). Vùng kinh tế trọng điểm, có tỷ
lệ qua đào tạo cao nhất là Bắc Bộ với 36,4%, tiếp đến là phía Nam 36,1%, thấp nhất là miền
Trung 31%. Theo tiến sỹ Lê Duy Đồng- Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh- Xã hội đánh
giá, lực lượng lao động qua đào tạo mặc dù không ngừng tăng lên, bình quân giai đoạn 2001-

2005 tăng tới 12,9% (gần 983.000 người/năm) nhưng cũng mới đạt 24,8%, còn thấp so với mục
tiêu Đại hội IX của Đảng đề ra là 30% [25]. Như vậy, vẫn còn đến hơn 70% nguồn nhân lực
chưa qua đào tạo. Một lực lượng lao động như vậy, khó có thể đáp ứng yêu cầu “đi tắt, đón
đầu” tiến vào nền kinh tế tri thức.
Thứ ba: là cơ cấu các loại lao động đã qua đào tạo theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
và cấp bậc đào tạo thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ ĐH,CĐ/số lao động có trình độ
THCN/số lao động là công nhân kỹ thuật. Chỉ tiêu này cho thấy cơ cấu đào tạo có cân đối
với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế hay không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu
cầu đào tạo cho phù hợp. Các nghiên cứu của các nhà khoa học gần đây cho thấy rằng, cơ
cấu trên thể hiện ở Việt Nam còn bất hợp lý “thừa thầy, thiếu thợ”. Ví dụ: năm 2002 có cơ
cấu: 1/0,9/1,86; năm 2003 có cơ cấu:1/ 0,9 / 2,7 [43]. Tỷ lệ này nói lên cơ cấu trình độ
CMKT của lao động qua đào tạo còn bất hợp lý và có xu hướng gia tăng trong thời gian tới,
bởi vì số học sinh bậc công nhân kỹ thuật được đào tạo từ năm 1991 trở lại đây ngày càng
giảm nhanh so với sự gia tăng học sinh bậc đại học, cao đẳng. trong khi đó cơ cấu này ở các
quốc gia đã thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, được coi là hợp lý với tỷ lệ
tương ứng là: 1/4/10. Theo F.M.Harbison (nhà kinh tế học), trong một chu kỳ dài, tốc độ
tăng việc làm của lao động đã qua đào tạo (lao động có kỹ thuật) thường gấp 2-3 lần tốc độ
tăng của GDP [52, tr.240].
Đối với Việt Nam, quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức được thực hiện
thông qua và bằng CNH, HĐH rút ngắn, do đó việc chuẩn bị NNL phải vừa tăng cường đào
tạo các loại cấp bậc để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế về nhân lực qua đào tạo đồng
thời phải chú trọng nhiều hơn nữa đào tạo cao đẳng, đại học. Hơn nữa, số lao động số lao
động được đào tạo trong tổng LLLĐ xã hội ở Việt Nam còn thấp, nên quá trình đào tạo phải
tăng cường đào tạo CNKT và THCN, vừa tăng cường đào tạo bậc cao đẳng, đại học và trên
đại học. ở nước ta hiện nay đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ
cao (chỉ có 1,32 kỹ sư trên 1000 dân, trong khi ở những nước tiên tiến như Anh là 136,
Thụy Điển: 115 và Nhật Bản: 100) và chưa hình thành được một đội ngũ doanh nhân giỏi có


trình độ quản lý mang tầm quốc tế (kết quả điều tra về giám đốc doanh nghiệp của Viện

nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy 79% trong số 77% tổng số chủ doanh
nghiệp đã tốt nghiệp đại học chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý kinh tế). Đây cũng chính
là tiềm năng có thể khai thác theo hướng sử dụng tốt lực lượng lao động có trình độ cao để tăng
tỷ trọng lao động có kỹ năng và cải thiện cơ cấu lao động có trình độ cao góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế [47].
Trình độ CNKT của NNL còn được thể hiện ở khía cạnh khai thác và sử dụng lực
lượng này qua tỷ lệ lao động được đào tạo có việc làm và bị thất nghiệp so với tổng số lao
động được đào tạo. Các thông số đó cho thấy hiệu quả của việc khai thác và sử dụng NNL
đã qua đào tạo.
Ngoài ra, trí lực của nguồn nhân lực còn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
của người lao động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của mỗi người, sự say mê nghề
nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng. Mặt này thể hiện qua thông số năng lực hoạt động chuyên
môn của người lao động.
- Năng lực sáng tạo:
Tiếp tục phát triển và nâng cao trí lực và năng lực hoạt động thể hiện bằng trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tầm hiểu biết, phổ kiến thức, kỹ năng quản lý, tính
năng động, năng lực thích nghi và sáng tạo của nguồn nhân lực.Trong thời đại ngày nay,
việc trang bị những kiến thức học vấn phổ thông và kỹ năng nghề nghiệp là chưa đủ, cần
phải tạo lập cho mối con người Việt Nam có tư duy năng động, sáng tạo, dám mạo hiểm,
sẵn sàng thích ứng và thích ứng cao trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh khốc
liệt nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Cho nên trí lực còn được biểu hiện ở
óc sáng tạo, tính linh hoạt, nhanh nhẹn, sắc bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng
thích ứng nhanh để học tập, áp dụng, làm chủ các phương tiện khoa học, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định các giải pháp kinh tế và thực hiện phát triển
kinh tế. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực trí tuệ trong quá trình CNH, HĐH
rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức hiện nay.
1.1.3.3. Chỉ số phát triển nhân lực HDI (Human Development Index)
Nếu quan niệm NNL là tổng thể năng lực lao động trong nền kinh tế của một quốc
gia, tức là lực lượng lao động của đất nước đó, thì khi xét chất lượng NNL, tức là bộ phận
trực tiếp hoạt động và sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội không thể tách rời những điều



kiện phát triển con người trong quốc gia đó. Trên ý nghĩa đó, thì chất lượng nguồn nhân lực
còn được thể hiện gián tiếp thông qua chỉ số phát triển con người (HDI- Human
Development Index). Theo Liên hiệp Quốc, sự phát triển nhân lực của các quốc gia và vùng
lãnh thổ khác nhau có thể so sánh với nhau bằng một thước đo chung, đó là chỉ số phát triển
con người hay chỉ số phát triển nhân lực. HDI là một chỉ tiêu tổng hợp gồm 3 tiêu chí cụ
thể: 1) Mức độ phát triển kinh tế: Được xác định bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình
quân đầu người hằng năm;
2) Chỉ tiêu về phát triển giáo dục (chỉ tiêu học vấn): Được xác định bằng tỷ lệ người
lớn biết chữ và tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục; và 3) Chỉ tiêu y tế: Tính bằng tuổi thọ bình
quân của người dân.
Theo quy ước quốc tế, chỉ số HDI mang giá trị từ 0 đến 1 gồm: chỉ số trình độ học vấn,
chỉ số thu nhập, chỉ số tuổi thọ. Có nơi, còn sử dụng thêm 2 tiêu chí: môi trường tự nhiên và hệ
thống an sinh xã hội. Chỉ số học vấn có giá trị bằng 1, khi 100% số người lớn (trên 15 tuổi) biết
đọc, biết viết; bằng 0, khi 0% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ có
giá trị bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0, khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi.
Chỉ số thu nhập bằng 1, khi GDP bình quân đầu người đạt 40.000 USD (theo sức mua tương
đương); bằng 0, khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt 160 USD/năm.
Giá trị HDI của các nước và lãnh thổ trên thế giới nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
Nước nào có giá trị HDI càng gần đến 1 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực rất cao, nếu
nước nào có giá trị HDI dưới 0,4 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó được
coi là thấp. Theo số liệu của UNDP, chỉ số phát triển con người (HDI: tuổi thọ, trình độ học
vấn, mức sống) của Việt Nam có xu hướng gia tăng, từ xếp thứ 116/174 nước (năm 1993)
lên thứ 109/174 nước (năm 2000), nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/174 nước. Năm
2005 tăng 4 bậc (đạt 0,704 điểm), lên mức 108/ 177 nước. Đóng góp vào chỉ số chung này
thì chỉ số phát triển kinh tế (K) đạt 0,54; chỉ số tuổi thọ (T) đạt 0,76; chỉ số phát triển giáo
dục (G) đạt 0,82. Chỉ số phát triển giáo dục đã có đóng góp nhiều nhất vào HDI, vì vậy
nâng giá trị và thứ hạng HDI của nước ta lên (nước ta có thành tựu số người lớn biết chữ là
90,3%, số đi học trong độ tuổi 6-24 là 64%). Do vậy: G = 0,93x 2+0,64 = 0,82.

3
Biểu 1.6: HDI của Việt Nam
Năm Chỉ số HDI Thứ bậc so với các Chỉ số


nước tham gia xếp
hạng
giáo dục
1990 0,608 74/130
1995 0,539 120/174 0,78
2000 0,671 108/174 0,83
2004 0,691 112/177 nước 0,82
2005 0,704 108/177 nước 0,82
Nguồn: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện đại hội X của Đảng; Nxb CTQG,
Hà Nội 2006, trang 17.
Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng về HDI cao hơn xếp hạng GDP/
người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng tăng trưởng kinh tế với phát triển
xã hội, quan tâm đến các yếu tố sức khỏe, y tế, giáo dục…(tuổi thọ trung bình của người
Việt Nam hiện nay là 68,5, 90% dân số được tiếp cận các dịch vụ xã hội). Một trong những
yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp là do chỉ số GDP bình quân đầu người
còn quá thấp. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế để sớm đưa VN ra khỏi vị trí nước kém
phát triển là mục tiêu hàng đầu. Như vậy trên thực tế, tồn tại những quốc gia có trình độ
phát triển kinh tế- xã hội ở mức cao, nhưng chỉ số này không được cao, trong khi đó nước
có trình độ phát triển thấp, nhưng chỉ số HDI lại ở mức tương đối như Việt Nam. Do đó, chỉ
số HDI tuy không phản ánh trực tiếp chất lượng nguồn nhân lực, song nó cho biết khá rõ
môi trường xã hội ở đó nuôi dưỡng và phát triển NNL chất lượng cao.
1.1.3.4. Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái
độ và phong cách làm việc của người lao động
Tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều nhà
nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng, khi nói tới NNL thì ngoài thể lực và trí lực của con

người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu
cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là
kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người.
Đồng thời, khi xem xét chất lượng NNL con người, không thể không nói đến đạo
đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những phẩm chất đạo
đức, tinh thần có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng của con người, nó
thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người. Do vậy, phát triển


NNL trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi người lao động phải có hàng loạt
phẩm chất cần thiết như: có ý thức tổ chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần trách
nhiệm trong công việc, tác phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có lương tâm nghề
nghiệp…tất cả những phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con người, tức là đào
tạo con người “vừa hồng, vừa chuyên”. Trong thực tế ở nước ta lực lượng lao động còn hạn
chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực
hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động, nên còn một tỷ lệ
đáng kể lao động không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm không đúng với trình
độ và nghề được đào tạo. So với các nước trong khu vực, thứ bậc xếp hạng về chất lượng
nguồn nhân lực của nước ta còn thấp (VN chỉ đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là 5,73/10 và
Thái Lan là 4,04/10).
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế xã hội
và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
Một là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành
công của sự nghiệp CNH, HĐH rút ngắn.
Đối với NNL quá trình CNH, HĐH sẽ thúc đẩy sự phát triển, sự thay đổi về nhiều
mặt. Chẳng hạn, nó làm thay đổi cơ cấu NNL, làm chuyển biến từ một cơ cấu lạc hậu sang
một cơ cấu tiến bộ hơn; cơ cấu các khu vực lớn trong kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế kỹ
thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu NNL ở từng vùng, từng địa phương cho đến cơ
cấu NNL trong nội bộ từng doanh nghiệp. CNH, HĐH là một yếu tố tác động rất mạnh đến

NNL và phát triển NNL.
Đối với Việt Nam, bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức
trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế-xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất
lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước và phát triển bền vững. Bởi vì: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, riêng về kinh tế, mục tiêu này ngày càng mở rộng được thị trường,
bán được nhiều hàng hóa dịch vụ. Muốn thế, phải có sức mạnh trong cạnh tranh, tức là chất
lượng và giá cả. Chất lượng và giá cả hàng hóa lại phụ thuộc vào hai yếu tố chủ chốt: đó là
trình độ công nghệ của sản xuất và trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực. Hơn
nữa, quá trình hội nhập kinh tế thế giới là quá trình giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các


nước trên thế giới về hàng hóa dịch vụ, tiền tệ, công nghệ mới, NNL… theo hai chiều ra và
vào. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ mới vào Việt Nam kéo theo công việc làm,
các nghề mới, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý…Những diễn biến này tác động trực tiếp
vào NNL và phát triển NNL chất lượng cao của Việt Nam.
Do vậy, phát triển NNL ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành công của CNH,
HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả các điều kiện cần
thiết để phát triển NNL nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cấp bách của công cuộc đổi
mới, của CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu
và tăng trưởng nhanh
Trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn nhân lực chất lượng cao
cón thấp so với nhu cầu của thực tế. Đến năm 2005, lao động qua đào tạo có tăng, song đến
nay mới chỉ đạt 24,8% chỉ tăng 2,2% so với năm trước (chưa đạt mục tiêu do đại hội IX của
Đảng đề ra là 30%).
Trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thông, thì lại thiếu hụt nghiêm trọng lao động
có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho
xuất khẩu lao động. Đây là tình trạng đáng báo động, không phù hợp với quy luật tăng

trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bao giờ cũng phải cao
hơn tốc độ tăng GDP để đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn là nước nông nghiệp,
nên ngay cả NNL được gọi là chất lượng cao vẫn còn mang nặng thói quen và tập quán của
người tiểu nông, thiếu năng động, tính tổ chức kỷ luật trong nền sản xuất công nghiệp hiện
đại còn yếu, thích tự do, tác phong công nghiệp, trình độ văn hóa còn thấp. Chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với một số nước Đông á. Cụ thể, ta
đang ở mức gần tương đương với Indonesia, nhưng thua hầu hết các nước và lãnh thổ khác
như Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Thái
Lan, Philippin Từ đó dẫn đến một loạt các yếu kém khác như trình độ vận dụng khoa học
kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao và dương nhiên dẫn đên sức
cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn ở vị trí rất thấp. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế

×