Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

luận văn vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng viên ở phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.5 KB, 118 trang )










LUẬN VĂN:


Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan
duy vật biện chứng cho cán bộ, ĐảNG VIÊN

ở Phú Thọ hiện nay











MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới quan khoa học cú vai trũ quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực


tiễn. Vỡ thế việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học, thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên lâu dài mà cũn là vấn
đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề không hề đơn giản mà nó cực kỳ khó khăn
và phức tạp. Bởi lẽ, chỳng ta xõy dựng chủ nghĩa xó hội trong điều kiện xuất phát điểm
thấp, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, phân tán, năng suất lao động thấp, tàn dư của
nếp sống, phong tục tập quán, quan niệm, tư tưởng lạc hậu cũn ảnh hưởng khá mạnh
trong đời sống xó hội. Mặt khỏc, sự chống phá của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh
vực, sự tác động của tỡnh hỡnh thế giới đa dạng, phức tạp, nhiều chiều, đặc biệt là quá
trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tỡnh cảm, niềm
tin, lý tưởng của cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là vốn quý của Đảng, của cách
mạng, cán bộ giữ vị trí quan trọng và cú ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách
mạng, đảm bảo cho mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được
thực hiện thắng lợi. Đồng thời, cán bộ tạo ra mắt xích gắn bó máu thịt giữa Đảng và
nhân dân. Người nói: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thỡ động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ, máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là
người đem chính sách của Chính phủ, của Đảng thi hành trong nhân dân, nếu cỏn bộ dở
thỡ chớnh sỏch cũng khụng thể thực hiện được”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Có cán bộ tốt, việc gỡ cũng xong. Mọi việc thành cụng hay thất bại đều do cán bộ tốt
hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” [49, tr.240].
Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển toàn
diện và sâu sắc. Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập đó tỏc động
không nhỏ đến nhận thức của cán bộ, đảng viên, đũi hỏi cỏn bộ, đảng viên không ngừng
nâng cao chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực tổ chức thực

tiễn, có thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn. Cán bộ, đảng viên ở Phú
Thọ cũng không nằm ngoài cái chung đó.
Là một tỉnh trung du, miền núi, thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Phú Thọ có vị trí
chiến lược an ninh quốc phũng quan trọng, giàu tiềm năng về kinh tế, du lịch, là mảnh

đất cội nguồn của dân tộc. Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Phú Thọ đó cú vai trũ quan trọng
trong đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phũng của tỉnh. Họ đó cú những đóng
góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, phát huy truyền thống
dựng nước của các vua Hùng, đưa Phú Thọ đang từng bước vươn lên. Tuy nhiên,
trong tỡnh hỡnh cỏch mạng mới, đội ngũ này đó biểu hiện những hạn chế nhất định
về trỡnh độ, năng lực, biểu hiện ở nhiều phương diện, đặc biệt là mặt thế giới quan.
Vỡ sao hiện nay đi vào kinh tế thị trường, cán bộ, đảng viên đi lễ chùa nhiều như
vậy? Vỡ sao hoạt động mê tín dị đoan chưa được khắc phục, thậm chí có nơi cũn gia
tăng? Vỡ sao cỏn bộ, đảng viên không dám mạnh dạn đấu tranh với các hoạt động
này? Trong công tác giáo dục bồi dưỡng cán bộ, đảng viên hiện nay đặt ra vấn đề gỡ,
giỏo dục như thế nào để nõng cao trỡnh độ thế giới quan khoa học cho họ Đây là
tỡnh huống cú vấn đề mà trong quá trỡnh đi lên chỳng ta phải tập trung giải quyết.
Vỡ vậy, việc tỡm hiểu thực trạng thế giới quan và việc bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho cán bộ, đảng viên, từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng
viên hiện nay là yêu cầu cần thiết và cấp bách.
Từ những căn cứ trên, nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những thành
quả đó đạt được, góp phần xây dựng con người mới, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên ở Phú Thọ “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, tác giả
chọn đề tài: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng
viên ở Phú Thọ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ triết học của mỡnh.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu thế giới quan duy vật biện chứng đó cú nhiều tỏc giả nghiờn
cứu trước đây như:

- V.T.Li - Xốp - ski và A.V.Mitriép (1974), Nhân cách của người sinh viên",
chương 6: sự hỡnh thành thế giới quan, Nxb Đại học tổng hợp Lêningrát.
- V.I.Vaxilencô (1975), Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của
việc xõy dựng thế giới quan trong xó hội xó hội chủ nghĩa, Bản tự lược thuật luận án
Tiến sĩ Triết học, Mátxcơva.

- Bùi Ngọc (1981), Thế giới quan khoa học - một tất yếu lịch sử, Tạp chí thụng
tin khoa học xó hội, số 8.
- A.PMô-i-xê-ép (1985), Thế giới quan và hệ tư tưởng, Tạp chí Nghiên cứu, số
1.
- Ch.L.Xmiếc nốp (1985), Những vấn đề cấp bách của việc hỡnh thành thế giới
quan Mỏc-Lờnin, Tạp chớ Giỏo dục lý luận, số 3.
- Lê Xuân Vũ (1986), Thế giới quan Mác- Lênin trong đời sống tinh thần của
nhân dân ta, Tạp chí Cộng sản, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn (1988), Một số khớa cạnh về vai trũ của sinh học hiện
đại đối với sự hỡnh thành và củng cố thế giới quan khoa học, Tạp chí Triết học, số 3.
- Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ
đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở nước ta,
Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ
đảng viên người dân tộc Khơ me ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Huy Hoàng (2003), ‘‘Mấy suy nghĩ về việc xác định bản chất của thế
giới quan”, Tạp chí triết học, (6).
- Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Hoàng Đỡnh Cỳc, (2007), “Xây dựng và củng cố thế giới quan khoa học cho
thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay”, Tạp chớ lý luận chớnh trị, (3)

Tất cả các tác giả trên đó đề cập đến một số vấn đề cơ bản như:
- Khái niệm thế giới quan nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng núi
riờng, cấu trỳc và vai trũ của chỳng.
- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục thế giới quan, bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ đảng viên, sinh viên, đồng bào dân tộc thiểu số
nói chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội.
- Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hỡnh thành, tỏc động,
phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung
trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xó hội.
- Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm bồi
dưỡng và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho đối tượng nghiên cứu trên cơ
sở đũi hỏi của thực tiễn trong mỗi giai đoạn nhất định.
Tuy nhiên, về "Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ đảng viên ở Phú Thọ hiện nay" chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách
có hệ thống dưới góc độ triết học. Đồng thời, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cán
bộ, đảng viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, phát triển kinh
tế, văn hoá - xó hội Phỳ Thọ núi riờng, do đó, tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc
sĩ triết học, nhằm góp phần nhỏ vào mục tiêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích tầm quan trọng và tỡnh hỡnh bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho cán bộ, đảng viên ở Phú Thọ hiện nay, luận văn đưa ra phương

hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng có hiệu quả thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ này.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đối
với đội ngũ cán bộ đảng viên, xác định những nhân tố tác động đến thế giới quan duy vật biện
chứng của cán bộ đảng viên ở Phú Thọ hiện nay.

- Làm rừ thực trạng thế giới quan, tỡnh hỡnh bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ đảng viên ở Phú Thọ và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng có hiệu
quả thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ đảng viên ở Phú thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
cán bộ, đảng viên ở Phú Thọ hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của triết học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, tài
liệu của Tỉnh uỷ Phú Thọ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với một số một số phương pháp nghiên cứu khoa học như:
phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc, điều tra xó hội học, thống kờ.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng,
những yêu cầu và thực trạng về thế giới quan của đội ngũ cán bộ đảng viên ở Phú Thọ, từ
đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng có hiệu quả thế giới
quan duy vật biện chứng cho đội ngũ này.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược, kế
hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên ở tỉnh Phú Thọ.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy và học tập ở
các trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị, các trường đại học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.


Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở
PHÚ THỌ HIỆN NAY

1.1. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO
CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY
1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng, bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng
1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Để tồn tại và phát triển, con người luôn phải đặt mỡnh trong mối quan hệ tự
nhiờn và xó hội, với thế giới xung quanh. Tỡm hiểu, khỏm phỏ, về thế giới và nhận thức
bản thõn mỡnh là nhu cầu của con người. Khi trả lời được những vấn đề: nguồn gốc,
bản chất của thế giới là gỡ?, thế giới cú tồn tại thực tế hay chỉ là ảo ảnh? Vị trớ và vai
trũ của con người trong thế giới ấy là thế nào? í nghĩa cuộc sống của con người ra sao?
Đó chính là thế giới quan.
Phạm trù thế giới quan xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII do Cantơ - nhà triết
học cổ điển Đức nêu ra. Sau đó, phạm trù được sử dụng rộng rói trong cỏc tỏc phẩm
triết học. Với sự ra đời của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phạm trù thế giới quan được phát
triển lên một tầm cao mới. Vào khoảng thế kỷ XX, giới triết học ở Liên Xô và các nhà
triết học trên thế giới nghiên cứu, định nghĩa ở nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, thế giới quan nào cũng nhằm giải quyết ba vấn đề sau:
- Thế giới mà con người đang sống là gỡ?
- Trong thế giới đó con người sống vỡ cỏi gỡ và sống như thế nào?
- Khả năng của con người tác động lại thế giới ra sao?
Trả lời những câu hỏi ấy, thế giới quan vạch ra được mối quan hệ giữa thế giới
và con người, xác định vị trí của con người trong thế giới đó. Ở đây cần làm rừ thờm
mấy vấn đề sau:


Thứ nhất: Về cấp độ, thế giới quan được hỡnh thành và phỏt triển trong xó hội
dưới hai hỡnh thức.
+ Thế giới quan là một nhõn tố của ý thức cỏ nhõn, giữ vững vai trũ chỉ đạo
cách thức tư duy và hành động của con người. Đó là thế giới quan cá nhân. Thế giới
quan cá nhân thường là sự tích luỹ và tổng hợp kinh nghiệm sống của từng người, nó
nằm trong suy nghĩ và hành vi của họ mà chính họ cũng không biết cái được gọi là kinh
nghiệm sống hay sự hiểu biết về thế giới xung quanh chính là thế giới quan cá nhân.
Đây chính là cấp độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy vậy, không nên đánh giá thấp
vai trũ của thế giới quan cỏ nhõn vỡ nú gúp phần điều chỉnh hành động của con người.
Thế giới quan cá nhân chịu sự tác động của giáo dục, truyền thống, các quan hệ xó hội,
cỏc điều kiện và hoàn cảnh môi trường sống.
+ Thế giới quan là sự thể hiện dưới hỡnh thức lý luận khỏi quỏt hoỏ cỏc quan
điểm và hoạt động của một nhóm xó hội, một giai cấp hay toàn xó hội. Đó là thế giới
quan xó hội. Thế giới quan xó hội được xõy dựng bởi cỏc nhà triết học, kinh tế học, xó
hội học, cỏc nhà tư tưởng, chính trị Họ là những người nghiên cứu, đưa ra những
nguyên lý tư tưởng lý luận, nguyờn lý triết học để chỉ dẫn một cách đúng đắn, đầy đủ
những suy nghĩ và hành động của con người, của một nhúm xó hội, một giai cấp hay
toàn xó hội.
Dự ở trỡnh độ phát triển nào, các quan điểm về thế giới quan cũng đều mang tính
khái quát. Thế giới quan cá nhân và thế giới quan khoa học có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Để làm giàu tri thức của mỡnh, làm sỏng tỏ vị trớ của mỡnh trong thế giới,
trong đời sống xó hội, mỗi cỏ nhõn phải khụng ngừng tiếp nhận những lý luận chung.
Ngược lại, những quan điểm thế giới quan xó hội, lý luận chung ấy trở thành một bộ
phận trong ý thức và niềm tin của cỏc cỏ nhõn, thẩm thấu vào ý thức cỏ nhõn, cú tỏc
dụng chỉ dẫn hoạt động của cá nhân. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có rất nhiều định
nghĩa về thế giới quan. Chẳng hạn, Akitốp cho rằng: “Tổng hợp tất cả những quan
niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nú, ý nghĩa và giỏ trị của đời
sống con người, lũng tin của con người trong hiện thực được gọi là thế giới quan” [2,
tr.167]. Trong Từ điển triết học viết: “Thế giới quan được hiểu là toàn bộ những nguyên


tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của
một tập đoàn xó hội, của một giai cấp hay xó hội núi chung đối với thực tại” [65,
tr.539].
Trên cơ sở đó, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một
chủ thể (một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xó hội) về thế giới, về
mối quan hệ giữa thế giới với con người, xác định vị trí, vai trũ của con người trong thế
giới, nhằm giải đáp vấn đề mục đích và ý nghĩa cuộc sống con người. Trên cơ sở đó, thế
giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con
người, đồng thời là phương thức con người tự ý thức về bản thõn mỡnh.
Thế giới quan cú ý nghĩa khụng chỉ về mặt lý luận và nhận thức mà nú cũn cú ý
nghĩa to lớn về thực tiễn, quyết định thái độ của con người đối với thế giới xung quanh
và định hướng cho hành động của con người.
Thứ hai: Về cấu trúc, thế giới quan được cấu thành bởi ba nhân tố sau:
- Tri thức: Tri thức là điều kiện cần thiết và chủ yếu cho việc hỡnh thành thế giới
quan. Cũng giống như mọi ý thức xó hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự
nhiờn, xó hội, con người, nhưng không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xó hội, con
người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung về
tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới quan. Tri thức chỉ trở nên bền
vững, sâu sắc, có giá trị định hướng cho hoạt động của con người khi nó nhập vào thế
giới quan duy vật biện chứng. Với tính cách là tri thức khoa học phản ánh các quan
điểm chung nhất về thế giới, những tri thức triết học đóng vai trũ nền tảng của mọi thế
giới quan ở cỏc giai đoạn phát triển của nó.Cần chỳ ý là tri thức khoa học chỉ là điều
kiện cần mà chưa đủ để hỡnh thành niềm tin. Kiến thức, bản thõn nú khụng phải là quan
niệm, khụng phải là thế giới quan, nó chỉ là chất liệu, cần phải làm giàu thêm bằng kinh
nghiệm sống, bằng tính tích cực của tư duy của con người. Người ta có thể trích dẫn
Mác nhưng lại không thể trở thành nhà mác-xít. Thông thường, kiến thức biến thành thế
giới quan khi nú cú tớnh chất của quan niệm. Bởi vỡ, quan niệm, nguyờn tắc là cơ sở tổ
chức hoạt động sống cá nhân. Điều kiện quan trọng nhất của việc biến kiến thức thành


quan niệm là sự phối hợp hữu cơ giữa việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mỏc-Lờnin với
thực tiễn chớnh trị-xó hội.
- Niềm tin: Niềm tin là một trạng thỏi tõm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển
trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực
của con người.
Niềm tin chi phối một cách chặt chẽ tư tưởng của con người, điều khiển hành
động của con người phải dựa trên cơ sở của tri thức. Khi làm một việc gỡ đó mà con
người không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thỡ con người sẽ bị
tước mất những rung động ý chớ, khỏt vọng, nghị lực, lũng nhiệt tỡnh, sự cổ vũ cần
thiết đối với kết quả công việc, nhất là đối với công việc xó hội. Niềm tin giỳp con
người có thêm nghị lực để vượt qua những trở ngại, hiểm nguy, dỏm hy sinh vỡ những
mục tiêu cao cả đó đặt ra.
Niềm tin khoa học tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống cũng như hành động cách mạng của con người. Nếu con người sống không có
niềm tin khoa học hoặc thiếu niềm tin khoa học sẽ mất phương hướng trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn, dễ mắc phải những sai lầm nghiêm trọng.
- Lý tưởng: Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc biệt
trong ý thức của con người dưới dạng hỡnh tượng, kiểu mẫu hay chuẩn mực mà con
người phải cần phấn đấu đạt tới.
Lý tưởng là một hỡnh thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin
của một cá nhân, một nhóm người, một giai cấp hay của toàn xó hội.
Lý tưởng mang tính lịch sử, về bản chất, nú cú thể tiến bộ hay lạc hậu tuỳ thuộc
vào hỡnh thỏi của cỏc mối quan hệ xó hội. Những quan niệm của con người về tương
lai, về lý tưởng, đó là sự tỡm tũi và sẽ hỡnh thành một hỡnh thức tõm lý với tư cách là
niềm hy vọng. Niềm hy vọng phải như là một khát khao dâng hiến cho tương lai thỡ con
người mới có một lập trường sống tích cực.
Lý tưởng đóng vai trũ định hướng đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người. Nó chính là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ tự nhiên, xó

hội và bản thõn của con người, nhằm thực hiện mục đích cao cả của mỡnh, cải tạo thế

giới “đang có” thành thế giới “phải có.”
Ba nhân tố cơ bản trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, cấu thành thế giới
quan, nhằm thể hiện những quan điểm của chủ thể về thế giới, về những hiện tượng của
tự nhiên, xó hội và cỏc quy luật phỏt triển của chỳng, về bản thõn con người và vai trũ
của con người trong thế giới.
Thứ ba: Về mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan
Mối quan hệ giữa con người với thế giới là trung tâm của thế giới quan, các giai
đoạn phát triển của thế giới quan đều liên quan đến vấn đề cơ bản của triết học, thậm chí
vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề chính trong kết cấu của thế giới quan. Nhưng xét
về mặt lịch sử, thế giới quan ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời kỳ bộ tộc,
với hỡnh thức thế giới quan đầu tiên là thế giới quan thần thoại, trên cơ sở phản ánh
thực tế một cách hoang đường. Cũn triết học là khoa học, chỉ xuất hiện khi cú sự tỏch
lao động trí óc khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô
lệ.
Triết học hỡnh thành với tư cách là hỡnh thỏi ý thức xó hội, trờn cơ sở phát triển
của những vấn đề thế giới quan xuất hiện trong quá trỡnh nhận thức mang tớnh thần
thoại đối với thế giới, nhằm giải quyết về mặt lý luận đối với những vấn đề về thế giới
quan được nảy sinh và phát triển trong thực tiễn.
Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về vị trớ của
con người trong thế giới đó. Vỡ vậy, triết học là hạt nhõn lý luận của thế giới quan, làm
cho thế giới quan phỏt triển như một quá trỡnh tự giỏc dựa trờn sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do cỏc nhà khoa học đem lại. Do đó triết học có chức năng thế giới
quan.
Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh về thế
giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xó hội và tư duy, cùng những định hướng giá
trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật
biện chứng vấn đề cơ bản của triết học. Nó đảm bảo thống nhất giữa tính khoa học và
tính cách mạng triệt để. Thể hiện ở việc nêu cao tính phê phán đối với xó hội cũ, xõy

dựng xó hội mới, đánh giá đúng vị trí của con người trong thế giới hiện thực và vai trũ

của con người đối với thực tiễn cách mạng. Thế giới quan duy vật biện chứng không
dừng lại ở việc giải thích về thế giới, mà hơn thế nữa, nó định hướng cho con người nhận
thức và hành động đúng trong việc khẳng định vị trí và vai trũ của con người đối với việc
cải tạo thế giới. C.Mác viết: “Các nhà triết học đó giải thớch thế giới bằng nhiều hỡnh thức
khỏc nhau, vấn đề là cải tạo thế giới” [37, tr.2].
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đánh dấu một bước ngoặt trong
sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và thế giới quan nói chung. Thế giới
quan duy vật biện chứng là sự kết hợp nhuần nhuyễn của chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng. Thực tiễn lịch sử đó chứng minh thế giới quan khoa học - thế giới quan duy
vật biện chứng cú vai trũ to lớn trong quỏ trỡnh cải tạo hiện thực. Nú biểu thị niềm tin
vào sự tiến bộ của xó hội loài người, niềm tin vào khả năng của con người. Niềm tin đó
được xây dựng trên cơ sở khái quát thực tiễn, kinh nghiệm hoạt động cách mạng, phù
hợp với quy luật khách quan và lợi ích quần chúng, đặc biệt là quá trỡnh cỏch mạng vụ
sản nhằm xõy dựng chủ nghĩa xó hội.
1.1.1.2. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
Bồi dưỡng mang ý nghĩa rộng lớn hơn giáo dục.
Giáo dục: hiểu theo nghĩa rộng, đó là quá trỡnh trao đổi và chuyển giao tri thức,
là sự đạt được những giá trị và các mô hỡnh hành vi theo một mục đích, yêu cầu định
sẵn.
Hiểu theo nghĩa hẹp, giỏo dục là một quỏ trỡnh hỡnh thành nhõn cỏch con người
dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà giáo dục trong hệ thống các cơ
quan giáo dục và dạy học.
Như vậy, giáo dục có vai trũ quan trọng trong việc hỡnh thành tri thức, phẩm
chất, nhõn cỏch, định hướng phát triển cho mỗi con người.
Bồi dưỡng: là quá trỡnh làm tăng thêm trỡnh độ năng lực hoặc phẩm chất cho đối
tượng cần bồi dưỡng. Bồi dưỡng không đồng nhất với giáo dục. Giáo dục là một quá
trỡnh hoạt động mang tính xó hội và mang tính phức hợp giữa chủ thể dạy và học, là
quỏ trỡnh truyền đạt và tiếp nhận tri thức một cách có hệ thống với sự hỗ trợ của các

phương tiện cần thiết. Nói cách khác, giáo dục là quá trỡnh hoạt động thống nhất hữu cơ

giữa dạy và học. Với nghĩa như vậy, bồi dưỡng bao hàm giáo dục ở trong nó, và giáo
dục được xem là hỡnh thức cơ bản có hiệu qủa nhất của quỏ trỡnh bồi dưỡng.
Với quan niệm như vậy thỡ bồi dưỡng là trên cơ sở cái đó cú, làm cho nú phỏt
triển ngày một cao hơn, tốt hơn và sâu sắc hơn. Nó được thực hiện dưới nhiều hỡnh
thức đa dạng và phong phú.
Bản chất của bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng là quỏ trỡnh tỏc động
đồng bộ, tích cực, có định hướng, có kế hoạch vào ý thức của đối tượng bồi dưỡng,
nâng cao khả năng nhận thức, năng lực tư duy và hướng dẫn họ hoạt động thực tiễn theo
một chương trỡnh, mục tiờu cụ thể đó được xác định, nhờ đó sẽ hỡnh thành thế giới
quan khoa học và cỏch mạng, hỡnh thành phương hướng phấn đấu rèn luyện để đạt
được trỡnh độ chính trị, chuyên môn, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng phải đảm bảo cả ba thành tố
cấu trúc cơ bản. Một là, hệ thống tri thức khoa học cơ bản, toàn diện, hiện đại và
phương pháp tư duy biện chứng; hai là, hệ thống niềm tin vào chân lý những giỏ trị xó
hội nhõn đạo; ba là, hỡnh thành lý tưởng sống cao đẹp, tiến bộ và tích cực, sẵn sàng
hành động vỡ lý tưởng đó.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là
làm cho thế giới quan duy vật biện chứng trở thành nền tảng trong đời sống tinh thần, có
tác dụng định hướng cho họ về nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng như trong cuộc
sống. Ở đây, tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xó hội, từ kinh tế,
chớnh trị, văn hóa- tư tưởng, đạo đức, lối sống…bằng nhiều hỡnh thức tập trung và
khụng tập trung, trực tiếp và giỏn tiếp, giỏo dục và tự giỏo dục…,được thực hiện liên
tục và trải suốt cả quá trỡnh cỏch mạng xó hội chủ nghĩa. Núi rộng ra thỡ cụng tỏc bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này ở nước ta hiện nay là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, được thực hiện bằng tất cả sức mạnh của hệ thống
chính trị.
Trong tất cả những hỡnh thức và biện phỏp tiến hành bồi dưỡng thế giới quan
thỡ hỡnh thức tập trung và trực tiếp là quan trọng nhất; bởi vỡ, hỡnh thức này trong một

thời gian ngắn, người học lĩnh hội được một khối lượng lớn tri thức và có tính lôgíc

dưới sự hướng dẫn của giảng viên, trên cơ sở đó nhanh chóng xây dựng và củng cố
niềm tin, lý tưởng cần thiết cho hoạt động thực tiễn sau này.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo là quá
trỡnh cải biến cách mạng sâu sắc. Đặc điểm của quỏ trỡnh này là chủ thể của nó phải biết
đổi mới từ chính bản thân mỡnh, phải phỏ bỏ những lực cản ngay trong xó hội và trong mỗi
con người. Chính vỡ vậy, việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng là yếu tố quan
trọng để hỡnh thành một đường lối chính trị đúng đắn cho quá trỡnh cải tạo mang tớnh
cỏch mạng này.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho cán bộ đảng viên ở Phú Thọ
1.1.2.1. Cán bộ, đảng viên và vai trũ của họ trong việc phỏt triển kinh tế xó hội
Theo cách hiểu khái quát nhất về cán bộ: là những người có vị trí, vai trũ nhất
định trong một tổ chức chính trị -xó hội, cú khả năng tác động (gây ảnh hưởng) đến tư
tưởng, hành vi của người khác trong xó hội thông qua các hoạt động lónh đạo, quản lý, điều
hành và thúc đẩy kinh tế - xó hội phỏt triển.
Để giữ được vai trũ đó, người cán bộ phải có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, học vấn, trỡnh độ văn hoá nhất định và có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giỏi.
Có nghĩa là, người cán bộ phải có đủ đức và tài trên từng cương vị hoạt động công tác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đó từng chỉ rừ vai trũ lớn lao của con
người trong lịch sử: “tư tưởng căn bản không thực hiện cái gỡ hết. Muốn thực hiện tư
tưởng thỡ cần cú những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [40, tr.181]. Chính đội
ngũ những con người có vai trũ lịch sử trong mỗi thời kỳ đó thực hiện cỏc tư tưởng lý
luận, biến nú thành hiện thực.
C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng cán bộ là những người “có nhiều trí tuệ hơn một
chút và kiến thức rộng, đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và lẽ
sống của giai cấp vô sản’’. Lênin cũng khẳng định: “đảng viên phải là người có trỡnh độ
văn hoá, lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao
phó" [31, tr.362].

Tiếp nối tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng

“vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”. Cán bộ là “chiếc cầu nối giữa Đảng
và nhân dân”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “mọi việc thành công hay thất bại do
cán bộ tốt hay kém” [49, tr.269-273].
Như vậy, nếu cú cỏn bộ tốt, ngang tầm thỡ việc xõy dựng đường lối, chính sách
sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Đường lối chính sách có đúng đắn, sát thực đến đâu nhưng không có đội ngũ cán bộ tốt,
đủ trỡnh độ năng lực thỡ cũng khú trở thành hiện thực, khú đi vào cuộc sống. Muốn
biến đường lối chính sách thành hiện thực phải có những người cán bộ cách mạng thực
sự bằng lý luận và năng lực thực tiễn của mỡnh kết hợp với quần chỳng nhõn dõn để tổ
chức thành công nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Vị trớ, vai trũ của cỏn bộ, đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt trong mọi quá
trỡnh cỏch mạng. Cỏn bộ đảng viên là vốn quý của Đảng, của cách mạng. Cán bộ tốt
quyết định tất cả. Muốn vậy phải rèn luyện cán bộ trong đấu tranh hết lũng vỡ nước, vỡ
dõn, diệt trừ chủ nghĩa cỏ nhõn, trau dồi đạo đức cách mạng, phải phát hiện và trọng
dụng nhân tài qua thực tiễn và qua sự tín nhiệm của quần chúng. Trong sự nghiệp xõy dựng
chủ nghĩa xó hội, cú nhiều nhiệm vụ, nhiều cụng việc mới mẻ, đũi hỏi người cán bộ phải có
đủ trí tuệ, tài năng và phẩm chất đạo đức. “Người cán bộ lónh đạo phải thực sự có tài tổ
chức, những người có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người
vừa trung thành với chủ nghĩa xó hội lại vừa cú năng lực” [33, tr.509]. Ở đây, đũi hỏi người
cán bộ, đảng viên một mặt phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, mặt
khác phải có một phương pháp làm việc khoa học để tổng kết thực tiễn, khái quát thành
lý luận. Cụng việc này khụng đơn giản, nó đũi hỏi sự thống nhất trong bản thõn người
cán bộ, với tư cách vừa là một nhà khoa học, vừa là một chiến sỹ cách mạng nhiệt
thành.
Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với Đảng, hết lũng phấn đấu vỡ lợi ớch của nhõn dõn, của dõn tộc, cú bản
lĩnh chớnh trị vững vàng, khụng dao động trước những khó khăn, thử thách, có
năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, có nhân cách và lối sống mẫu mực,

trong sỏng, cú ý thức tổ chức kỷ luật cao, tụn trọng tập thể, gắn bú với nhõn dõn

[19, tr.136].
Phẩm chất và năng lực của người cán bộ, đảng viên không tự nhiên mà có, nó
được hỡnh thành, phỏt triển trải qua quỏ trỡnh rèn luyện, tu dưỡng, thử thách trong
phong trào cách mạng, trong thực tiễn.
Đứng trước nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp cách mạng mới, với hàng loạt vấn đề
khó khăn phức tạp, việc không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng
viên đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là vấn đề cấp bách.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho cán bộ, đảng viên
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng tốt, thực sự là những chiến sỹ
tiên phong của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu của cách mạng luôn là một vấn đề
cơ bản, một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng. Trong quá trỡnh lónh đạo cách mạng, Đảng
ta thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên. Mỗi giai
đoạn của cách mạng, Đảng ta đó cụ thể húa tiờu chuẩn chất lượng cán bộ đảng viên có
đủ phẩm chất năng lực ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xó hội thỡ nhất định phải có học thức,
cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật, cần phải học lý luận Mỏc - Lênin kết hợp với
đấu tranh công tác hàng ngày” [48, tr.461].
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ
như người làm vườn vun trồng những cây cối quý bỏu. Phải trọng nhõn tài, trọng cỏn
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” [49, tr.269 - 273].
Đảng ta nhiều lần khẳng định, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một lĩnh vực quan
trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
đức, đủ tài để có thể đảm đương được nhiệm vụ công tác, đáp ứng yêu cầu của công
cưộc đổi mới là vấn đề cấp bách. Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
họ cú ý nghĩa quan trọng. Bởi vỡ, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận

thức và cải tạo thế giới của con người, đồng thời là phương thức con người tự ý thức về

bản thõn mỡnh. Nú là ‘‘thấu kớnh’’mà thụng qua đó, con người xét đoán mọi sự vật, sự
việc trong cuộc sống và tự xem xột bản thõn mỡnh, từ đó mà con người xác định thái
độ, hành vi, cách thức hoạt động và sinh sống thích ứng với hoàn cảnh. Có thể khái quát
tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng
viên thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ đảng viên
nâng cao năng lực thực tiễn, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong việc đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển ở địa
phương, đơn vị.
Thật vậy, thế giới quan duy vật biện chứng giúp người cán bộ, đảng viên có
phương pháp biện chứng trong nhỡn nhận, đánh giá các sự vật hiện tượng. Nó tạo lập
niềm tin vững chắc cho lập trường của người cán bộ, bác bỏ những quan điểm sai lầm
của thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Nó giúp cho người cán bộ, đảng viên có khả
năng phát hiện, đi sâu vào các sự vật hiện tượng, nhất là các hiện tượng xó hội, thụng
qua nhiều hiện tượng phức tạp bên ngoài, phát hiện các quy luật, xu hướng và phương
thức vận động biến đổi của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, thế giới quan duy vật biện
chứng cũn tạo cho họ có khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá.
Nhờ đó, có thể thấy được cơ cấu bên trong, tính chất, chức năng của các bộ phận, yếu
tố, trên cơ sở đó, người cán bộ có thể liên kết, thống nhất các bộ phận, yếu tố đó phõn
tớch nhằm vạch ra mối liên hệ giữa chúng để nhận thức cái toàn thể trong tính muôn vẻ
của chúng. Bằng phương pháp phân tích và tổng hợp, giúp người cán bộ nắm bắt sâu
sắc bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng, giúp cán bộ, đảng viên có được những
chủ trương, nghị quyết mang tính khoa học, phù hợp với hiện thực khách quan. Năng
lực trừu tượng hoá giúp người cán bộ biết gạt bỏ những mặt, những yếu tố không cơ bản
trong tổng thể phong phú của sự vật để nắm cái bản chất có tính quy luật của nó, tỡm ra
những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh cần được giải quyết. Năng lực khái
quát giúp cán bộ, đảng viên nắm được đặc tính chung từ những vấn đề riêng, tỡm ra

nguyờn nhõn cơ bản, chủ yếu. Việc nắm vững lý luận chung sẽ là tiền đề, phương pháp
tốt nhất để giải quyết những vấn đề cụ thể. Lênin đó chỉ ra rằng:

Người nào bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng, trước khi giải
quyết những vấn đề chung thỡ kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh
khỏi vấp phải những vấn đề chung một cách không tự giác mà mù quáng vấp
phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thỡ cú nghĩa là đưa chính
sách của mỡnh đến chỗ có những dao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc
[29, tr.427].
Thế giới quan duy vật biện chứng cũng nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho
cán bộ, đảng viên giúp người cán bộ đảng viên nắm bắt được tỡnh hỡnh một cỏch nhanh
chúng, ra được những quyết định kịp thời. Người cán bộ, đảng viên mà chỉ dừng lại ở trỡnh
độ tư duy kinh nghiệm, tuyệt đối hoá tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và
phương pháp tư duy siêu hỡnh.
Nhận thức thực tiễn kết hợp với niềm tin và nhận thức sâu sắc đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước giúp người cán bộ, đảng viên xây dựng các mục tiêu, mô
hỡnh, chương trỡnh hành động và những giải pháp cho các lĩnh vực, các tỡnh huống cụ
thể. Đồng thời đứng trước những vấn đề phức tạp của thời đại đũi hỏi người cán bộ,
đảng viên phải linh hoạt, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám đấu tranh với những hủ
tục, lạc hậu, phát hiện và tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ phát triển.
Thứ hai: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ, đảng viên có
được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xó hội, tin vào đường lối chính trị của
Đảng, tin vào quần chúng nhân dân.
Niềm tin cộng sản là niềm tin có cơ sở khoa học, nó là yếu tố then chốt trong
việc hỡnh thành nhõn cỏch xó hội chủ nghĩa. Nền múng của nú là chủ nghĩa Mỏc-
Lờnin, mẫu mực về sức mạnh của sự chứng minh khoa học và lôgíc chặt chẽ. Niềm tin
cộng sản là sự thống nhất giữa tri thức khoa học và tỡnh cảm cỏch mạng. Khụng cú sự
tỏc động của ngọn lửa tỡnh cảm rực chỏy vào lý trớ thỡ khụng sản sinh ra cỏi gỡ vĩ đại
cả. Bởi vỡ, tỡnh cảm và ý chớ là sự định hướng, sự thôi thúc bên trong để chuyển hóa

hiểu biết thành hành động. Nói cách khác, không chỉ có trí tuệ giúp con người lựa chọn
hành vi mà cũn cả trỏi tim nữa. Cuộc sống hàng này đang thôi thúc sự thống nhất này.
Nếu C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đó đưa ra những dự đoán thiên tài về

một chế độ xó hội mới tốt đẹp thỡ Lờnin với tài năng vĩ đại của mỡnh, đó phỏt triển và
vận dụng sáng tạo tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen vào thực tiễn nước Nga, đưa cách
mạng Tháng Mười Nga đến thắng lợi. Sức mạnh và tính ưu việt của Nhà nước công -
nông đầu tiên đó tạo ra những điều kiện khách quan, điểm tựa vững chắc, cổ vũ niềm tin
mạnh mẽ đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới trên con đường giải phóng
dân tộc và đi lên chủ nghĩa xó hội.
Hệ thống xó hội chủ nghĩa ra đời đó đóng góp to lớn cho công cuộc gỡn giữ hoà
bỡnh, thỳc đẩy tiến bộ xó hội. Điều đó đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong
lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa
như thế [5, tr.67].
Sau “cơn bóo chớnh trị” xảy ra vào những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xó
hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, trong khi đó, chủ
nghĩa tư bản có những điều chỉnh nhất định trong phạm vi quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, điều chỉnh về chính sách xó hội, do đó, xét ở những biểu hiện bên ngoài, chúng ta dễ
lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản là tiến bộ, là tốt đẹp. Những biểu hiện hoang mang, dao
động đó xuất hiện ở những cỏn bộ đảng viên. Nhưng nếu được trang bị một cách toàn diện
và khoa học về thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp họ có những nhận thức đúng đắn
về tỡnh hỡnh chớnh trị - xó hội trong nước cũng như trên thế giới. Sự khủng hoảng đó là
khủng hoảng trong sự trưởng thành, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xó hội, đó là
sự vận động tất yếu của quy luật xó hội. Những thành cụng trong cụng cuộc đổi mới và cải
cách ở Việt Nam và Trung Quốc là những minh chứng thực tiễn sinh động cho xu hướng
phát triển của lịch sử.
Trong tỡnh hỡnh phức tạp hiện nay, việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho cán bộ, đảng viên đó giỳp họ có cơ sở để nhận thức sự phát triển tất yếu lịch

sử, đồng thời thấy được bức tranh tổng quát về thế giới, tính quy luật phổ quát của xó
hội - quỏ độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội và chủ nghĩa cộng sản .
Niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xó hội của người cán bộ, đảng viên được biểu

hiện ở sự tin tưởng vào đường lối lónh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tính cách
mạng của thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở để hỡnh thành và luận chứng cho
đường lối chính trị của Đảng ta. Từ đó, giúp người cán bộ, đảng viên tiếp thu, vận dụng
sáng tạo và vạch ra đường lối, chiến lược, sách lược nhằm cải tạo hiện thực.
Lênin cho rằng, đối với sự hỡnh thành niềm tin cộng sản của quần chỳng lao
động thỡ một vài ngày của những sự kiện cỏch mạng sục sụi cú thể cú ý nghĩa lớn gấp
bội lần so với nhiều năm làm công tác giải thích tuyên truyền. Và, nhận thức khoa học
chỉ có sức thuyết phục mạnh mẽ và sâu sắc khi nó được bó đuốc kinh nghiệm thực tiễn
soi đường. Cho nên những hành động cách mạng của quần chúng tạo ra cơ sở tỡnh cảm
để tiếp thu hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân. Những tri thức đó, bằng con
đường lý luận, trong quỏ trỡnh học tập, hũa quyện với kinh nghiệm bản thõn mà mỗi
người tích lũy được trong công tác, trong cuộc sống, sự thống nhất đó là cơ sở cho niềm
tin cộng sản sâu sắc.
Thật vậy, những thành tựu đạt được sau hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới
trên đất nước ta đó từng bước nâng cao đời sống xó hội, củng cố lũng tin của nhõn dõn
ta với Đảng, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở nước ta ngày càng rừ hơn.
Niềm tin khoa học dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng đó ngày càng được củng
cố, phát triển cùng với tiến trỡnh vận động và phát triển của đất nước, kể từ Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đó thắp sỏng lờn trong cỏn bộ, đảng viên và nhân dân niềm tin
vào tương lai. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt
Nam là do Đảng ta biết tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam mà linh hồn là phép
biện chứng duy vật và thế giới quan duy vật biện chứng. Lênin đó viết: “chỉ Đảng nào được
một lý luận tiền phong hướng dẫn thỡ mới có khả năng làm trũn vai trũ chiến sĩ tiên phong”
[28, tr.259].

Thế giới quan duy vật biện chứng cũng giúp cho người cán bộ, đảng viên tin vào
vai trũ to lớn của giai cấp cụng nhõn và nhõn dõn lao động. Họ là lực lượng cách mạng
tiến bộ nhất có thể tạo ra những điều kiện tồn tại cho con người, phù hợp với quy luật

phỏt triển khỏch quan của chủ nghĩa xó hội. Chủ nghĩa Mỏc - Lờnin núi chung, thế giới
quan duy vật biện chứng núi riờng là biểu hiện về mặt lý luận vị trí, lợi ích và nhu cầu
cải tạo cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó là vũ khí tư tưởng
cho cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xó hội. Mác khẳng định: ‘‘Cũng giống như triết
học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mỡnh, giai cấp vụ sản thấy triết học là vũ
khớ tinh thần của mỡnh’’[38, tr.34 -35]. Và chính niềm tin đó tạo thành động lực to lớn
đối với người cán bộ, đảng viên, nó hỡnh thành ở họ sự năng nổ, nhiệt tỡnh trong cụng
tỏc, sáng tạo trong phương pháp vận động quần chúng, lôi kéo họ vào công cuộc xây
dựng thành công chủ nghĩa xó hội.
Thứ ba: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao
năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Tổng kết thực tiễn, đánh giá khách quan, đầy đủ nguyên nhân thành công và thất
bại để chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên
của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ quản lý. Đây là một khõu quan trọng khụng thể
thiếu trong quỏ trỡnh lónh đạo của cán bộ, đảng viên. Tổng kết thực tiễn có kết quả sẽ
giúp cho cán bộ, đảng viên rút ra được những bài học kinh nghiệm để bổ sung hoàn
chỉnh những quyết định của mỡnh, khắc phục được bệnh kinh nghiệm, giáo điều, góp
phần chỉ đạo thực tiễn tiếp theo đạt hiệu quả cao. Hiệu quả tổng kết thực tiễn phụ thuộc
rất lớn vào năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Người cán bộ, đảng viên
có khả năng nắm bắt những vấn đề thực tiễn cần tổng kết, khả năng phân tích, tổng hợp,
chọn lọc thông tin, tổ chức lực lượng, rút ra bài học kinh nghiệm và sử dụng các bài học
kinh nghiệm vào tổ chức thực tiễn. Tổng kết thực tiễn là phương thức cơ bản để bổ
sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Đảng ta chỉ rừ: “Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết
đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn đường

lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới” [19, tr.131]. Ở đây, mỗi cán bộ, đảng viên
cần phải không ngừng đổi mới tư duy, không ngừng nâng cao trỡnh độ, năng lực tư duy
lý luận mà cơ sở của tư duy khoa học chính là thế giới quan duy vật biện chứng. Bởi vỡ,

đổi mới tư duy triết học là cơ sở để đổi mới tư duy. Tầm quan trọng của triết học mác -
xít đối với đổi mới tư duy là ở chỗ nó vừa có tính bao quát, vừa có tính thực tiễn. Nó có
tính bao quát bởi sứ mệnh lịch sử của nó là giải đáp những vấn đề chung nhất, vỡ thế
giới quan và phương pháp luận là cơ sở cho tư duy khoa học. Nó có tớnh thực tiễn vỡ sứ
mệnh của nú khụng chỉ là giải thớch thế giới mà cũn cải tạo thế giới, và do đó, đũi hỏi
tư duy lý luận phải gắn với thực tiễn, gắn với cuộc sống.
Thứ tư: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ, đảng viên trau
dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
Đối lập với thế giới quan duy tâm và phản động, thế giới quan duy vật biện
chứng xuất phỏt từ hiện thực khỏch quan. Nú là vũ khớ lý luận, là kim chỉ nam soi
đường cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới
đấu tranh giải phóng khỏi nô dịch, bóc lột, tiến hành xây dựng một xó hội tốt đẹp hơn,
trong đó quan hệ giữa con người với con người là hợp tác, bỡnh đẳng, tương thân,
tương ái. Đó là xó hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoàn đầu là Xó hội chủ nghĩa.
Thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và
những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân cũng như nhân dân lao động. Nó khẳng
định một tầm nhỡn mới về con người - về chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Đồng thời, thế
giới quan duy vật biện chứng không những chỉ ra phương thức định hướng con người
trong thế giới, phương thức cải tạo hiện thực mà cũn là phương thức con người tự ý
thức về bản thõn mỡnh. Tự ý thức là một nhõn tố mà con người ngày một phát triển
hoàn thiện nhân cách đạo đức cá nhân. Nó là cơ sở để điều chỉnh các hành vi tích cực
của bản thân trong cỏc quan hệ xó hội.
Vỡ thế, trau dồi và nõng cao phẩm chất đạo đức cách mạng - đạo đức mới cho
cán bộ, đảng viên là tất yếu và cần thiết để xây dựng thành công chủ nghĩa xó hội. Điều
đó không chỉ vỡ hiện nay tỡnh hỡnh phẩm chất đạo đức cách mạng của một bộ phận cán
bộ, đảng viờn sa sỳt nghiờm trọng, mà cũn vỡ phẩm chất, đạo đức cách mạng là tiêu

chuẩn hàng đầu của con người mới xó hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó núi:
“người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang" [49, tr.320]. Đạo đức cách mạng vừa là mục tiêu, vừa là động

lực thúc đẩy sự phát triển xó hội, hoàn thiện con người, mà trước hết, nó là mục tiêu và
động lực xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đạo đức cách mạng không chỉ là cái “gốc” của người cách mạng mà cũn là
động lực mạnh mẽ để người cán bộ, đảng viên “đi đến cái trí” và khi đó cú “cỏi
trớ” (hiểu biết về khoa học, về chủ nghĩa Mác-Lênin, về phương pháp cách mạng)
thỡ cỏi được chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được lý tưởng
cao đẹp của mỡnh. Đạo đức cách mạng giúp người cán bộ, đảng viên vững tin trên
con đường đi đến mục tiêu, lý tưởng mà mỡnh đó lựa chọn. Cú đạo đức cách mạng
thỡ khi gặp khú khăn, gian khổ sẽ không lùi bước, thậm chí sẵn sàng hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng của đất nước.
Đạo đức cách mạng là nguồn sức mạnh vô tận để người cán bộ, đảng viên hoàn
thành nhiệm vụ của mỡnh. Nhưng muốn có đạo đức cách mạng, người cán bộ, đảng
viên phải tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó khẳng định: “đạo đức
cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc cài mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong” [49, tr.327]. Những phẩm chất đạo đức mới của người cán bộ, đảng viên được
Người chỉ rừ, đó là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Ở đây, sự thống nhất giữa
tri thức khoa học và tỡnh cảm cỏch mạng là yờu cầu tất yếu của người cán bộ, đảng
viên. Vỡ thế, người cán bộ, đảng viên phải cần có thế giới quan duy vật đúng đắn và có
phẩm chất đạo đức cách mạng, nó thống nhất và tác động lẫn nhau. Chính việc bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng tạo điều kiện cho việc hỡnh thành cỏc phẩm
chất đạo đức cách mạng trong sáng.
Như vậy, việc thấm nhuần thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp người cán
bộ, đảng viên có được những phẩm chất đạo đức cách mạng, giúp họ hiểu biết sâu sắc
sự nghiệp cách mạng của dân, do dân và vỡ dõn. Mặt khỏc, đối với người cán bộ, đảng
viên yêu cầu đạo đức cách mạng phải cao hơn quần chúng. Trước hết là ý thức, niềm tin

và ý chí quyết tâm cao với đường lối chính trị, với mục tiêu độc lập, tự do, dân giàu,
nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Từ đó giúp họ có thái độ tôn trọng
nhân dân, gần dân, tỡm hiểu, sõu sỏt nhõn dõn, tuyờn truyền vận động nhân dân thực

hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đầu tàu gương mẫu trước quần
chúng nhân dân, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Trong cuộc
sống và công việc, nếu người cán bộ, đảng viên nêu được gương sáng về đạo đức cách
mạng bằng hành động, việc làm cụ thể, thiết thực thỡ đó là sự thuyết phục hiệu quả nhất
đối với quần chúng nhân dân, từ đó tập hợp được quần chúng trên con đường xây dựng
đất nước.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay cần phải có một đội ngũ cán bộ, đảng viên
tương xứng, ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đặt ra. Trong công tác xây dựng Đảng,
công tác giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên có tầm quan trọng
hàng đầu. Bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên phải hướng vào việc đổi mới tư duy và
nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Đổi mới tư duy trước hết là đổi mới trong thế
giới quan, không ngừng bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng, đổi mới nhận thức
về chủ nghĩa xó hội dưới ánh sáng của thực tiễn, thể hiện sự nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ năm: Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở cho cán bộ, đảng viên quyết
tâm khắc phục những phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan, xây dựng quan hệ xó
hội mới tốt đẹp.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cú vai trũ to lớn trong việc hỡnh
thành và phỏt triển tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên, giúp họ có khả năng giải thích
những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách khách quan và khoa học. Thực tiễn
nước ta, chế độ phong kiến tồn tại lâu đời cùng với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, đó
để lại những phong tục, tập quán lạc hậu, nạn ma chay, cưới hỏi kéo dài, trọng nam
khinh nữ… chưa được đẩy lùi.
Chế độ phong kiến Việt Nam dựa trên nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
tồn tại hàng ngàn năm đó xõy dựng cho nú một trật tự. Đó là trật tự phản
nhân đạo, nghiệt ngó. Nú mang đặc điểm hoài cổ, cực kỳ bảo thủ và trỡ trệ,

×