Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

sang kien kinh nghiem tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.67 KB, 43 trang )

LỜI CẢM ƠN
Mặc dù bản thân tôi mới được bổ nhiệm về trường THCS Mường
Chùm công tác chưa được lâu song với bản thân tôi tự nhận thấy vấn đề
xây dựng bài giảng có ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tại
nhà trường là vấn đề cần thiết, và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Được
sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu, tổ
chuyên môn, các đồng chí cán bộ giáo viên và các đoàn thể trong trường
THCS Mường Chùm bản thân tôi đã cảm nhận được sự tạo điều kiện của
các cấp lãnh đạo và các đoàn thể.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn của nhà trường và vốn kiến thức của
bản thân cũng như những vấn đề cấp thiết trong việc Ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy đáp
ứng với yêu cầu hiện nay, bản thân tôi mạnh dạn xây dựng đề tài “Ứng
dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy học
ở trường THCS Mường Chùm".
Trong quá trình nghiên cứu tôi luôn nhận được sự quan tâm của Ban
giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn, các đồng chí cán bộ giáo viên và các
đoàn thể trong nhà trường. Cho phép tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các đồng chí trong Ban giám hiệu cùng toàn thể các đồng chí cán bộ giáo
viên, cán bộ công nhân viên trong nhà trường đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong thời gian nghiên cứu tại trường.
Mặc dù bản thân đã có rất nhiều cố gắng song đề tài cũng không tránh
khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ dẫn, bổ xung của
các đồng chí trong Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trong hội đồng sư phạm
nhà trường để nội dung nghiên cứu được hoàn thiện và mang lại hiệu quả
cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
1
MỤC LỤC
Mục Trang
Lời cảm ơn……………………………………………………………….1


A. PHẦN MỞ ĐẦU 3
I. Lí do chọn đề tài 3
II. Mục đích nghiên cứu 9
III. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………….9
IV. Phương pháp, biện pháp nghiên cứu 10
V. Đối tượng nghiên cứu 11
VI. Phạm vi nghiên cứu 11
VII. Ý nghĩa thực tiễn…………………………………………………11
B. NỘI DUNG ………………………………………………………… 12
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”…………………
II. Cơ sở thực tiễn:………………………………………………………
III. Vị trí, chức năng công nghệ thông tin trong dạy - học.
IV. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
V. Một số biện pháp để dạy học có hiệu quả hơn trong bậc THCS
Biện pháp 1: Ngoài kiến thức chuyên môn giáo viên cần phải trang bị những kiến
thức Tin học cơ bản nhất:
Biện pháp 2: Một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện giáo án điện tử
Biện pháp 3: Khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
giảng
Biện pháp 4: Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy
Biện pháp 5: Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến
Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
……
Biện pháp 7: Sử dụng các phần mềm nguồn mở thay cho các phần mềm bản

quyền………………………………………………………………………………………

VI. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các biện pháp
KẾT LUẬN
2

KIẾN NGHỊ
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Lý do khách quan
a. Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
*) Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền
thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email
mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),

* ) Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người tham
gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới thật. Ví dụ
những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông qua máy tính
nối mạng để buôn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có
3
thể tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà không phải tốn một đồng học
phí, mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo lớp học thật. Một học sinh ở Hà
Nội có thể thông qua một hệ thống học trực tuyến để theo học một thầy giáo ở tận
TP HCM. Một thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh.

Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẽ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
*) Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có
nhiều ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng”
(tên một cuốn sách nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang tiếng Việt)
nơi mà tất cả mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị
trí địa lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới này, các hoạt động có
thể diễn ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người tham gia. Các kết quả mà thế giới
ảo đạt được có thể không bao giờ làm được trong thế giới thật (ví dụ xây dựng thư
viện trực tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới thật,
ví dụ thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không cần nhân
viên tiếp thị phải đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học, lớp học, đồ dùng
dạy học, v.v hay các diễn đàn hội thảo không cần hội trường, chi phí đi lại ăn ở cho
các đại biểu v.v
4
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể
thay thế, mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát
triển mạnh mẽ và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ đọc báo điện
tử, nghe nhạc trực tuyến ). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải
nhanh chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt
hậu.

Trong thời đại của chúng ta, sự bùng nổ CNTT đã tác động lớn đến công cuộc
phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của tin học và CNTT, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh
của ứng dụng CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa
và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
*) Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không
nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã
hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
5
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Thực hiện chủ đề năm học của Bộ giáo dục và của Sở giáo dục và đào tạo,
nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp

dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới
phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ
thông trong một vài năm tới, tôi đã mạnh dạn học tập và đưa CNTT vào giảng dạy
hai năm nay.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề
mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình
trong các năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải
pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.
b. Tác dụng của CNTT trong dạy học ở bậc THCS:
Môn Tin học ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến
thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường
dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, …
Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao
động hiện đại như:
+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.
+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.
6
+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động
xã hội hiện đại.
+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.
+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập.
+ Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội.
*) Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm
Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn
bản để soạn thảo giải những bài toán, bài văn đã học ở các môn học khác.
+ Phần mềm sử dụng bảng tính: Học sinh ứng dụng từ các môn học như toán,
vật lý để tính toán một cách nhanh chóng, chính xác.
+ Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ

thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ.
+ Phần mềm tập gõ bàn phím bằng mười ngón tay Mario: Giúp HS luyện tập
cách làm việc với bàn phím một cách chuẩn xác nhanh chóng và hiệu quả cao.
+ Trong chương trình tin học THCS thì một số bài học được phân bố xen kẽ
giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo
trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau
những giờ học căng thẳng ở lớp …
2. Lý do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
7
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của nghành giáo dục, sự
ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn
nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại
hiệu quả đúng với vai trò của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường THCS Mường
Chùm. Mặc dù trình độ giáo viên của trường đạt trên chuẩn cao, số ít vẫn dạy theo
phương pháp truyền thống, nặng về phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử
dụng phương pháp mới mà đặc biệt là việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy là việc làm hết sức khó khăn đối với trường.
Tuy cơ sở vật chất nhà trường khá đầy đủ có phòng máy tính phục vụ cho giảng dạy,
nhưng chưa được kết nối Internet phục vụ cho học sinh, chỉ có 1 máy ở văn phòng
được kết nối Internet phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên. Tuy nhiên do sự đam

mê của bản thân và học sinh lớp phụ trách nên bản thân đã bước đầu mạnh dạn ứng
dụng CNTT từng bước phục vụ cho giảng dạy và học tập .
Trong các năm học tới phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa và đó cũng là yêu cầu cấp thiết của đổi mới
trong nghành giáo dục, trong công tác quản lý và dạy học ở các trường THCS.
Xuất phát từ những cơ sở đó tôi mạnh dạn xây dựng đề tài “Ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy học ở trường
THCS Mường Chùm”.
8
II. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học.
- Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy và việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Hình thành những kĩ năng cơ bản khi thực hành trên máy tính và biết vận
dụng phương pháp dạy học mới trong giảng dạy
- Luôn say mê và nghiên cứu công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy.
- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực
tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp.
- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng
trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp
dạy học.
- Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên
khi sử dụng giáo án điện tử để dạy học.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
- Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi soạn giáo án điện tử
- Những yêu cầu cơ bản để soạn được một giáo án điện tử.
- Xây dựng quy trình soạn giáo án điện tử
- Đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong dạy học, đề xuất một số

biện pháp nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học và đẩy mạnh phong
trào ứng dụng CNTT trong năm học mới.
IV. Phương pháp, biện pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, tôi vận dụng
kết hợp các phương pháp sau:
9
1. Phương pháp điều tra:
- Tổng hợp điều tra về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài
trong các giờ học có ứng dụng CNTT
- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).
- Sử dụng bảng biểu đối chiếu.
- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
- Tận dụng tối đa các buổi học thực hành để các em được làm quen và luyện
tập thật tốt các bài học lý thuyết.
2. Xây dựng tư liệu:
- Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương
đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin
tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần
mềm, khai thác hình ảnh tĩnh, động,…
3. Xây dựng giáo án điện tử:
- Tập huấn công nghệ thông tin cho giáo viên: Tổ chức các lớp bồi dưỡng
công nghệ thông tin và phương pháp giảng dạy.
- Khuyến khích động viên giáo viên tích cực ứng dụng CNTT (soạn giáo án
điện tử) và vận dụng vào giảng dạy
- Thực hành trên máy
- Tập huấn phương pháp dạy học
- Dự giờ, xem băng hình
- Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm
V. Đối tượng nghiên cứu
- Môn Tin học khối 6, 7.

- Học sinh khối 6, 7 trường THCS Mường Chùm - Mường La - Sơn La
VI. Phạm vi nghiên cứu:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lớp học trong trường THCS
Mường Chùm
10
VII. ý nghĩa thực tiễn:
Tổng kết đưa ra một số kinh nghiệm để cải tiến phương pháp dạy học bằng ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học thông qua các bài giảng giáo án điện tử.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
- Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTg ngày 9/12/2000 về
việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp
dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào
dạy và học.
- Thông tư số 14/2002/TT-BGD&ĐT ngày 1/4/2002 về việc hướng dẫn quán
triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông.
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh
ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.
Chỉ thị 29 nêu rõ : “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra
một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương
pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng
CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và
học tập ở tất cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ
nay đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền
thông giai đoạn 2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng

CNTT vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”
11
- Chỉ thị 08/203 của Bộ bưu chính viễn thông, ngày 02/06/2003 : “Đưa
Internet đến tất cả các trường đại học, cao đẳng, THCN, THPT trên phạm vi cả nước
và kết nối tới các trường THCS và TH ở những nơi có điều kiện”
II. Cơ sở thực tiễn:
* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyên đề ở trường THCS
Mường Chùm - Mường La - Sơn La.
1. Thuận lợi:
* Nhà trường:
- Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều
kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết
bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.
- Được sự ủng hộ của các cấp Uỷ Đảng - UBND - Các ban ngành.
* Giáo viên:
- Giáo viên được đào tạo chuẩn chuyên ngành về Tin học để đáp ứng yêu cầu
cho dạy và học môn Tin học trong bậc THCS.
* Học sinh:
Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới
nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.
Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên
cũng có những thuận lợi nhất định đối với môn học.
2. Khó khăn:
Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu,
do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên đa số học
sinh thực hành vẫn còn chưa được thuần thục.
12
Đa số các em là con em dân tộc thiểu số nên còn viết sai chính tả nhiều, nói
ngọng nhiều. Khả năng đọc, nói Tiếng anh còn hạn chế gây khó khăn trong quá trình
học tập.

Điện lưới trong khu vực yếu gây khó khăn trong các giờ thực hành.
III. Vị trí, chức năng công nghệ thông tin trong dạy - học.
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
13
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.
IV. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các
giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát

hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT.
Trong tổ chuyên môn đa số giáo viên mới nên ngoài việc hoàn thiện về chuyên
môn bên cạnh đó còn phải trang bị cho bản thân những kiến thức Tin học về các
phần mềm ứng dụng trong giảng dạy. Mặc dù đã bước đầu soạn giảng nhưng kinh
nghiệm xử lí còn nhiều hạn chế.
14
Thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt,
đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực.
Có một số nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên. Chưa
chắt lọc được phần kiến thức nào thì dùng phần mềm để hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc, tiếp cận định lý
chưa biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point,
Sketchpat, . . .
Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt
nhưng cho làm bài toán có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn.
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng

máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay
Từ khá sớm, các trường học trên nhiều tỉnh thành đã bắt đầu đưa công nghệ thông
tin vào giảng dạy. Hầu hết các trường đều có phòng máy tính riêng. Tuy nhiên, những
trang thiết bị này thường chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn Tin học (chỉ
là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý
hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất
nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của công
nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ
giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như: Toán, Vật lý,
Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một
tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo
trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo
15
án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học
sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các
cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Ở các
tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng
dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các "Sách giáo khoa điện tử" không tỏ ra nổi trội hơn
SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó triển khai rộng được vì Internet ở VN
còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố
gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy với người chắc

chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy
V. Một số biện pháp ®Ó d¹y häc cã hiÖu qu¶ h¬n trong bËc THCS
1. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
16
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm

trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác
được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học), hay
có khả năng cập nhật các thông tin mới
ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
17
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
học phải là một phòng máy tính nối mạng
Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
có máy tính riêng và những phần mềm
chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).

Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để
làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
đại học và những người đã đi làm.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay
như dùng Powerpoint, Violet để thiết
kế bài giảng và dạy học dùng máy
chiếu. Những kết quả thu được là rất
đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
Thơ,
Các công cụ tạo bài giảng cho CBT gọi
là các Authoring Tools như là
Powerpoint, Violet, Impress, Author-
ware
Các công cụ tạo bài giảng cho e-learning
thì tuân theo một chuẩn chung để đưa lên
mạng, trong đó nổi tiếng nhất là chuẩn

SCORM.
18
2. Các giải pháp thực hiện.
1. Tham mưu cùng Tổ chuyên môn và Ban giám hiệu, đề nghị các cấp quản lí
giáo dục tạo điều kiện trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện GAĐT như
máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector), nối mạng Internet cho phòng
bộ môn tin học.
2. Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu
ứng trong PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế
GAĐT cho mình.
3. Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc
sử dụng GAĐT, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập
khác nhau.
4. Tham gia các buổi thao giảng, hội thảo, tập huấn để thu nhận những góp ý
chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp
mới.
5. Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực
chất chất lượng của các em.
Tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về
kiến thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài giảng điện tử để
thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy.
19
3. Các biện pháp cụ thể:
Biện pháp 1: Ngoài kiến thức chuyên môn giáo viên cần phải trang bị
những kiến thức Tin học cơ bản nhất:
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rải, chưa thực sự phổ
biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẻ giúp người thầy
đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với

cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, … )
- Biết cách truy cập Internet
- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
- Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các
bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
20
có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
không dùng nữa? Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẳn trên giấy và được trình
bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003 , hiện nay đã có
PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW ( Toán ), GraphCalc
(Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) … Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy

nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ
trong một tiết toán “ Đồ thị hàm số y = ax
2
+ b (a≠0)” đại số lớp 9 thay vì giáo viên
hay học sinh lên bảng lập bảng giá trị và vẽ đồ thị hàm số thì bây giờ trên màn hình
lớn hiện ra công thức và bảng giá trị, học sinh chỉ cần thảo luận tại chổ và trả lời
( phần mềm PowerPoint 2003) và vẽ đồ thị (phần mềm GSP), tiết toán hình học lớp 8
“hình lăng trụ , hình chóp” thay vì giáo viên vẽ trên bảng hay trên bảng phụ thì bây
giờ hiện trên màn hình với những hình rõ nét và chuyển động theo không gian (Cabri
,GEOSPACW, GraphCalc,Geometer’s Sketchpad)… .Với môn Lịch sử khi dạy về
các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên diển thuật các trận đánh dựa trên
bảng đồ vẽ sẳn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn các trận đánh sẽ diễn
ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào. …
21
Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẻ cảm nhận và khắc
sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian vẽ hình, không mất thời
gian xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh ……
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các
hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng ( văn bản, hình ảnh, )
được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng
chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái,
dòng chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo
viên (GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic
hay PowerPoint hay ViOlet sẻ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả
trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiện được thời

gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh
của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lảnh thổ của các nước trên thé giới,……Nếu
chỉ trình bày suông, tôi nghĩ rằng cũng chỉ có vấn đề gì cả. Nhưng tại sao khi chúng
ta đã chấp nhận làm GAĐT thì lại không làm bài tập phong phú hơn. Hiện tai những
hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối nhiều trên
Internet mà hiện tại nhà trường đã có mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ
một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần
minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với
việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên
không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ
sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sữa ảnh
22
…. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV cần phải có
chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẻ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
có một tiết học thoải mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hổ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.

Biện pháp 2: Một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện GAĐT
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống ( thầy giảng- đọc trò ghi hay thầy vừa giảng
vừa ghi – trò chép) sang việc giảng bài bằng GAĐT (ƯDCNTT trong dạy học), hầu
hết các giáo viên ở trường nói chung và tổ Tự nhiên nói riêng trong đó có tôi thường
mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẻ trình bày
những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai
lầm vì như thế HS sẻ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở
rộng các kiến thức ngoài.
23
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài
giảng.Tùy theo từng môn học, chúnh ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh
họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin
học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo
viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả
của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng
nên luu ý về số lượng chữ, màu sắt, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt
vấn đề mình muồn trình bày một cách rỏ ràng, dể hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm
vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide.
Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định
xem slide tiếp theo sẻ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa
giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa giáo án truyền thống được lảng quên. Chúng ta hãy
nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng là
tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa
văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được
giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời

gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới có thể nhớ hết nội dung đã
chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy
thì vấn đề trên sẻ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục
kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày
sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy
là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày
hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lai, chúng ta phải kết hợp đề cương này
cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn
băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này.
24
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người thầy và giải
quyết ở ba khâu: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép.
Mỗi lớp học có trung bình từ 30 - 40 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy
GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời
để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những
học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên
màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu,
giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình
thức sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi
trang trình diễn
- Về màu sắc của nền hình:
Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh.Cần tuân
thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm,
đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì
chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
- Về Font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục

có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh
ghi vào vở…)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Times Roman,…) hạn chế dùng
các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×