Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các phương pháp điều trị sẹo lồi (Kỳ 2) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.13 KB, 6 trang )

Các phương pháp điều trị sẹo lồi
(Kỳ 2)


1. Điều trị nội khoa
a. Tiêm Steroid
Corticosteroid có tác dụng ức chế alpha 2-macroglobulin, một chất có tác
dụng ức chế collagenase. Một khi chu trình này bị ngăn chặn, lượng collagenase sẽ
tăng và do đó sẽ làm thoái hóa collagen.
- Áp dụng cho những sẹo lồi nhỏ, thường dùng nhất là tiêm Triamcinolone
acetonide (10-40 mg/ml). Vùng da được tiêm thuốc có thể bị mất sắc tố và tình
trạng này kéo dài 6 – 12 tháng; có thể gặp chứng teo và giãn mao mạch xung
quanh chỗ tiêm. Phải thực hiện đúng kỹ thuật, đâm kim và bơm Triamcinolone
vào đến tận lớp nhú bì, nơi tạo ra chất collagenase. Không nên tiêm Steroid vào
mô dưới da vì có thể làm teo lớp mỡ bên dưới.
- Có thể tiêm lặp lại vài lần cách nhau mỗi 1-2 tháng tùy theo diễn tiến của
sẹo lồi và các tác dụng phụ có thể xảy ra cho bệnh nhân hay không.
- Phương pháp này có thể được kết hợp với các phương pháp khác như áp
Nitrogen lỏng hoặc dán Silicon gel để tăng thêm hiệu quả.
b. Điều trị bằng Interferon
Interferon-alpha & gamma ức chế tổng hợp collagen bằng cách khử
Ribonucleic acid thông tin nội bào. Sẹo lồi được phẫu thuật cắt bỏ và tiêm
Interferon sau đó để ngừa tái phát. Liều lượng tiêm là 1 triệu đơn vị vào mỗi
centimét chiều dài da xung quanh vị trí sẹo ngay sau khi phẫu thuật, và tiêm nhắc
lại 1 đến 2 tuần sau đó. Đối với những bệnh nhân phải cắt bỏ nhiều sẹo lồi hoặc
những sẹo lồi lớn, việc điều trị bằng Interferon sẽ rất tốn kém và bệnh nhân phải
được tiền mê bằng Acetaminophen để điều trị những triệu chứng giống bệnh cúm
do Interferon gây ra.
c. Điều trị bằng 5-flurouracil
Liệu pháp tiêm chất 5-flurouracil (5-FU) vào sẹo đã được dùng một cách
thành công trong điều trị những sẹo lồi cô lập, nhỏ. Trung bình sau 5-10 lần tiêm


mới đạt hiệu quả. Nếu tiêm hỗn hợp 0,1 ml Triamcinolone acetonide 10 mg/ml và
0,9 ml 5-FU (50 mg/ml) kết quả sẽ tốt hơn.
d. Điều trị bằng Imiquimod:
Imiquimod 5% dạng kem gây sản xuất tại chỗ Interferon tại nơi bôi thuốc.
Nên bắt đầu bôi Imiquimod ngay sau khi cắt bỏ sẹo lồi và bôi hằng ngày liên tục
trong 8 tuần. Hơn 50% bệnh nhân bị tăng sắc tố tại chỗ điều trị.
e. Các phuơng pháp điều trị trị nội khoa khác:
- Băng keo Flurandrenolide (Cordran) được dán trên sẹo lồi trong 12-20 giờ
một ngày thường làm cho sẹo lồi mềm dần và phẳng lại. Cordran còn có tác dụng
làm vết sẹo hết ngứa. Dùng lâu dài có thể gây teo da.
- Bleomycin (1mg/ml; 0,1-1 ml) được tiêm trực tiếp vào sẹo để điều trị
những sẹo lồi nhỏ. Thuốc có thể làm thoái triển hoàn toàn vài sang thương.
-Thuốc mỡ hoặc gel Clobetasol, bôi hai ngày một lần, có thể làm mềm
và/hoặc làm phẳng sẹo lồi,giúp bệnh nhân hết ngứa, hết cảm giác đau hay khó
chịu do sẹo lồi. Dùng lâu dài thuốc sẽ gây mất sắc tố, teo da và giãn mạch.
- Tacrolimus là một thành viên mới trong các trang bị điều trị sẹo lồi. Một
nghiên cứu phát hiện có sự tăng gen ung thư gli-l (glioma-associated oncogene
homolog 1) trong các sẹo lồi nhưng trong các mô sẹo bình thường thì không có
hiện tượng này. Vì Tacrolimus có thể ngăn chặn gen gli-1 nên đượcứng dụng điều
trị sẹo lồi. Cần có những nghiên cứu lâu dài và lớn hơn để xác định hiệu quả của
liệu pháp này.
- Methotrexate kết hợp với cắt bỏ sẹo phòng tránh được sự tái phát. Cho
người bệnh uống 15-20 mg Methotrexate mỗi lần, 4 ngày bắt đầu từ tuần trước
phẫu thuật và liên tục trong 3-4 tháng sau khi vết cắt lành.
- Pentoxifylline (Trental) 400 mg 3lần/ngày cũng khá thành công trong dự
phòng tái phát sẹo lồi đã cắt. Cơ chế tác động của thuốc chưa được hiểu đầy đủ,
nhưng có thể do tuần hoàn tăng, quét sạch những yếu tố tăng trưởng nguyên bào
sợi.
- Colchicine đã được dùng để điều trị và dự phòng tái phát sẹo lồi bằng
cách ức chế tổng hợp collagen, phá vỡ các vi ống, và kích thích collagenase.

- Vì kẽm bôi ngoài da ức chế Lysyl oxidase và kích thích collagenase, nên
được dùng để điều trị sẹo lồi, nhưng thành công còn hạn chế.
- Tretinoin bôi 2 lần / ngày làm giảm ngứa và những triệu chứng khác của
sẹo lồi, có thể làm thoái triển sẹo lồi một phần nào.
- Một số thuốc khác đã được thử nghiệm nhưng thành công còn hạn chế
hoặc tỷ lệ nguy cơ/lợi ích còn đáng ngờ là Verapamil, Cyclosporine, D-
penicillamine, Relaxin tiêm vào sẹo lồi.
2. Điều Trị ngoại khoa
Được chỉ định khi sẹo lồi không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác
hoặc sang thương quá lớn. Các bác sĩ sẽ cắt bỏ sẹo và khâu kín, ghép da với mảnh
da ghép toàn phần hay ghép da mỏng để giảm lực căng trên toàn bộ da được khâu.
Trước khi cắt bỏ sẹo lồi, bác sĩ sẽ lưu ý đến những nguy cơ chính đi kèm với sự tái
phát của sẹo lồi:
a. Tiền sử gia đình về sẹo lồi;
b. Chỗ phẫu thuật bị nhiễm trùng;
c. Vị trí phẫu thuật trên cơ thể (nhất là giữa ngực và vai);
d. Loại chấn thương gây ra sẹo (bỏng do nhiệt hoặc hóa chất);
e. Căng da trong thời kỳ hậu phẫu;
f. Da sậm màu nhóm 4-6 theo phân loại Fitzpatrick.
Tỷ lệ tái phát cho thủ thuật cắt bỏ sẹo lồi đơn giản không kèm những biện
pháp phụ trợ hậu phẫu dao động từ 50 – 80%.

×