Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Các phương pháp điều trị co lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.82 KB, 4 trang )

Các phương pháp điều trị co lợi

Co lợi hay tụt lợi, tụt nướu là quá trình lộ bề mặt chân răng do sự di
chuyển về phía chóp chân răng của lợi. Tụt lợi là điềm báo trước sự mất
cement chân răng (xương ổ chân răng), lộ ngà, tăng cảm giác và giảm thẩm
mỹ. Hiện nay có nhiều phương pháp hiệu quả điều trị co lợi, trong đó phải kể
đến nhiều nhất là phẫu thuật ghép tổ chức liên kết dưới biểu mô, sau đó là
ghép lợi tự do và sử dụng vạt tại chỗ.
Co lợi gây ra hậu quả
gì?
Co lợi do nhiều nguyên
nhân gây ra, có thể là do chải
răng sai kỹ thuật nhưng cũng
có thể do bệnh lý như viêm
lợi, viêm quanh răng... hoặc
cũng có thể tổn thương lợi do
virut. Một số răng có vùng lợi
bám dính hẹp, nếu vùng lợi
bám dính này giảm đi do co lợi sẽ không còn lợi che phủ và bảo vệ cổ răng, cổ
răng và chân răng sẽ bị mòn do sang chấn từ bàn chải và thức ăn vì xương ổ răng

mặt ngoài thường mỏng, loại bàn chải và kỹ thuật chải răng sẽ quyết định mức độ
mòn tổ chức cứng của răng. Ngoài ra, lợi tụt làm hở chân răng, đối với các răng
cửa và răng nanh sẽ giảm thẩm mỹ.
Các phương pháp điều trị co lợi hiệu quả
Phương pháp ghép tổ chức liên kết dưới biểu mô
Khi thực hiện phương pháp này, vùng co lợi sẽ được sát khuẩn bằng
betadin pha loãng với nước muối. Gây tê tại chỗ bằng lidocaine 2%.
Vùng nhận tổ chức (vùng co lợi) được tạo vạt bao gồm hai đường rạch:
đường rạch nhú lợi và đường rạch rãnh lợi. Vùng co lợi được nạo sạch tổ chức hạt,
mảng bám, cao răng, phần mềm còn sót lại sau khi lật vạt. Vùng co lợi được đo


kích thước bằng dụng cụ đo có vạch (periodontal probe) sao cho đường viền vùng
nhận nằm tiếp giáp rìa men răng, đường viền đối diện nằm quá mào xương ổ răng
khoảng 3 mm, đường viền gần và xa nằm quá ranh giới hở chân răng 3mm. Vùng
cho tổ chức cũng được sát khuẩn và gây tê tại chỗ. Dùng dụng cụ đo đánh dấu
vùng cho tổ chức trong khoảng từ răng nanh tới mặt gần răng số 6, cách bờ lợi 3 -
5mm, đánh dấu 3 đường rạch: 1 đường rạch song song bờ lợi, 2 đường rạch vuông
góc bờ lợi, rạch và bóc tách lấy tổ chức liên kết theo kiểu mở miệng túi ở vùng
hàm ếch đã đánh dấu: dùng lưỡi dao 15 bóc lớp tổ chức biểu mô và tổ chức liên
kết dày 1,5mm. Tiếp tục bóc lớp tổ chức liên kết bên dưới bằng lưỡi dao 15 và cây
bóc tách, bóc một lớp dày đồng đều khoảng 1,5mm, nếu không đủ dày có thể bóc
cả màng xương, miếng ghép sau khi lấy ra được đặt lên gạc nước muối sinh lý.
Miệng túi được khâu bằng chỉ polypropylen mũi rời và khâu treo sau khi phẫu
thuật vùng nhận mảnh ghép kết thúc.
Vùng nhận mảnh ghép được chuẩn bị để nhận mảnh ghép như sau: Bề mặt
chân răng hở được làm phẳng ngang mức với xương ổ răng bằng mũi khoan hoàn
tất. Bề mặt chân răng hở được bôi axit citric bão hòa trong 5 phút sau đó rửa sạch
bằng nước muối sinh lý. Miếng tổ chức liên kết được đặt lên vùng nhận, khâu chỉ
polypropylene mũi rời và mũi treo quanh cổ răng để cố định mảnh ghép, lật vạt
phần mềm tại chỗ phủ tối đa miếng ghép rồi khâu mép vạt lợi. Ép gạc nước muối
lên vùng phẫu thuật trong khoảng 3 phút để tránh khoảng chết phía dưới mảnh
ghép và khoảng chết giữa mảnh ghép và vạt lợi. Đặt xi măng nha khoa che phủ
vùng phẫu thuật.
Ghép vạt tổ chức liên kết dưới biểu mô có những ưu điểm sau: có thể áp
dụng cho co lợi đơn lẻ và co lợi nhiều răng, áp dụng được cho các trường hợp co
lợi hẹp (nhỏ hơn 3mm) và co lợi rộng (hơn 3mm), không phụ thuộc vào độ sâu
ngách lợi, không phụ thuộc vào tổ chức phần mềm lân cận. Tuy nhiên loại vạt này
có nhược điểm là kỹ thuật phức tạp hơn các phương pháp khác vì phải bóc một lớp
tổ chức liên kết ở vùng hàm ếch, thời gian phẫu thuật kéo dài hơn các phương
pháp khác.
Sau phẫu thuật, người bệnh cần chú ý:

Để tránh va chạm có thể làm bong vạt lợi và mảnh ghép: bệnh nhân phải ăn
mềm trong 1 tuần, không chải răng vào vùng phẫu thuật trong 2 tuần đầu tiên, chỉ
làm sạch nhẹ nhàng bằng tăm bông và nước betadin pha loãng với nước muối sinh
lý phun rửa qua bơm tiêm. Từ tuần thứ 2, bệnh nhân chải răng nhẹ nhàng bằng bàn
chải rất mềm. Bệnh nhân khám vào ngày thứ 2, 7, tháo băng nha chu và cắt chỉ
vào ngày thứ 7. Uống thuốc kháng sinh, giảm đau, chống phù nề trong 1 tuần theo
chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa.
Phương pháp dùng vạt tại chỗ
Đây có thể là vạt xoay hoặc vạt đẩy. Nguyên tắc là dùng phần mềm ở bên
cạnh che phủ chân răng bị hở. Phương pháp phẫu thuật được minh họa (xem hình
trên).
Phương pháp ghép lợi tự do
Phương pháp này sử dụng một mảnh niêm mạc vòm miệng để che phủ chân
răng co lợi.
ThS. Lê Long Nghĩa(Đại học Y Hà Nội)

×