Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận Kinh tế Braxin ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.34 KB, 31 trang )

Tiểu luận
Kinh tế Braxin
I – Sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế ở Braxin:
Giới thiệu các con đường phát triển theo quan điểm tăng
trưởng và phát triển kinh tế:
Có 3 con đường phát triển kinh tế khác nhau: nhấn mạnh tăng trưởng
nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng,công bằng xã hội; phát triển toàn diện.
 Con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh:
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa
trướcđây thường lựa chọn con đường này. Chính phủ đã tập trung
chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ qua
các nội dung xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng
cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu
nhập đã đạt được một trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều quốc
gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh tế rất nhanh
khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất cao. Tuy
vậy, theo sự lựa chọn này, những hệ quả xấu đã xảy ra: Một mặt,
cùng với quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế,
chính trị, xã hội ngày càng găy gắt, các nội dung về nâng cao chất
lượng cuộc sống thường không được quan tâm, một số giá trị văn
hóa, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần phong mỹ
tục tốt đẹp của nhân dân bị phá hủy. Mặt khác việc chạy theo mục
tiêu tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh chóng dẫn đến sự cạn kiệt
2
nguồn tài nguyên quốc gia, hủy hoại môi trường sinh thái, chất lượng
tăng trưởng kinh tế không đảm bảo và vi phạm những yêu cầu phát
triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo ra lực cản cho sự
tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. Sự phát triển kinh tế của các
nước Braxin, Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia,
Indonesia đi theo sự lựa chọn này
 Mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng công bằng xã hội:


Mô hình này lại đưa ra yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội
ngay từ đầu trong điều kiện thực trạng tăng trưởng thu nhập ở mức
độ thấp. Các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa được quan tâm và thực hiện
theo phương thức dàn đều, bình quân cho mọi ngành, mọi vùng và
các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây là mô hình khá nổi bật của các
nước đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây, trong đó có cả Việt
Nam. Theo mô hình này các nước đã đạt được một mức độ khá tốt về
các chỉ tiêu xã hội. Tuy vậy, nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết
cho sự tăng trưởng nhanh, mức thu nhập bình quân đầu người thấp,
nền kinh tế lâu khởi sắc và ngày càng trở nên tụt hậu so với mức
chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường chỉ đạt cao về mặt số
lượng mà có thể không bảo đảm về chất lượng.
 Mô hình phát triển toàn diện:
Theo mô hình này, chính phủ các nước, một mặt đưa ra các
chính sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm
giầu, phát triển kinh tế tư nhân và thực hiện phân phối thu nhập theo
sự đóng góp nguồn lực; Mặt khác, cũng đồng thời đặt ra vấn đề bình
đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư. Hàn
Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo sự lựa chọn này.
1. Braxin lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo mô hình “tăng
trưởng nhanh”:
3
 Braxin là một nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú,có
các mỏ sắt, măng-gan, bốc-xít, kền, chì, crôm,vàng,. . .với trữ lượng lớn lại
có đất đai khí hậu hết sức thuận lợi nên cả nông nghiệp và công nghiệp của
Braxin đều có khả năng phát triển.
Thời kì sau chiến tranh thế giới thứ hai phong trào đấu tranh đòi
dân chủ, chống độc tài, đòi cải thiện đời sống và bảo vệ chủ quyền
dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc của các tầng lớp nhân dân Braxin

đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ và
các lực lượng phản động đại biểu cho giai cấp tư sản mại bản và giai
cấp địa chủ Braxin hết sức lo sợ và điên cuồng chống lại. Âm mưu
của chúng là thiết lập một chính quyền phản động độc tài, đàn áp,
khủng bố mọi phong trào dân chủ yêu nước tiến bộ, buộc Braxin vào
các kế hoach gây chiến xâm lược của Mỹ ở Tây Bán Cầu. Các tập
đoàn quân sự độc tài thay nhau cầm quyền: Bran-cô(1964-1966),
Xin-va(1966-1969), Mê-đi-xi(1969-1974) và Giây-xen(từ tháng 3
năm 1974), để theo đuôi một đuờng lối đối nội và đối ngoại cực kì
phản động nhằm phục vụ quyền lợi của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và các
tập đoàn tư bản Braxin.
Giới cầm quyền Braxin dựa vào sự ủng hộ của Mỹ, đã biến
Braxin thành một nhà nước với chính quyền tư sản mại bản, quân
phiệt, độc tài bao trùm cả nước với một lực lượng rất đông
đảo.Braxin mở rộng cửa đón tư bản nước ngoài trước hết là Mỹ vào
đầu tư,bóc lột tàn bạo và vơ vét thả cửa các nguồn tài nguyên giàu có
của đất nước.
Theo quan điểm tăng trưởng và phát triển kinh tế nhằm phục vụ thiểu
số(giới cầm quyền) đã loại trừ đa số( tầng lớp nhân dân). Kết quả: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhưng vấn đề bình đẳng công bằng xã hội và nâng
cao chất lượng cuộc sống dân cư bị bỏ qua.
4
II – Quá trình phát triển kinh tế Braxin theo con đường
tăng trưởng nhanh:
1. Giai đoạn phát triển từ năm 1960 đến 1980:
 Sự tăng trưởng nhanh về kinh tế:
Braxin là một trong những nước có trình độ phát triển nhất ở châu
Mỹ la tinh: do đất đai,khí hậu hết sức thuận lợi,nên nông nghiệp của
Braxin phát triển khá phong phú. Sản lượng cà phê đứng hàng đầu
trên thế giới, ngô đứng hàng thứ hai, ca cao đứng thứ ba và bông

đứng thứ năm …(năm 1972).ngành chăn nuôi của Braxin cũng phát
triển mạnh do có nhiều đồng cỏ, thung lũng. Braxin có trên 200 triệu
gia súc, là nguồn cung cấp chủ yếu cho ngành công nghiệp thực
phẩm. Năm 1971,ngành nông nghiệp chiếm 20 % tổng sản phẩm
quốc dân, điều đó đã nói lên rằng, mặc dù Braxin có nền kinh tế công
nghiệp khá phát triển, song sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một vị
trí đáng kể trong nền kinh tế quốc dân.
Braxin có nhiều tài nguyên phong phú, có những mỏ sắt, măng
–gan, bốc-xít, kền, chì, crôm, vàng, tung-xten, đồng, than đá, dầu mỏ
với trữ lượng khá lớn. Do đó công nghiệp khai thác chiếm một vị trí
quan trọng trong nền kinh tế. Ngoài công nghiệp khai thác, ngành
công nghiệp nặng của Braxin còn có công nghiệp xe hơi, đóng tầu
khá phát triển. Mặc dù trong các ngành công nghiệp tiêu dùng, tư
bản bản xứ nắm các khâu sản xuất và làm chủ nhà máy, nhưng thiết
bị máy móc và một số nguyên liệu vẫn phải dựa vào tư bản nước
ngoài. Nền ngoại thương cảu Braxin tiến hành trao đổi chủ yếu với
các nước tư bản Anh, Mỹ, cộng hòa liên bang Đức, Nhật Bản, ý, Hà
Lan …ngoài ra Braxin còn trao đổi kinh tế với Liên Xô và một số
nước xã hội chủ nghĩa khác.
Braxin xuất khẩu nhiều nhất là cà phê (hàng năm chiếm chừng
40% giá trị hàng xuất khẩu) rồi đến quặng sắt, bông, đường, ngô, ca
5
cao và nhiều loại gỗ quý. Trị giá hàng xuất khẩu hàng năm xê dịch từ
2,5 tỷ đến 3 tỷ Đô la, hàng nhập khẩu chủ yếu của Braxin là bột mì,
máy móc và phụ tùng thay thế cho ngành công nghiệp nặng, hóa
chất, dầu thô … trị giá hàng nhập khẩu hàng năm xấp xỉ trên dưới
3,5 tỷ Đô la.
Trong vòng từ năm 1966 đến năm 1976, nền kinh tế Braxin đã
có những thay đổi rõ rệt. tốc độ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân
như sau: từ 1959 đến 1969 trung bình năm tăng 5,9%; năm 1972

tăng 10.8%; năm 1973 tăng 11.4%; năm 1974 tăng chừng 9%.
Chính dựa trên các con số trên, giới cầm quyền Mỹ và Braxin
trong những năm 70 đã làm rùm beng lên về cái gọi là sự “thần kì
kinh tế của Braxin”, về “kiểu mẫu phát triển chủ nghĩa tư bản công
nghiệp Braxin”, về “hiện tượng kì lạ của nền văn minh nhiệt đới” …
 Nếu chỉ căn cứ vào những chỉ số phát triển kinh tế trên đây thì thấy
có sự gia tăng khá nhanh chóng trong tổng sản phẩm quốc dân cũng như
trong nhiều lĩnh vực công nghiệp của Braxin. Nhưng thực chất của sự thần
kì đó không như các giới cầm quyền Braxin khẳng định; trong thực tế nó đã
gắn liền với những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội đối với Braxin.
Trước hết sự gia tăng kinh tế trong những năm 70 của Braxin
không có gì là “ thần kì” là “hiện tượng kì lạ” không giải thích nổi,
nếu so sánh nó với nhiều nước Á, Phi và Mỹ la tinh khác về tốc độ
phát triển hoặc trình độ sản xuất công nghiệp. Nó càng không phải là
hiện tượng “ nhảy vọt đột biến” mà chỉ là nằm trong quá trình công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu ở Braxin từ những năm 30,
hay nói đúng hơn từ nửa sau những năm 40 và đầu những năm 50
với sự lớn mạnh của tầng lớp đại tư sản Braxin.
Điều chủ yếu của sự thần kì đó là các giới cầm quyền phản
động ở Braxin, nhất là các tập đoàn quân sự độc tài lên nắm chính
quyền từ tháng 4 năm 1964, đã theo đuổi một đường lối kinh tế thu
6
hút sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản nước ngoài vào Braxin nhằm tạo
nên một sự phát triển nhanh chóng, đỡ tốn kém nhất cho chúng, đồng
thời duy trì sự áp bức và bóc lột nặng nề đối với quần chúng nhân
dân, tăng cường chế độ phát xít khủng bố và thủ tiêu mọi quyền tự
do dân chủ trong nước.
Với đường lối đó các tập đoàn cầm quyền Braxin đã mở đường
cho tư bản nước ngoài mặc sức cướp bóc vơ vét, biến Braxin thành
thị trường tiêu thụ , một nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ

mạt. Chính quyền Braxin đã đưa ra những ưu đãi về đặc quyền, đặc
lợi hết sức béo bở mà các công ty tư bản độc quyền nước ngoài ít khi
giám mơ tưởng tới. Chẳng hạn các công ty nước ngoài kinh doanh ở
Braxin sẽ được giảm hoặc miễn thuế, đảm bảo không bị quốc hữu
hóa, không sợ công nhân bãi công, lại có thể tự do bán sản phẩm ra
nước ngoài hoặc nhập vào Braxin toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, và
được tự do chuyển lợi nhuận về nước. Các công ty Mỹ ở Braxin lại
còn được hưởng cái gọi là hiệp nghị trao quyền “ hải ngoại”, tức là
trong trường hợp một công ty nào đó của Mỹ bị quốc hữu hóa thì sẽ
được chính quyền Braxin bồi thường theo luật pháp nước Mỹ, chứ
không phải theo luật pháp Braxin. Đồng thời, các nhà cầm quyền lại
thi hành chính sách “ ướp lạnh” tiền lương, duy trì mức lương rất
thấp và thậm trí còn bảo đảm không có sự tăng lương ở Braxin. Rõ
ràng đối với bọn đế quốc, Braxin là một ốc đảo đem lại cho chúng
những lợi nhuận siêu ngạch, chắc chắn và tương đối ổn định. Chính
vì vậy, số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng
ở Braxin: năm 1960 khoảng 3,6 tỷ đô la, trong đó 1,4 tỷ đô la của
Mỹ; đến tháng 7 năm 1974 là 5,1 tỷ đô la; cộng hòa liên bang Đức :
586 triệu; Nhật Bản 430 triệu; Canađa 362 triệu; Anh 349 triệu; Pháp
207 triệu. Tính đến năm 1969, ở Braxin có tới 498 công ty nước
7
ngoài và 36 chi nhánh nước ngoài hoạt động. 510 xí nghiệp lớn nhất
là thuộc tư bản nước ngoài. Các công ty nước ngoài đã thao túng và
kiểm soát những lĩnh vực kinh tế quan trọng, ảnh hưởng rất to lớn
đến sự phát triển kinh tế của Braxin. Theo báo cáo của Ngân hàng
trung ương Braxin năm 1970 thì 82,5% nền kinh tế Braxin nằm trong
tay tư bản nước ngoài. Riêng tư bản độc quyền Mỹ đã chiếm 70,2%
sản xuất công nghiệp, 90% ngành hóa chất dầu lửa, 67,8% giao
thông vận tải, 55% dược phẩm và hầu như toàn bộ ngành lắp ráp xe
hơi, đóng tàu, sản xuất máy công cụ, xuất khẩu nông phẩm và quặng.

Năm 1971, 33,8% hàng xuất khẩu của Braxin là của các công ty
nước ngoài; năm 1973 tăng lên 43,3%; trong khi hàng xuất khẩu của
nhà nước giảm từ 27% xuống còn 15%. Các công ty tư bản nước
ngoài nhất là Mỹ, chẳng những ráo riết bành trướng dưới hình thức
các công ty hỗn hợp câu kết với tư bản bản xứ, mà còn xâm nhập cả
vào khu vực kinh tế của nhà nước Braxin.
Rõ ràng là sự “ thần kì” của nền kinh tế Braxin chính là sự gia
tăng thế lực của các công ty tư bản nước ngoài, trước hết là của Mỹ
cùng với sự tăng cường và mở rộng đầu tư kinh doanh của tư bản
Braxin. Hậu quả tất yếu của sự thần kì đó là Braxin ngày càng lệ
thuộc nặng nề vào chủ nghĩa tư bản đế quốc quốc tế, và nhân dân
Braxin bị bóc lột nặng nề hơn, cuộc sống của họ lại trở nên bi đát và
thảm hại hơn. Chính tờ báo MỸ bưu điện Oa- sinh-tơn (năm 1976)
đã viết: “ những con số gần đây nhất cho thấy 80% những người
Braxin có lương thấp nhận được 27,5% tổng sản phẩm quốc dân năm
1970, so với 35% trong những năm 60. Trong khi đó, số 5% những
người giầu nhất trong cùng thời gian này đã tăng thu nhập của mình
từ 44% lên 50%”. Một tờ báo Thụy Điển đã mô tả rõ ràng hơn: 2,8
% số dân được cải thiện cuộc sống, 7,2% duy trì được mức sống có
8
thể chấp nhận được và 90 % lâm vào tình trạng nghèo khổ ngày càng
tệ hại. Con số 500.000 việc làm công nghiệp mới được tạo ra trong
những năm 1970 là không đáng kể nếu đem với con số 2 triệu người
di trú mới nhập thêm vào các thành phố để tìm công ăn việc làm,
chưa kể số cư dân của các thành phố bị thất nghiệp phải tìm lại việc
làm và sự gia tăng dân số ở ngay bên trong bản thân các đô thị. Với
một số dân chiếm 29% tổng số dân cả nước, vùng Nordeste có
46.6% số gia đình mà thu nhập chỉ bằng hơn một nửa, tiền lương tối
thiểu (25 đôla mỗi tháng), và tuổi thọ trung bình của dân trong vùng
chỉ là 53 so với tuổi thọ trung bình cả nước là 63.

Ở nông thôn, tình trạng chiếm hữu ruộng đất của giai cấp đại
địa chủ hết sức trầm trọng: Bọn đại địa chủ chỉ chiếm 2,2% số dân ở
nông thôn nhưng đã chiếm tới gần 60% đất đai mầu mỡ. 80% nông
dân không có ruộng đất buộc phải làm việc với đồng lương 10 đô la
một tháng.
Trong khi đó nạn thất nghiệp ở thành thị ngày càng trở nên trầm
trọng. Năm 1976 trên cả nước Braxin có tới 40% tổng số người lao
động thất nghiệp thường xuyên và đông đảo để kìm giữ tiền lương
của công nhân ở mức thấp nhất. Đại bộ phận công nhân Braxin chỉ
chiếm được những đồng lương chết đói.
Một hình ảnh khác của “sự thần kì” là tình trạng phát triển
không đều một cách ghê gớm của Braxin, mà tai họa cuối cùng là
chút lên đầu nhân dân lao động . Trong khi ở Braxin có những nhà
máy sản xuất hầu như hoàn toàn tự động thì 25 triệu người ở miền
Bắc vẫn sử dụng những phương tiện thô sơ trong sản xuất . Trong
khi đã bắt đầu xây dựng những nhà máy điện nguyên tử , bàn đến sản
xuất máy tính điện tử và cả việc chế tạo bom nguyên tử thì 39% số
dân Braxin còn mù chữ ( một trong những tỉ lệ lạc hậu nhất ở lục địa
Nam Mỹ). Phần lớn trẻ em đến tuổi không được đi học và chỉ có 1%
9
số học sinh đi học là lên được tới đại học. Trong khi những chương
trình đồ sộ được đề ra như xây dựng đường xe điện ngầm ở Xan pao
lu, Ri-ô, đê Gia nây rô, Bằc cầu Ni-tê-roi qua vịnh Gu-a-na-ba-ra,
mở đường xuyên Amadôn dài 2290 km thì tình trạng y tế lại hết sức
khủng khiếp: 50 triệu dân Braxin mắc bệnh giun sán, 6 triệu người
mắc bệnh lao, 70% số dân không đủ chất dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong
cao nhất so với các nước khác ở Mỹ la tinh. Tuổi thọ trung bình của
Braxin năm 1976 chỉ là 37 tuổi, trong khi ở Mỹ la tinh nói chung là
50, ở liên xô là 70. Trong khi Braxin nổi tiếng với những thành phố
vừa đông dân nhất châu Mỹ la tinh, lại vừa rất hiện đại được liệt vào

loại kiến trúc đẹp nhất thế giới với những khu nhà chọc trời, những
biệt thự, những khách sạn lộng lẫy, thì Braxin cũng lại nổi tiếng với
những khu nhà ổ chuột tạo nên những vành đai nghèo khổ bao quanh
các thành phố. Đó là nơi cư chú của những người nghèo khổ nhất
được dựng từ các tấm bìa, các mảnh ván hòm và hoàn toàn không có
những tiện nghi công cộng tối thiểu. Hai phần ba số việc làm và ba
phần tư số giá trị sản lượng công nghiệp trong năm 1980 đều khu trú
trong vùng Sudeste và nếu cộng thêm cả vùng Sud nữa, thì cả hai
khu vực này chiếm 86% tổng số việc làm và 89% tổng giá trị sản
lượng công nghiệp cả nước.
Nền kinh tế và tình hình xã hội Braxin rõ ràng là một bức tranh
đầy mâu thuẫn. cái gọi là sự thần kì kinh tế của Braxin chính là sự lệ
thuộc nặng nề của đất nước vào chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế,
là sự đói nghèo, dịch bệnh khủng khiếp của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động. vì lẽ đó một bài báo phương tây đã mỉa mai là : “
một sự thần kì rỗng tuếch với những con số lừa bịp”, và đưa lên một
hình ảnh “ Braxin một tên khổng lồ bị xích chặt vào đế quốc Mỹ”
10
Trong giai đoạn 1967-1973, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm đã vượt trên con số 11%, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp
cao tới 13%. Một bước tới trời, Brazil khi ấy bước thẳng lên vị trí nền kinh
tế mạnh thứ 8 thế giới. Điều đáng tiếc là, vấp phải cuộc khủng hoảng dầu
thô năm 1973 và nối tiếp sau đó là khủng hoảng trái phiếu, khủng hoảng
kinh tế do lạm phát bùng phát, Brazil chưa kịp cất cánh bao lâu đã rơi rụng,
trở thành đại diện điển hình “mười năm tụt hậu” của Mỹ Latinh.
 Bài học chủ yếu cho Brazil.
Thứ nhất, tăng trưởng không thể chỉ là giúp một số ít người thu lợi.
Thời kỳ “kỳ tích” những năm 60 và 70 của thế kỷ trước cũng là thời kỳ
phân hoá giàu nghèo ở đây diễn ra đặc biệt sâu sắc. Xã hội có thể duy trì
được ổn định chỉ bởi được đặt dưới tầm khống chế của một chính quyền

quân sự. Lúc bấy giờ, nếu các vấn đề xã hội hay vấn đề dân sinh không
được xử lý tốt, sự ổn định xã hội chắc chắn vẫn sẽ bị đe doạ và khả năng
trỗi dậy một lần nữa hoàn toàn chỉ là viễn tưởng.
11
Thứ hai, phải phát huy vai trò của cơ chế thị trường kết hợp với sự
tham gia có hiệu quả của chính phủ để tạo dựng môi trường đầu tư thuận
lợi, duy trì cạnh tranh công bằng, khống chế có hiệu quả nguồn đầu tư nước
ngoài, xử lý kịp thời những nguy hiểm trong các lĩnh vực như tài chính.
Kinh tế mở mang đến một trình độ nhất định đều buộc phải bước vào giai
đoạn thu hẹp. Trong tình hình đó, đúng ra Brazil cần thực hiện điều chỉnh
kinh tế thông qua quá trình giảm tốc tăng trưởng. Nhưng lựa chọn của
chính phủ đương nhiệm lại là bằng con đường phát hành trái phiếu vay
nước ngoài, tuy việc làm này duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nhưng nó
lại dẫn tới những vấn đề nghiêm trọng chủ yếu là từ những gánh nặng và
trách nhiệm đi kèm các khoản vay và kết cục đẩy nền kinh tế Brazil vào
cuộc khủng hoảng trái phiếu vào thập kỷ 80 của thế kỷ 20.
Nhiều chuyên gia cho rằng, bước thăng trầm của kinh tế Brazil giai đoạn
này là một kinh nghiệm quý báu cho lần trỗi dậy mới này của kinh tế hiện
nay và đồng thời nó cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự trỗi dậy ấy.
2. Brazil những năm từ 1980- 1994
Những năm 1980 là thời kì khó khăn của Brazil,do nước này đã vay
nợ nước ngoài rất nhiều trong những năm 70.Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng
hàng năm là 400%.Tỷ lệ trao đổi đối với hàng xuất khẩu trong thập niêm
đó ở mức âm,tiền lương thực tế giảm trung bình 3%.Đồng tiền của Brazil
bị phá giá.Trong những năm 1990,nước này phát triển mô hình kinh tế mở
của tự do.Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế bị bãi bỏ thông qua tư
nhân hoá ngân hàng và các ngành thuộc sở hữu nhà nước.
Bảng số liệu về tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người:
12
Năm 198

4
198
5
198
6
198
7
198
8
198
9
199
0
199
1
199
2
19
93
GDP/người(
USD)
154
7
164
5
193
8
209
4
229

9
306
8
296
1
256
8
247
7
28
36
Dưới đây là biểu đồ về GDP/người từ năm 1984-1993
Ta có bảng số liệu về tổng sản phẩm trong nước :
13
bảng số liêu về tốc độ tăng GDP
năm 1985 1986 1987 1990 1991 1992 1993 1994 1995
tốc
độ
tăng
GDP
8.3 7.7 7.1 -2.4 0.4 -0.9 4.2 5.8 4.2
14
Ta có tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát được cho dưới bảng sau:
. Tỉ lệ lạm phát ở Bra-xin, 1981 đến 1997
Năm Tỷ lệ Tỉ lệ lạm phát
1981 100%
1982 100%
1983 138%
1984 192%
15

1985 226%
1986 147%
1987 228%
1988 629%
1989 1.430%
1990 30.377%
1991 400%
1992 1.020%
1993 1.929%
1994 2.076%
1995 66%
1996 16%
tỷ lệ thất nghiệp:
16
Năm 198 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
tỷ lệ
thất
nghiệp
2.4 3.6 3.8 3.0 3.7 - 6.5 5.3 5.1 4.6
Như vậy từ năm 1981-1994,tỷ lệ lạm phát của Brazil đều có xu hướng tăng
với tốc độ khá nhanh,tuy nhiên tù năm 1992- 1995,tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ
lạm phát đã được giảm xuống.Điều này cho thấy chính sách của Brazil có
tác động tích cực tới nền kinh tế.
Sở dĩ từ năm 1992 đến nay,nền kinh tế phát triển khá ổn định vì nước này
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, phát triển một nền kinh tế khai mỏ và
xuất khẩu nông sản,buôn bán gỗ,kim cương…,sau đó là sự phát triển của
ngành công nghiệp chế tạo máy, luyện kim.Tuy vậy, sự bất bình đẳng cũng
được bộc lộ rõ ràng: năm 1994 có tổng dân số là 64 triệu dân nhưng có tới
43% dân số và 2/3 số việc làm trong ngành công nghiệp chế biến. Nghèo
khổ tồn tại rõ rệt ở Favelas của Riode Janeiro, trong khi Saopaulo lại tập

trung nhiều giai cấp thượng lưu.
Nếu tính theo GDP bình quân đầu người ( theo sức mua tương đương ) thì:
20% người nghèo nhất của Brazil là 578 $,trong khi 20% những người giàu
nhất có GDP bình quân là 18563$( thời kỳ từ năm 1980-1994).Chỉ số HDI
năm 1990 là: 0.759 đứng thứ 60 trên thế giới,và năm 1994 là 0.786 đứng
thứ 68. Trong khi: chỉ số vai trò của phụ nữ (GEM), và chỉ số phát triển
liên quan đến giới (GDI) là:
Năm GEM GDI
1992 0.358 (xếp thứ
58)
0.709(xếp thứ
53)
1994 0.377(xếp thứ 0.728(xếp thứ
17
58) 60)
Dưới đây là biểu đồ hệ số Gini của Brazil so với Nam Phi
3. Nền Kinh Tế Brazil Trong Giai Đoạn 1994 – 2009 .
Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát,
Brasil đã thực thi một chương trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch -
Plano Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào tháng 7 năm
1994 . Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm
1993, đã giảm rõ rệt, ở mức thấp 2,5% vào năm 1998. Cụ thể : lạm phát
năm 1994 là 2076% năm 1995 chỉ còn 66% , năm 1996 là 16% , năm 1997
là 7% và đến năm 1998 như đã nói – 2.5% . Tuy nhiên Sự phát triển của
18
Brazil trong vài năm ấy không phải là công trình của Chính phủ mà là hệ
quả của hiện tượng đô thị hóa và sự bùng nổ nền kinh tế thị trường. Chính
phủ đã không kiểm soát được sự bùng nổ đó để rồi cuối cùng phải đầu hàng
dẫn đến hậu quả . Tỷ lệ thất nghiệp hiện lên tới 25%. Giáo dục bị thả nổi.
Rồi chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 , và bùng

nổ vào 2 năm sau . Tháng 1 năm 1999 , đồng Real mất giá 37% , sau khi bị
phá giá , ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên 37% . Giá cả leo thang ,
IMF đã đề nghị tăng lãi suất ngân hàng lên tới 70% . Cũng trong năm 1999
, Brazil đã nợ nước ngoài tới 244 tỷ đôla Mỹ , tương đương 46% GDP . Dù
khi đó , chính phủ Brazil đã cố gắng thực hiện rất nhiều biện pháp như tăng
thuế , thắt chặt chi tiêu chính phủ , nhưng cuối cùng cũng không ngăn được
thâm hụt ngân sách lên tới 6-7% trong thập niên 1990 . Thêm nữa , nước
này bắt đầu phải đối mặt với tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai bắt đầu
manh nha từ 1995 . Tới 1998 , thâm hụt tài khoản vãng lai lên tới con số
chóng mặt : 4.2% GDP . Trong năm thứ 2 liên tiếp , Brazil không còn nhận
được các dòng tiền từ bên ngoài bù đắp cho khoản thâm hụt này . Chính vì
vậy , trong các năm 1997 và 1998 , chính phủ Brazil đã phải trích ngân
sách ra để trang trải .
Tình trạng này kéo dài cho đến năm 2001 , nền kinh tế Brazil mới
tạm thời ổn định trở lại , tuy vậy cũng chỉ là dậm chân tại chỗ thậm chí ,
còn tụt lùi , 1 ví dụ minh chứng là Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm
2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001.
Năm 2002, những dự đoán rằng ứng cử viên tổng thống nhiều triển
vọng Luis Inácio Lula da Silva, sẽ từ chối thanh toán nợ, gây ra một cuộc
khủng hoảng niềm tin sâu sắc khiến nền kinh tế giảm sút tăng trưởng. Tuy
nhiên, khi đã trúng cử Lula tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế của
người tiền nhiệm. Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình
kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm phát và tìm kiếm thặng dư nhằm
19
đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định . Có lẽ đây cũng là lí do
mà trong giai đoạn từ 2002-2005 , sự phát triển của Brazil là không ổn định
. Cụ thể : GDP 2002 đạt 2.7% , song tới năm 2003 lại chỉ còn 1.1% , còn
thấp hơn so với năm 2000 . Tới năm 2004 , GDP tăng đột biến , từ 1.1%
lên tới 5.7% . Nhìn vào các số liệu trong những năm này , ta có thể thấy
được sự bấp bênh , không ổn định trong nền kinh tế Brazil tại thời điểm

này . Nó làm cho Mức tăng trưởng kinh tế của Brasil thấp hơn các nước
Mỹ Latinh khác và hai cường quốc mới nổi Ấn Độ , Trung Quốc. Brasil đã
tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh tranh của diễn đàn kinh tế
thế giới trong giai đoạn 2003 – 2005 .
Vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, cho nên năm 2005, GDP của
Brazil tăng không đạt mức dự kiến (3,5%), mà chỉ tăng 2,6%, đạt 619,7 tỷ
USD, so với 604,6 tỷ USD năm 2004. Các chuyên gia Liên hiệp quốc cho
rằng, đây là mức tăng thấp nhất năm 2005 trong số 24 nền kinh tế thị
trường đang nổi lên hiện nay.
Đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng GDP của Brazil là khu vực dịch
vụ - 50,6%; sau đó là khu vực công nghiệp - 39,4%, còn nông nghiệp -
10%.
Các nhà phân tích kinh tế Brazil cho biết, sở dĩ kinh tế Brazil không
đạt mục tiêu tăng trưởng dự kiến chủ yếu là do tình hình tài chính trong
nước bất ổn; giá dầu mỏ thế giới leo thang liên tục, ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế nhiều nước trong đó có Brazil. Một trong những yếu tố quan
trọng gây bất ổn thị trường tài chính tín dụng là khủng hoảng chính trị nội
bộ đã làm cho lạm phát năm qua tăng cao hơn dự kiến.
Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp cổ truyền
và cũng là biện pháp thường dùng ở các nền kinh tế - nâng dần lãi suất chỉ
20
đạo (lãi suất của Ngân hàng trung ương) - ổn định trong tháng 5, tháng
6/2005 là 19,75%. Đây chính là thời điểm phát hiện một số quan chức cao
cấp của nhà nước phạm tội ăn hối lộ, tham nhũng. Từ tháng 8/2005 lãi suất
giảm dần và tới tháng 12/2005 chỉ còn 17,75%, tương đương mức lãi cuối
năm 2004.
Mức lãi suất này tuy có làm giảm tốc độ tăng GDP, nhưng lại góp
phần tránh được tình trạng nâng giá sinh hoạt quá mức, tránh được những
hậu quả xấu trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhờ vậy kiềm chế được giá ở
mức cho phép. Kết quả là lạm phát năm 2005 giảm được 0,8% so với năm

2004, còn 6,8% so với 7,6% năm 2004 và 9,3% năm 2003.
Dù sao chăng nữa, chính sách lãi suất của Ngân hàng trung ương áp
dụng trong năm 2005 vẫn là đối tượng bị phê phán và tranh luận quyết liệt
về sự hợp lý của việc thực hiện chính sách lãi suất cao.
Theo nhiều nhà kinh tế nổi tiếng Brazil, chính sách lãi suất ấy chẳng
những không góp phần làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính quốc gia, mà
còn là nguyên nhân giảm thu nhập kinh tế, không hấp dẫn các nhà đầu tư
trong nước, làm giảm (14,8%) vốn đầu tư vào phát triển kinh tế.
Mặc dù vậy, năm 2005, Chính phủ vẫn chỉ đạo Ngân hàng trung
ương hoạt động tốt, đến cuối năm nâng được dự trữ vàng và ngoại tệ lên
53,7 tỷ USD so với 52,7 tỷ USD năm 2004 - thu thuế đạt 35,91% GDP so
với 24,08% GDP năm 2004 và 23,06% GDP năm 2003. Số thu tuyệt đối về
thuế là 372,5 tỷ Real so với 352,5 tỷ Real năm 2004.
Tăng được như vậy (5,65%) một phần là do kinh tế năm 2005 phát
triển (GDP tăng 2,6%), phần khác là do chính sách thuế được chấp hành
nghiêm túc ở cả người thu thuế, lẫn người nộp thuế, đặc biệt phải nói đến
lĩnh vực các công ty công nghiệp - ở khu vực này năm 2005, thuế nộp cho
21
ngân sách nhà nước tăng 13,57%, đạt 12,9 tỷ Real so với 11,4 tỷ Real năm
2004. Ngoài ra, so với năm 2004, năm 2005 thuế thu nhập cá nhân, thuế
bảo đảm xã hội (trích một phần lợi nhuận) nộp ngân sách liên bang cũng
tăng - tương ứng là 22,47% và 20,60%.
Đầu năm 2005 Brazil áp dụng Luật thuế chứng khoán thu vào những cổ
phiếu niêm yết, tiêu thụ ở các sở giao dịch chứng khoán. Mức thuế này là
0,005% tổng giá trị cổ phiếu tiêu thụ được.
Tăng thuế thu nộp ngân sách nhà nước là một trong những nhiệm vụ ưu
tiên hàng đầu của Chính phủ Brazil hiện nay để có tiền trả nợ nhà nước.
Nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước và sự chấp hành nghiêm túc các luật
thuế của dân cư và các doanh nghiệp, cho nên năm 2005, ngân sách nhà
nước lại bội thu, cao hơn năm trước, đạt 52,48 tỷ Real (tương đương 2,72%

GDP), so với 46,34 tỷ Real năm 2004.
Vấn đề quan trọng trong năm 2005, theo kế hoạch của Chính phủ, là phải
giảm dần nợ nhà nước bằng các nguồn thu nội bộ nền kinh tế và từ nước
ngoài như kim ngạch xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư thông qua mua cổ phiếu
của các công ty Brazil vì hiện nay Chính phủ Brazil nợ trong nước và nước
ngoài khá lớn. Riêng khoản nợ nội bộ nền kinh tế (nợ trong nước) năm
2005 không kể lãi tương đương là 51,7% GDP, hay 1.157 nghìn tỷ Real;
còn nợ nước ngoài, cũng theo Bộ Tài chính nước này, vào cuối năm 2005
là 80 tỷ USD.
Ở Brazil, chỉ số rủi ro tín dụng (EMBZ) được áp dụng từ năm 1994, được
dùng làm cơ sở để đánh giá khả năng tiêu thụ (hay hấp dẫn các nhà đầu tư)
của các trái phiếu nhà nước Brazil trên thị trường thế giới. Cuối năm 2005,
chỉ số này và mức độ hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài đối với các cổ phiếu
và trái phiếu của Brazil, theo đánh giá của các nhà đầu tư Mỹ “JP Morgan”
22
là thấp nhất trong 21 năm qua (kể từ ngày áp dụng chỉ số này) - chỉ đạt 323
điểm so với 382 điểm năm 2004.
Về vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào khu vực Mỹ Latinh năm
2005, Brazil thu hút được 15,5 tỷ USD, thấp hơn so với Mexico (17,1 tỷ
USD), nhưng lại cao hơn Argentina (chỉ có 5 tỷ USD) và Chile (7 tỷ USD).
Các nước và khu vực đầu tư nhiều nhất vào Brazil là Mỹ và EU, tiếp đến là
Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Đức.
Sở dĩ năm 2005, FDI vào Brazil giảm 14,8% so với năm 2004 (18,2 tỷ
USD) chủ yếu là do tình hình chính trị nước này bất ổn, nhiều quan chức
trong bộ máy công quyền, kể cả cao cấp, bị tố giác ăn hối lộ, tham nhũng.
Báo giới Đông - Tây đều cho rằng, một quốc gia trên dưới trong bộ máy
công quyền đều coi thường phép nước, đua nhau tham nhũng, ăn hối lộ, xã
ắc tắt sẽ có ngày nổi loạn. Và như vậy, nếu đầu tư vốn vào quốc gia này thì
có thể lợi bất cập hại.
Năm 2005, Brazil vẫn thi hành chính sách nâng cao vị thế của hàng

hoá nước mình trên trường quốc tế. Nhờ vậy doanh số ngoại thương đạt
mức cao nhất trong lịch sử ngoại thương của nước này - đạt 191,8 tỷ USD,
trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 118,3 tỷ USD, nhập khẩu đạt 73,5 tỷ
USD; chênh lệch là 44,8 tỷ USD, tăng 20,3% so với năm 2004. Tuy nhiên,
năm qua Brazil đứng thứ hai thế giới sau Mỹ về số vụ kiện lên WTO trong
việc giải quyết các hợp đồng mua bán hàng hoá đã thoả thuận, nhưng bị vi
phạm. Ví dụ, Brazil kiện Mỹ hạn chế nhập sản phẩm gia cầm, mía đường,
đã ký hợp đồng mua của Brazil. Còn Mỹ kiện lên WTO về những sản phẩm
nước ngoài bán phá giá trên thị trường Mỹ, làm nhiều công ty, doanh
nghiệp bị mất việc làm, sa thải công nhân.
23
Cơ sở trong chính sách ngoại thương của Brazil vẫn là ưu tiên phát triển
quan hệ kinh tế thương mại với Mỹ, EU và Nhật Bản vì đây là những thị
trường lớn, đầy tiềm năng trong việc nhập hàng của Brazil. Tuy nhiên,
Brazil cũng khuyến khích toàn diện các quá trình liên minh kinh tế khu vực
Nam Mỹ, đặc biệt trong khối MERCOSUR. Ngoài ra, Brazil giờ đây cũng
đã mở rộng quan hệ buôn bán với một số thị trường mới nổi ở các châu lục,
trong đó phải kể đến Trung Quốc, Ấn Độ và Cộng hoà Nam Phi.
Trong các vòng đàm phán thành lập vùng mậu dịch tự do toàn châu
Mỹ, Brazil vẫn giữ nguyên tắc thận trọng, phải bình đẳng về mọi điều kiện
đối với các nước tiềm năng tham gia thị trường này.
1Bảo đảm ổn định xã hội để phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Tổng thống
Lula da Silva. Nhờ vậy năm 2005 thất nghiệp giảm còn 0,9% so với 11,5%
năm 2004; lương tối thiểu được nâng lên là 300 Real so với 260 Real năm
2004. Nhưng lương bình quân thực tế lại bị giảm 0,8% so với năm trước.
Tuy nhiên, tiêu dùng cá nhân vẫn ở mức cao, vì tăng công ăn việc làm
(1,6%) và tăng thu nhập.
Lạm phát đã được kiềm chế, cho phép giảm lãi suất từ tháng 9/2005,
do vậy, khuyến khích vay đầu tư phát triển sản xuất. Nhờ hoàn thiện chính

sách thuế và hoạt động tích cực của bộ máy thu thuế, ngân sách nhà nước
năm qua bội thu tương đương 4,7% GDP, nhiều hơn dự kiến 0,63%.
Vài năm trở lại đây, kinh tế quốc dân của Brazil phát triển ổn định
với tốc độ cao. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng của kinh tế là 5,4%, GDP đạt
1504,7 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 7.950 USD, tỷ lệ lạm phát là
4,36%, dự trữ ngoại tệ đạt 197,9 tỷ USD (tính cho đến cuối tháng 5/2008).
24
Nhiều chuyên gia cho rằng, một nền kinh tế đặc sắc và sáng tạo có ý nghĩa
to lớn đối với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước này. Cho tới
nay, ấn tượng của nhiều người khi nghĩ tới Brazil vẫn còn dừng lại ở hình
ảnh một quốc gia sản xuất nhiều cà phê, đá quý, quặng sắt. Thực tế, kinh tế
Brazil đã sớm mang nhiều tiêu chí mới khác.
Brazil sớm tận dụng lợi thế là nước có sản lượng mía số một thế giới để sản
xuất cồn, nước này hiện là nhà sản xuất cồn lớn thứ hai trên thế giới và nhà
xuất khẩu đứng đầu thế giới, chiếm vị trí quán quân tuyệt đối về khai thác
nhiên liệu sinh học. Điểm khác biệt so với Mỹ là ở chỗ, nhiên liệu sinh học
Brazil sử dụng có nguồn vật liệu là mía đường chứ không phải là ngô,
không gây tác động làm tăng giá lương thực toàn cầu.
Đồng thời, Brazil cũng cho ra đời một loạt các công ty có tầm ảnh hưởng
quốc tế như hãng công nghiệp hàng không Brazil, công ty dầu mỏ Brasil
Petrobras, công ty Vale do Rio Doce (nhà sản xuất và xuất khẩu quặng sắt
số 1 thế giới)…
Gần đây, những tin tức từ lĩnh vực năng lượng và xây dựng hạ tầng đang
trở thành tâm điểm phát triển mới của Brazil. Từ tháng 11 năm ngoái tới
tháng 5 năm nay, công ty dầu mỏ Brasil Petrobras đã lần lượt công bố phát
hiện các mỏ dầu cực lớn ở duyên hải phía đông nam là Tupi và Capioca
trong đó trữ lượng dầu thô và trữ lượng khí thiên nhiên của mỏ Capioca
ước tính có thể đạt tới 33 tỷ thùng, là mỏ dầu có trữ lượng lớn thứ 3 của thế
giới. Điều này càng trở nên cực kỳ ý nghĩa giữa lúc giá đặt hàng dầu thô
trên thế giới có lúc đã lên đến đỉnh, đạt mức 150 USD mỗi thùng.

Giang Thời Học, viện phó Viện nghiên cứu Mỹ La tinh - Viện Khoa
học xã hội Trung Quốc cho hay, “giá dầu ở mức cao, phát hiện được mỏ
dầu khác nào phát hiện cây rung tiền”. Cùng lúc đó, Brazil còn phát hiện
25

×