Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Giáo dục với chức năng kinh tế sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.08 KB, 4 trang )

Chức năng kinh tế của giáo dục
Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng
tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình
xã hội mà con người là chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối
với các quá trình xã hội xét về mặt xã hội học được gọi là những
chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng xã hội của
giáo dục : Chức năng kinh tế - sản xuất, chức năng - chính trị xã
hội và chức năng tư tưởng - văn hoá.
Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt.
a) chức năng kinh tế-sản xuất
Giáo dục xuất hiện từ khi có con người, tồn tại và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lao động dù đơn
giản đến đâu cũng cần có sự huấn luyện để con người biết lao
động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng
hiện đại càng đòi hỏi sự đầu tư vào huấn luyện nhiều hơn.
Mối liên hệ giữa giáo dục và sản xuất đươc hình thành trên sức
lao động. Sức lao động xã hội chỉ tồn tại trên nhân cách con
người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất của con người, vì
vậy giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất ra sức lao
động xã hội. Giáo dục góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Giáo
dục tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ thuật, có kỹ năng
nghề nghiệp, phát triển kinh tế sản xuất.
Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao
động mới, đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều
nguyên nhân. Bằng con đường truyền thông, giáo dục phát triển ở
con người những năng lực chung và năng lực riêng biệt, giúp con
người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi
việc làm, góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng.
Giáo dục tham gia vào chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp


nông thôn. Bằng con đường truyền thông, giáo dục giúp mọi
người nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Như vậy, giáo dục góp phần phát triển kinh tế sản xuất.
Giáo dục thông qua con đường truyền thông, tham gia vào
chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình. Giáo dục giúp cho
mọi người nhận thức đúng đắn về dân số, sức khỏe sinh sản,
giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng Cao chất lượng cuộc sống, chất
lượng giống nòi, góp phần phát triển sản xuất.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, chất lượng giáo dục gắn
liền với chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Muốn nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng hóa thì giáo dục phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Trong thời đại phát triển như bão táp của khoa
học và công nghệ, nhân loại đang chuyển sang nền văn minh tin
học, điện tử, sinh học. Khoa học-công nghệ đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền
với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với sự phân công lao
động và hợp tác quốc tế. Giáo dục không phải là yếu tố phi sản
xuất, giáo dục là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của sản xuất
xã hội. Không thể phát triển lực lượng sản xuất nếu như không
đầu tư thỏa đáng cho nhân tố con người, nhân tố hàng đầu của
lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất
mới xã hội chủ nghĩa nếu như không nâng cao trình độ dân trí,
doanh trí, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ và nhân dân.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, không một quốc gia nào muốn phát triển
lại đầu tư ít cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế hiện
nay là cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, chạy đua về giáo
dục đào tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khóa 8 đã nhấn
mạnh: “ Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách, nhận thức sâu

sắc giáo dục - đào tạo cùng khoa học công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục
là đầu tư cho sự phát triển.” Để làm tốt chức năng này giáo dục
đào tạo phải xây dựng được một xã hội học tập tạo điều kiện cho
mọi người có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chính vì
vậy, giáo dục phải thực sự đi trước đón đầu thúc đẩy phát triển
kinh tế sản xuất.
Tóm lại : Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi
giáo dục phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ
nhân lục lao động có trình độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của
nền sản xuất đó.
1. Về mạng lưới trường, lớp
Mạng lưới trường lớp của Bắc Ninh được quy hoạch theo hướng:
Đảm bảo đủ các loại hình trường học để học sinh từ mầm non đến
phổ thông có nhu cầu đều được ra lớp. Mỗi xã đều có từ 1 đến 2
trường mầm non, 1 đến 2 trường tiểu học và 1 trường THCS. Mỗi
huyện đều có 1 trường THCS huyện, 3 đến 4 trường PTTH và 1
trung tâm giáo dục thường xuyên. Tỉnh có hệ thống trường sư
phạm, trường THCN và trường dạy nghề. Hệ thống trường THCN
và trường dạy nghề Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh góp phần
không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh.
Mạng lưới trường lớp của tỉnh Bắc Ninh hiện tại (với 133 trường
mầm non, 147 trường tiểu học, 130 trường THCS, 29 trường
PTTH, 8 trung tâm GDTX, 1 trường CĐSP, 2 trường THCN địa
phương, 1 trường dạy nghề và 4 trường chuyên nghiệp Trung
ương đóng trên địa bàn) đã được bố trí theo đúng tinh thần của
Luật Giáo dục, phù hợp với địa bàn dân cư, riêng đối với mầm non
và tiểu học được chỉ đạo theo hướng gần dân, quy mô nhỏ, tạo
điều kiện thuận lợi cho các em đến lớp.
2. Quy mô phát triển giáo dục-đào tạo

Những năm qua, thực hiện nghị quyết TW 2 khoá VIII, quy mô
ngành giáo dục Bắc Ninh được mở rộng hàng năm nhằm đáp ứng
tối đa nhu cầu học tập của con em nhân dân. Học sinh nghèo, học
sinh khuyết tật, học sinh diện chính sách, học sinh vùng sâu, vùng
xa đều đã được tạo điều kiện để đến lớp và được hưởng các
chính sách xã hội, chính sách khuyến học của Đảng và Nhà nước.
Ngành đã có những tham mưu về chính sách, về học phí nhằm
khuyến khích mở rộng quy mô, thực hiện phổ cập giáo dục.
Quy mô ngành học mầm non được mở rộng đáng kể hàng năm.
Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi nhà trẻ được huy động ra lớp từ 25% năm
1997 lên 39,3% năm 2002. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi mẫu giáo được
huy động ra lớp tăng từ 60,4% năm 1997 lên 79,6% năm 2002,
trong đó trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99%.
Với bậc phổ thông tỷ lệ học sinh 6 tuổi vào lớp 1, tốt nghiệp tiểu
học vào THCS, tốt nghiệp THCS vào THPT hàng năm đều tăng.
99,99% học sinh 6 tuổi được vào lớp 1 (tăng 0,3 so với năm
1997), 85,2% học sinh khuyết tật được ra lớp hoà nhập (tăng
37,3% so với năm 1997). Đặc biệt, quy mô THPT tăng rất nhanh,
83% học sinh tốt nghiệp THCS được vào PTTH các loại hình (tăng
23% so với năm 1997). Đến năm 2002, quy mô THPT toàn tỉnh
tăng gấp 2,8 lần so với năm học 1996-1997.
Thực hiiện chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, ngành đã tích cực chỉ đạo mở
rộng việc học 2 buổi/ngày ở mầm non và tiểu học, mở rộng học
ngoại ngữ, học hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Học sinh
tiểu học được học 2 buổi/ngày tăng từ 5,1% năm 1997 lên 63,6%
năm 2002. Tỷ lệ học sinh từ tiểu học đến PTTH được học ngoại
ngữ tăng dần hàng năm. Đến năm 2002 học sinh từ lớp 3 tiểu học
và 100% học sinh THCS và PTTH đã được học ngoại ngữ, 100%
học sinh cuối cấp THCS, PTTH được học hướng nghiệp.
Tuy nhiên quy mô phát triển của giáo dục Bắc Ninh còn bộc lộ một

số hạn chế.
Do mạng lưới trường lớp chưa đáp ứng được yêu cầu phân luồng
học sinh sau THCS nên bậc THPT chịu nhiều sức ép về quy mô
và phát triển quá tải so với điều kiện hiện có, ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng giáo dục. THPT còn tồn tại nhiều loại hình,
phức tạp cho công tác quản lí chỉ đạo. Tỷ lệ học sinh bán công
trong các trường THPT còn quá lớn vượt xa quy định của Bộ (năm
học 2001-2002, tỷ lệ học sinh bán công trong trường công lập
chiếm 34,3%).
Quy mô đào tạo nghề cho người lao động còn rất nhỏ và mất cân
đối. Sau khi phân cấp quản lí công tác dạy nghề cho ngành lao
động thương binh và xã hội, việc phối hợp giữa ngành giáo dục và
ngành lao động thương binh xã hội trong lĩnh vực đào tạo bồi
dưỡng nghề cho người lao động còn thiếu sự chỉ đạo, chưa
thường xuyên, hiệu quả thấp. Do quy mô của các trung tâm GDTX
còn nhỏ, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hệ thống các trung tâm giáo
dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục cộng đồng chưa hình thành
rõ nét nên tỷ lệ người lao động được đào tạo, bồi dưỡng nghề còn
rất ít (mỗi năm mới chỉ có khoảng 3.000 người lao động được bồi
dưỡng chuyên đề qua các trung tâm GDTX - chiếm tỷ lệ 0,8%
tổng số người lao động trong độ tuổi). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
PTTH vào các trường nghề hàng năm mới đạt xấp xỉ 4%. Đây là
một khó khăn cho việc đào tạo, bồi đưỡng nguồn nhân lực và
nguồn công nhân có tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước./.

×