Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

bài dự thi tìm hieu lịch sử phú yên đợt 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217 KB, 24 trang )

Câu hỏi 1. Sự ra đời của các tổ chức Đảng và việc thống nhất các tổ chức để
thành lập Đảng Cộng sản Việt
Tình hình thế giới
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một
khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km vuông với số dân 523,4 triệu người (so với
diện tích các nước đó là 16,5 triệu km vuông và dân số 437,2 triệu).Năm 1917,
Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Sự ra đời của Liên bang Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Xô Viết vào năm 1922. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế cộng sản được
thành lập.
Tình hình Việt Nam
Kinh tế: Quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì bên cạnh phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam. Kinh tế Việt Nam bị kìm
hãm trong vòng lạc hậu, về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp và phụ thuộc
chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
Xã hội: Từ xã hội phong kiến đọc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Xã hội có sự phân hóa thành 5 giai cấp: Giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp
nông dân, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp công nhân.
Chính trị: tồn tại 2 chế độ. Triều đình phong kiến. Chế độ thực dân Pháp.
Hình thành và các hoạt động đầu tiên:Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái
Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930
đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức
cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản
Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở
bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930,
đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương
Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng
sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản).
Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn


tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng
Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng
Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và
Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là tất yếu của lịch sử.
+ Kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
trong thời đại mới.
+ Sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
+ Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trên cả ba mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức.
+ Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc dân
Đảng tan rã, cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển sang tay
giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm
quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.
- Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại của Cách mạng Việt Nam
+ Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng
kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
+ Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng".
+ Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới.
+ Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho
những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi 2. Tổ chức tiền thân của Đảng CSVN ở Phú Yên trước năm 1930.

Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên và sự phát triển của
tổ chức Đảng trong những năm 1930-1931 ở Phú Yên ?
Giữa năm 1929, đồng chí Phan Lưu Thanh, thành viên của Hưng nghiệp hội xã
La Hai – vào Sài Gòn học lái xe ô tô ở trường cơ khí Chu Văn Hai. Tại đây đồng
chí được hai đảng viên cộng sản Tư Rèn, Nguyễn Chương (công nhân xưởng đóng
tàu Ba Son) giác ngộ cách mạng, được kết nạp Đảng ở chi bộ Thị Nghè, được
Đảng phân công trở về quê nhà hoạt động. Người cộng sản đầu tiên của tỉnh Phú
Yên Phan Lưu Thanh đã dày công tập hợp tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, lý
tưởng cộng sản cho thanh niên quê nhà.
Đồng chí Phan Lưu Thanh xâm nhập giới thợ thuyền, gia nhập nhóm thợ may
của Phan Ngọc Bích, từng bước dìu dắt những thanh niên yêu nước trở thành
chiến sĩ cách mạng.
Giữa năm 1929, xảy ra một sự kiện “động trời” làm phấn chấn những người
yêu nước: Cờ đỏ búa liềm và truyền đơn cách mạng xuất hiện ở nhà dây thép Sông
Cầu và nhà riêng tên phó Công sứ Pháp ở Phú Yên. Chính quyền thực dân và
phong kiến Nam Triều ở Phú Yên lồng lộn truy tìm gắt gao. Tác giả của sự kiện
chấn động ấy là đồng chí Phan Lưu Thanh. Nhóm thanh niên được ông giác ngộ,
trong đó có Phan Ngọc Bích, vô cùng ngưỡng mộ và khâm phục hành động quả
cảm ấy, mọi người náo nức mong chờ đồng chí Phan Lưu Thanh giao nhiệm vụ.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 12 Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1929), đồng
chí Phan Lưu Thanh phân công Phan Ngọc Bích và ba người khác in ấn truyền
đơn; cử Phan Ngọc Bích trực tiếp rải truyền đơn ở phủ lỵ Tuy Hòa. Trong vai
người hớt tóc dạo, đồng chí Phan Ngọc Bích đã vào phủ lỵ Tuy Hòa (khu vực
phường 1, phường 3 TP Tuy Hòa hiện nay), rải truyền đơn ở chợ Tuy Hòa và rải
dọc theo các trụ đèn, sau đó mua vé xem hát cải lương và rải truyền đơn trong nhà
hát. Thực dân Pháp náo động, huy động toàn bộ các đồn cảnh sát truy lùng và
kiểm soát gắt gao.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất ba tổ
chức cộng sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản liên đoàn). Sự ra đời Đảng Cộng sản là một bước ngoặt vĩ đại

trong lịch sử cách mạng nước ta, thổi một luồng sinh khí cách mạng mới trong cả
nước. Tại Phú Yên, ngày 1/5/1930, đồng chí Phan Ngọc Bích tham gia rải truyền
đơn tại tỉnh lỵ Sông Cầu, kêu gọi thợ thuyền, dân cày và binh lính đứng lên chống
bất công, chống áp bức bóc lột. Cờ đỏ búa liềm có ghi dòng chữ “An Nam Cộng
sản kỳ” bay phất phới trên cây me nhà Công sứ Pháp, sở Lục Lệ, đồn Khố Xanh
Sông Cầu. Truyền đơn được rải từ cầu Tam Giang đến cầu Thị Thạc và nhiều nơi
khác trong tỉnh như phủ lỵ Tuy Hòa, La Hai.
Ngày 1/8/1930, cờ đỏ búa liềm tiếp tục xuất hiện ở sân quần vợt Quang Ích hội
(Bưu điện Sông Cầu ngày nay), trường tiểu học Pháp Việt, đồn Khố Xanh. Truyền
đơn cách mạng được rải khắp trung tâm tỉnh lỵ.
Qua tuyên truyền, giác ngộ, thử thách, đồng chí Phan Lưu Thanh đã kết nạp
Phan Ngọc Bích và 7 đồng chí vào Đảng Cộng sản, chính thức thành lập chi bộ
Đảng cộng sản đầu tiên của Phú Yên ngày 5/10/1930.Tại thôn Long Bình, thị
trấn La Hai, huyện Đồng Xuân do đồng chí Phan Lưu Thanh đảm nhiệm chức
vụ Bí thư
Tháng 1/1931, từ chi bộ đầu tiên, toàn tỉnh phát triển được 17 chi bộ với 78
đảng viên, đủ điều kiện thành lập Tỉnh ủy.
Tháng 3/1931, Xứ ủy Trung kỳ điều động Bí thư Tỉnh ủy Phan Lưu Thanh và
đồng chí Phan Ngọc Bích về Xứ ủy phụ trách công tác ấn loát (chủ yếu là in ấn tài
liệu, truyền đơn) và phân công đồng chí Trần Toại (Kim Tương) về làm Bí thư
Tỉnh ủy Phú Yên.
Tỉnh ủy phát động phong trào ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp khủng
bố trắng. Tại Phú Yên, địch bắt trên 500 người, cả đảng viên và quần chúng cách
mạng. Ngày 17/7/1931, thực dân Pháp mở phiên tòa tại Sông Cầu xử án tù 28
người, đồng chí Trần Toại bị tù chung thân, đồng chí Phan Lưu Thanh bị tù 15
năm. Báo Đông Pháp ngày 30/10/1931 đăng tin “Cái án Hội kín ở Phú Yên xử
ngày 17/7/1931 kết tội 28 người dự định tổ chức một cuộc biểu tình ngày
1/8/1931” để miêu tả chi tiết sự kiện này.
Đồng chí Phan Ngọc Bích và Nguyễn Thị Hảo may mắn trốn thoát 4 cuộc ruồng
bố khốc liệt của địch, thường xuyên liên lạc với các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy

trong tù.

Được Tỉnh ủy phân công trực tiếp, đồng chí Phan Ngọc Bích tiếp tục hoạt động,
vào Tuy Hòa làm nghề kéo xe để tuyên truyền giác ngộ lý tưởng cộng sản.
Ông là người gieo mầm cộng sản ở đồng bằng Tuy Hòa, đã tuyên truyền, giác
ngộ và kết nạp các đồng chí Nguyễn Chấn, Lê Tấn Thăng, Nguyễn Tự Đoan,
Trương Huề (Bốn Nhà Thương) vào Đảng và chính thức thành lập Chi bộ Đảng
phía Nam tỉnh ngày 24/11/1931 (ngày rằm tháng mười năm Tân Mùi) tại chùa
Ông dưới chân núi Nhạn
Câu hỏi 3. Tại sao nói chiến thắng Đường 5 Xuân 1975 ở Phú Yên là “trận Bạch
Đằng giang trên cạn”, là “đòn quyết định cuối cùng” tiêu diệt toàn bộ quân địch từ
Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển miền Trung?
Đầu tháng 10 năm 1974 và tiếp đó từ ngày 18 tháng 12 đến ngày 8 tháng 1 năm
1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để phân tích thời cơ chiến lược và hạ
quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị đã đánh giá sâu
sắc toàn diện tình hình trong nước, trên thế giới và khẳng định: "So sánh lực lượng
địch - ta, trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam, đã có
những chuyển biến cơ bản rõ rệt có lợi cho cách mạng, ta đã mạnh hơn địch (
1
) Bộ
Chính trị kết luận: "Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn". (2) Bộ
Chính trị hạ quyết tâm : "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự
và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng
và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho
ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt tạo điều
kiện chín mùi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã
quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính
quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam. (3)
Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, Bộ chính trị còn chuẩn bị một phương

án khác, một phương án hành động cực kỳ quan trọng là: "Nếu thời cơ đến vào
đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975" (4).
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, với thế chiến lược đã được tạo
ra trong 2 năm 1973 - 1974, Quân khu 5 đã hình thành một kế hoạch tác chiến
trong năm 1975. Trong kế hoạch tác chiến đó, bộ đội chủ lực quân khu tập trung
chủ yếu vào chiến trường tây nam Quảng Nam và tây bắc Quảng Ngãi. Chiến
trường Tây Nguyên là chiến trường trọng điểm toàn Miền do tiền phương Bộ tổng
tư lệnh trực tiếp chỉ đạo.
1
Theo sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu, Thường vụ Tỉnh ủy Phú
Yên quyết định: Sử dụng toàn bộ lực lượng tập trung tỉnh vào hướng trọng điểm
Tuy Hòa 1, Tuy Hòa 2, mở ra từng mảng liên hoàn từ 3 đến 5 xã.Về địch: Cuối
năm 1974, tại chiến trường phú Yên địch có 13.000 quân. Nếu kể cả cảnh sát,
phòng vệ, dân sự, ngụy quyền, lực lượng địch lên đến 28.300 tên. Chúng triển khai
một hệ thống phòng thủ gồm 24 chốt điểm.
Tháng 11 năm 1974, địch thành lập liên đoàn 924 địa phương, có 3 tiểu đoàn (206,
219, 268). Quân bảo an gồm 7 tiểu đoàn và 10 đại đội biệt lập được bố trí như sau:
- Tiểu đoàn 237 ở Củng Sơn. Pháo binh có 18 khẩu 105 và 155 ly. Cơ giới, 1 chi
đoàn 5 xe M113 và 5 xe bọc thép. Hải thuyền 1 duyên đoàn.
Cuối năm 1974, do những thất bại to lớn, liên tiếp của địch trên chiến trường Phú
Yên, nhất là trong chiến dịch Thu của ta, địch đã cách chức tên tỉnh trưởng Bửu
Hạp và đưa tên Vũ Quốc Gia về làm tỉnh trưởng phú Yên. Vũ Quốc Gia chủ
trương củng cố các chốt điểm để giữ nông thôn đồng bằng, chi khu, quận lỵ, trục
đường giao thông; dùng từng đại đội càn ngắn ngày lên vùng căn cứ đánh phá ta
và nắm tình hình chuẩn bị kế hoạch tiến công của ta.
Tuy nhiên, lúc này địch đang ở vào thế phòng ngự bị động lực lượng còn đông
nhưng sức kìm kẹp yếu. Phòng thủ vòng ngoại của địch tuy cứng, nhưng đi sâu
vào vùng đồng bằng sức kèm kẹp bị lỏng. Tinh thần binh lính địch dao động,
mang tâm lý thất bại, mong muốn được sống trong hòa bình, hòa hợp dân tộc.
Trong nội bộ giới cầm quyền Oa-sinh-tơn ngày càng phân hóa, chia rẽ. Làn sóng

phản đối Ních xơn về vụ Oa-tơ-ghết lại vùng lên dữ dội, buộc Ních-xơn phải từ
chức, phó tổng thống Pho lên thay. Tiếp theo là việc Quốc hội Mỹ bác bỏ viện trợ
bổ sung cho ngụy quyền Sài Gòn. Tình hình đó làm cho quân ngụy Sài Gòn lâm
vào tình trạng khủng hoảng, phương tiện chiến tranh, bom đạn, tiền của, quân
ngụy không còn có thể vung vãi bất kỳ như trước đây, điều mà đội quân ngụy tay
sai không dễ chấp nhận được.
Về ta: Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đầu năm 1975 có 2.628 người. Trực tiếp
cầm súng chiến đấu có 1.685 người. Về đơn vị có 3 tiểu đoàn bộ binh. Mỗi tiểu
đoàn có từ 230 đến 250 người. Một tiểu đoàn trợ chiến của tỉnh có 4 khẩu ĐKZ 75
ly, 4 khẩu cối 82 ly, 2 khẩu cối 120 ly, 6 khẩu 12 ly 7 và 12 ly 8, 20 quả hỏa tiễn
H12. Trình độ kỹ thuật khá tốt. Bộ đội đặc công tỉnh có 5 đại đội và 10 đội đặc
công huyện. Khả năng đại đội đặc công ta có thể diệt gọn đại đội địch trong công
sự vững chắc. Công binh tỉnh có 2 đại đội, do bám chiến trường, chiến đấu liên tục
nên chưa hoàn thành chương trình huấn luyện, trình độ chuyên môn binh chủng
còn yếu.
Lực lượng huyện: Các huyện Tuy Hòa 1, Tuy An, Miền Tây, Sông Cầu, Đồng
Xuân mỗi huyện có 1 đại đội bộ binh, 1 đội đặc công, 1 tiểu đội công binh và 1
tiểu đội cối 82 ly. Các huyện Tuy Hòa 2, Sơn Hòa, Miền Tây mỗi huyện có một
đại đội bộ binh và 1 tiểu đội cối 60 ly. Các đại đội bộ binh huyện có khả năng diệt
gọn trung đội địch trong công sự vững chắc hoặc đại đội thiếu của địch ngoài công
sự.
Lực lượng vũ trang cơ sở có 1.530 người (trong đó có 143 đảng viên, 40 đoàn
viên, 57 nữ và 179 du kích mật). Hai xã Hòa Hiệp (Tuy Hòa 1) và Xuân Sơn
(Đồng Xuân) có trung đội du kích và có khả năng độc lập chiến đấu diệt gọn tiểu
đội địch. Lực lượng du kích mật, chủ yếu đánh địch bằng mìn hẹn giờ. Các đơn vị
vũ trang công tác, từ chiến dịch Thu 1974, bám được thôn xã diệt được ác ôn, phát
động được quần chúng, nhưng chưa đều, chưa liên tục.
Ngoài ra tỉnh có 2 bệnh xá, mỗi bệnh xá có thể tiếp nhận được 120 thương bệnh
binh, 1 trại an dưỡng 1 đội phẫu thuật. Các huyện đều có bệnh xá huyện. Để tiếp
nhận kịp thời và hết vũ khí, hàng của miền Bắc chi viện, tỉnh thành lập 2 đại đội

vận tải hơn 100 người, có 32 xe đạp thồ.
- Đánh liên tục, dài ngày, căng kéo địch mở rộng diện tiêu hao của lực lượng vũ
trang cơ sở, tạo điều kiện cho lực lượng tập trung diệt gọn từng đơn vị địch, đánh
phá kho tàng làm rối loạn hậu phương địch. Đánh sập các cầu cống, cắt đứt giao
thông, tích cực bắn máy bay đều khắp.
- Đánh đúng chiến thuật, thắng trận đầu, đợt đầu, đạt hiệu suất chiến đấu cao, hiệu
quả chiến dịch lớn.
- Vừa tác chiến vừa tranh thủ củng cố rút kinh nghiệm để bổ sung cho đợt tác
chiến tiếp theo; đồng thời lấy kinh nghiệm thực tế tác chiến để tổ chức huấn luyện,
tranh thủ thời gian để ôn luyện kỹ thuật.
- Vừa tác chiến đồng thời phải tranh thủ chuẩn bị lực lượng, khi có thời cơ tranh
thủ giành thắng lợi to lớn. Nhanh chóng tiếp thu nhân tài vật lực của Quân khu chi
viện và các vùng mở ra. Đẩy mạnh xây dựng củng cố hậu phương để có ăn và dự
trữ cho yêu cầu nhiệm vụ mới.
Để thực hiện được mục đích, yêu cầu của chiến dịch, từ những tháng cuối năm
1974 và tháng 1, 2 năm 1975 tỉnh khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Sử dụng một
phần lực lượng huyện, du kích, đội công tác tích cực hoạt động giữ thế chiến
trường. Riêng huyện Đồng Xuân, trong tháng 1 và tháng 2 đánh được 13 trận, diệt
được 44 tên địch. Huyện Tuy An đánh được 15 trận, diệt 37 tên địch.
Thường vụ Tỉnh ủy quyết định thành lập 2 sở chỉ huy, để chỉ huy chiến dịch:
- Sở chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí Nguyễn Duy Luân (Chín Cao) - Bí thư
Tỉnh ủy, đồng chí Ông Văn Bưu Tỉnh đội trưởng, đồng chí Bùi Tân (Bảy Tính) -
Thường vụ Tỉnh ủy chỉ huy. Ngoài ra còn có đồng chí Kim Anh - Phái viên Quân
khu. Cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần có các đồng chí Lưu Xem - Tham mưu
trưởng tỉnh đội, đồng chí Trần Văn Mười - Trưởng ban tác chiến, đồng chí Hoàn -
Phó chủ nhiệm chính trị, đồng chí Chương - Phó chủ nhiệm hậu cần.
- Sở chỉ huy cơ bản gồm các đồng chí Lê Bác - Chính trị viên tỉnh đội, đồng chí
Nguyễn Hữu Ái. Sở chỉ huy cơ bản lo bảo đảm đáp ứng mọi yêu cầu vật chất cho
chiến dịch và chỉ huy tiến công, nổi dậy ở hướng diện. Thị xã Tuy Hòa do đồng
chí Ba Diệu, đồng chí Ma Noa phụ trách. Đồng chí Hồng Quang phụ trách việc

tiếp nhận tổ chức vận chuyển vũ khí, hàng hóa của miền Bắc chi viện vào từ rừng
xanh (B3) Đắc Lắc về Hòn Lúp xã Sơn Long.
Đầu tháng 3, hai xe ô tô chở chuyến hàng đầu tiên đã về đến Hòn Lúp an toàn.
Để có thắng lợi này từ giữa năm 1973, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, nhân dân
Sơn Hòa, thanh niên xung phong đã ngày đêm tích cực mở đường để xe ô tô chạy
được. Đặc biệt, đồng bào dân tộc ở Suối Trai khi hai xe ô tô chở hàng bị lún cát
không qua sông được đã huy động nhân dân chặt tre, đan phên lót cho xe qua bãi
cát, qua sông về đến Hòn Lúp đúng kế hoạch, kịp phục vụ chiến dịch.
Toàn bộ lực lượng tập trung của tỉnh được tập trung vào hướng trọng điểm gồm:
Tiểu đoàn 13, tiểu đoàn 96, tiểu đoàn 9, tiểu đoàn pháo hỗn hợp 189, đại đội đặc
công 202, đại đội đặc công 201, đại đội đặc công 25, đại đội đặc công 7, một nửa
đội đặc công nước 24, đại đội công binh 19, lực lượng tập trung 2 huyện Tuy Hòa
1 , Tuy Hòa 2 và du kích các xã. Tỉnh còn huy động toàn bộ lực lượng các cơ quan
phía sau, nhân dân căn cứ, để phục vụ chiến đấu như tiếp đạn, tải thương, áp giải
tù binh, vận chuyển chiến lợi phẩm, tiếp quản vùng mới giải phóng, sẵn sàng đánh
biệt kích địch đánh phá hậu cứ, hành lang của ta.
01 giờ 55 phút ngày 10 tháng 3 năm - 1975 trận then chốt Buôn Ma Thuộc bắt
đầu. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt ta đã chiếm được các cứ điểm án ngữ vòng
ngoài và phần lớn các mục tiêu quan trọng trong thị xã. Đến 11 giờ ngày 11 tháng
3, ta tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Buôn Ma Thuộc, làm chủ hoàn toàn thị xã.
Chiến thắng Buôn Ma Thuộc là một đòn đánh trúng huyệt làm rung chuyển quân
địch. Ngày 11 tháng 3, Bộ Chính trị họp nhận định: "Thắng lợi ở Buôn Ma Thuộc
- Đức Lập, trên đường 19 và các hướng khác chứng tỏ ta có khả năng giành thắng
lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến (
2
).
Tại Phú Yên, phối hợp với chiến trường trọng điểm của Quân khu, đêm 10 và
ngày 11 tháng 3, bộ đội và du kích các huyện như Đồng Xuân, Tuy An, Sông Cầu
đồng loạt tiến công địch ở nhiều nơi như Phước Nhuận, La Hai, Bến Đá, Hòa Lợi,
Tuy Phong Bảy, An Mỹ, An Chấn, chi khu Phú Tân, Phú Sơn, đánh địch phản

kích diệt 3 trung đội bảo an và 1 trung đội dân vệ. Du kích cùng nhân dân truy
lùng diệt nhiều tên ác ôn phá các khu dồn Hà Bằng, Tam Giang, Hòa Lễ hàng
nghìn nhân dân nổi dậy phá khu dồn về làng cũ làm ăn.
Trên đường Quốc lộ 1, đường số 6 đại đội công binh 50; công binh các huyện liên
tục chặn đánh cơ giới địch làm chủ đoạn đường số 1 từ Long Thạnh ra Thạch Khê,
đường số 6 và đường sắt. Trong chiến dịch này, công binh được lệnh Quân khu
không đánh phá cầu cống.
Những ngày từ 13 đến 16 tháng 3, lực lượng vũ trang và du kích các huyện Đồng
Xuân, Tuy An, Sông Cầu kiên quyết đánh địch phản kích làm chủ các vùng mới
mở ra.
3 giờ sáng ngày 17 tháng 3, đại đội đặc công 202 tập kích cứ điểm Núi Tranh
(xã Hòa Quang, Tuy Hòa 2). Đây là cứ điểm kiên cố do bọn Nam Triều Tiên giao
lại cho đại đội 3 tiểu đoàn bảo an 220 đóng giữ. Sau 30 phút chiến đấu ta làm chủ
hoàn toàn trận địa, diệt gọn 2 trung đội và Ban chỉ huy đại đội địch, giết làm bị
thương 43 tên địch, bắt 1 tên thu 5 khẩu súng và 1 máy thông tin.
Chiến thắng Núi Tranh như một ngòi pháo mở đầu cho hướng trọng điểm phát
triển thắng lợi giòn dã. Đến 5 giờ sáng ngày 17 tháng 3, tiểu đoàn 96 nổ súng tiến
công diệt và bắt gần hết đại đội 2 tiểu đoàn 220 và 1 trung đội còn lại của đại đội
2
3, giết 50 tên, bắt 1 tên, thu 15 khẩu súng (có 1 súng đại liên, 1 súng cối 60 ly) 4
máy thông tin.
Bị ta diệt gọn 2 đại đội trong một buổi sáng, địch vội cho tiểu đoàn 219 và 1 đại
đội còn lại của tiểu đoàn 220 tổ chức phản kích để chiếm lại khu vực bị mất. Một
đại đội địch từ đường số 5 vượt sông Đà Rằng sang Phú Sen (xã Hòa Định). địch
còn điều thêm tiểu đoàn 210 từ Tuy An vào cùng tiểu đoàn 219 đánh sau lưng đội
hình tiểu đoàn 96 ta.
Nắm chắc kế hoạch địch. Ta dùng 2 đại đội tiểu đoàn 96 do đồng chí Khánh làm
Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Diêu làm Chính trị viên, vận động lên Phú Sen nhanh
chóng hình thành thế bao vây đại đội địch vừa vượt sông Đà Rằng sang. Đến 4 giờ
sáng ngày 18, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công. Sau 40 phút chiến đấu, 2 đại đội

ta đã diệt gọn 1 đại đội địch, giết làm bị thương 65 tên, bắt 2 tên thu 20 khẩu súng,
giải phóng 3 xã Hòa Định Đông, Hòa Định Tây và Hòa Quang (Tuy Hòa 2).
Chiều ngày 17 tháng 3, Sở chỉ huy tiền phương được điện thông báo cùng mệnh
lệnh của Quân khu: Toàn bộ quân địch ở Tây Nguyên đang rút xuống Phú Yên
theo đường số 7. Tỉnh Phú Yên phải kiên quyết chặn đánh tiêu diệt địch, thu xe,
pháo và cho tiểu đoàn 96 bôn tập lên tây Củng Sơn chặn đánh địch, không cho
chúng cụm lại Củng Sơn.
Sau khi nhận được điện thông báo và mệnh lệnh của Quân khu, Sở chỉ huy tiền
phương và Sở chỉ huy cơ bản đều nhận định:
“Quân Tây Nguyên rút xuống quân số đông và nhiều xe, pháo, nhưng tinh thần rất
hoang mang, dao động. Chúng sẽ theo đường số 5 xuống Phú Lâm chứ không tiếp
tục đi theo đường số 7. Do các đơn vị ô hợp, sau khi thất bại ở Tây Nguyên nên
hỗn loạn về tổ chức. Đây là thời cơ đề ta tiêu diệt và thu nhiều phương tiện chiến
tranh”.
Từ đánh giá đúng đắn địch, ta, Sở chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm: Tập trung toàn
bộ lực lượng, tiến công tiêu diệt quân ngụy địa phương, giải phóng hoàn toàn 5 xã
phía tây Tuy Hòa 1, như phương án từ đầu chiến địch đã chuẩn bị. Chỉ có quét
sạch các cứ điểm, chốt địch giữ đường số 5 và giải phóng phần lớn huyện Tuy
Hòa 1; chủ yếu đoạn từ cầu Tổng, Phú Thứ lên cầu Đồng Bò ta mới có thể triển
khai được thế trận vững chắc để tiêu diệt quân địch rút chạy từ Tây Nguyên
xuống.
Từ ngày 9 tháng 3, Sở chỉ huy tiền phương từ Hòa Thuận đã vượt sông Đà Rằng
sang Tuy Hòa 1 và tạm dừng trong khu vực gần Bầu Gốc (xã Hòa Mỹ) làm công
tác tổ chức.
Ngày 13 tháng 3, Sở chỉ huy tiền phương họp tại núi Hương (xã Hòa Mỹ) dưới sự
chủ trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân - Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí ông Văn Bưu
- Tỉnh đội trưởng. Cuộc họp đã kiểm tra lại các mặt công tác chuẩn bị về tổ chức
và tư tưởng; làm công tác hợp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, gấp rút thành lập
trại quản lý tù binh.
Về địch: 6 giờ ngày 18 tháng 3 chúng cho 2 đại đội công binh và tiểu đoàn 268

kéo 2 khẩu pháo ở Cầu Cháy lên chốt Hòn Kén, mở đường từ đèo Dấy lên núi Mái
Nhà. Cùng ngày từ Củng Sơn địch cho 2 đại đội của tiểu đoàn 237 xuống sông Ba
sửa đường xuống núi Mái Nhà. Địch còn dùng nhiều máy bay trực thăng chở
phương tiện để bắc phà qua sông.
Theo điện thông báo của Quân khu, lực lượng địch từ Tây Nguyên kéo xuống
trên 30.000 tên và trên 3.000 xe quân sưï.
Thực hiện quyết tâm của Sở chỉ huy chiến dịch, 4 giờ 15 phút ngày 19 tháng 3,
trận đánh cứ điểm Cầu Cháy - trận then chốt nhất của chiến dịch bắt đầu. Cứ điểm
Cầu Cháy nằm tiếp giáp giữa 2 xã Hòa Mỹ và Hòa Đồng, trên một gò đất cao, bên
trong trục đường liên xã từ đường số 5 đi bến Củi. Cầu Cháy là một cứ điểm của
bọn Nam Triều Tiên để lại, được cấu trúc khá kiên cố. Ngoài 3 lô cốt ở tuyến
ngoài, khu trung tâm có 3 pháo đài và hầm ngầm cố thủ. Cứ điểm Cầu Cháy làm
nhiệm vụ giữ đường số 5 kèm kẹp nhân dân các xã Hòa Đồng, Hòa Mỹ, Hòa Bình.
Lực lượng địch đóng trong cứ điểm có đại đội 4 và tiểu đoàn bộ 236, 1 trung đội
hỏa lực, 1 trung đội thám báo, 1 trung đội thông tin.
Tiểu đoàn 13 được tăng cường 2 súng cối 82 ly, 2 súng ĐKZ 75 ly, 2 khẩu trọng
hên 12 ly 7 do đồng chí Nguyễn Châu Diên làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Hồ
Sức làm Chính trị viên được giao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm Cầu Cháy.
Trận này tiểu đoàn dùng chiến thuật tập kích kết hợp binh hỏa lực. Nhưng gần
sáng, sương mù càng dày đặc. Từ các vị trí đặt hỏa lực không thể nhìn thấy rõ lô
cốt địch. Do vậy, súng ĐKZ ta không thể tiêu diệt các lô cốt địch từ những phát
đạn đầu. Địch dùng súng cối 81 ly, ĐKZ, đại liên, bắn chặn các cửa mở của ta.
Trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt ngay từ những phút đầu. Sở chỉ huy tiểu đoàn 13
bị trúng đạn cối 81 ly, đồng chí Sức - Chính trị viên hy sinh, đồng chí Diên - Tiểu
đoàn trưởng bị thương nặng. Chỉ huy bị gián đoạn. Nhưng với tinh thần quyết
chiến, quyết thắng, dựa theo kế hoạch hiệp đông, các mũi tự tổ chức kiềm chế hỏa
lực địch, tiếp tục phát triển tiến công theo phương án đã định. Sở chỉ huy tiền
phương vừa dùng bộ đàm chỉ huy các mũi chiến đấu, vừa cấp tốc cử đồng chí
Thập - Trợ lý tác chiến làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 13, tiếp tục chỉ huy trận
đánh giành thắng lợi.

Sau gần 1 giờ chiến đấu, nhưng quân ta chỉ mới đánh chiếm được phần nửa cứ
điểm. Có mũi ta bị thương vong hơn nửa quân số. Địch còn hơn 20 tên dồn vào
khu trung tâm, lợi dụng các pháo đài, hầm ngầm chống trả quyết liệt. Đồng chí
Như - Đại đội phó đại đội 2, trực tiếp chỉ huy một mũi 13 chiến sĩ, dũng cảm thọc
sâu chia cắt địch, dùng B41 bắn trúng pháo đài, diệt toàn bộ quân địch, bắt sống 3
tên.
Đến 7 giờ ngày 19 tháng 3, ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm Cầu Cháy tiêu diệt
toàn bộ ban chỉ huy tiểu đoàn bảo an 236, diệt gọn đại đội 4, 1 trung đội hỏa lực, 1
tiểu đội thám báo, giết 103 tên, bắt sống 3 tên, thu 35 khẩu súng các loại (trong đó
có 1 súng cối 8 1 ly, 1 súng cối 60 ly, 1 súng ĐKZ 57 ly, 3 súng đại liên, 4 M79),
5 máy thông tin PRC-25, 5 máy điện thoại, 1 xe Jeép và hàng tấn đạn các loại. Từ
5 giờ sáng ngày hôm đó, đại đội đặc công 25 tập kích chốt điểm Hòn Sặt, tiểu
đoàn 9 tiến công quân địch ở Mỹ Thạnh Trung (xã Hòa Phong). Đại đội 377 và đại
đội 2 tiểu đoàn 9 đánh địch ở Phú Thứ, cầu Tổng. Đại đội đặc công 203 huyện tập
kích địch ở trụ sở Phước Bình. Riêng chốt điểm Hòn Sặt, do thủ đoạn đánh không
sắc, quyết tâm chưa cao nên đại đội 25 không làm chủ được hoàn toàn chốt điểm.
Tiểu đoàn 9 được lệnh Sở chỉ huy tiền phương, tiến hành bao vây bọn địch còn
sống sót trên chốt điểm Hòn Sặt. Tại cứ điểm Hòn Kén, địch đã tăng thêm quân
nhưng ta nắm không chắc. Đại đội 201 không thực hiện kế hoạch tập kích Hòn
Kén, gây trở ngại thực hiện lược đồ chiến dịch.
Trong lúc các đơn vị tập trung tỉnh và huyện Tuy Hòa 1 đồng loạt tiến công nhiều
vị trí địch ở các xã Hòa Mỹ, Hòa Đồng, Hòa Phong, du kích và nhân dân Hòa
Thịnh, Hòa Mỹ nổi dậy đánh địch, gọi loa hù dọa làm địch hoang mang lo sợ phải
bỏ chốt điểm Núi Lá, khu dồn Phú Hữu. Xã Hòa Thịnh và xã Hòa Mỹ được hoàn
toàn giải phóng.
10 giờ ngày 19 tháng 3, ta dùng súng cối 82 ly, trọng liên 12 ly 8 đặt tại núi
Hương bắn mạnh quân địch ở chốt Hòn Đất buộc địch ở Hòn Đất phải rút chạy.
Đến 16 giờ tiểu đoàn 9 siết chặt vòng vây và nổ súng tiến công Hòn Sặt. Sau 40
phút chiến đấu ta diệt gọn đại đội 2 tiểu đoàn 236, làm chủ hoàn toàn chốt điểm
Hòn Sặt.

Chiều ngày 19 bộ đội ta đang tảo trừ, truy lùng quân địch ở các xã vừa được giải
phóng thì đài quan sát sở chỉ huy tiền phương ở núi Hương phát hiện có 5 xe bọc
thép và nhiều xe GMC từ Hòn Kén theo đường số 5 chạy xuống. Tiểu đoàn 9 chấp
hành mệnh lệnh, Sở chỉ huy tiền phương nhanh chóng tổ chức phục kích, tiêu diệt
được 4 chiếc xe bọc thép. Chiếc xe bọc thép đi đầu chạy thoát xuống Cầu Tổng bị
đại đội 377 Tuy Hòa 1 chặn đánh tiêu diệt. Những xe địch còn lại phía sau vội vã
quay đầu chạy về phía bắc Hòn Kén.
Cùng ngày 19 tháng 3, đại đội công binh 19, công binh K65 chặn đánh, phá hủy
4 xe quân sự chở đầy lính trên đoạn đường bắc đèo Cả.
Như vậy, đêm 18 và ngày 19 tháng 3 tại chiến trường trọng điểm Tuy Hòa 1 các
lực lượng vũ trang ta đã tiêu diệt một loạt các chốt điểm, cứ điểm, quét sạch địch ở
5 xã (Hòa Phong, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ, Hòa Đồng, Hòa Tân); đánh lui các đợt
phản kích của địch từ thị xã Tuy Hòa lên; làm chủ đoạn đường số 5 dài 10 ki-lô-
mét. Vùng giải phóng rộng lớn gồm 5 xã ở đồng bằng Tuy Hòa 1 nối liền với căn
cứ của tỉnh tạo ra thế mới, lực mới, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân
địa phương. Hàng vạn quần chúng được giải phóng vô cùng phấn khởi, tin tưởng
vào Đảng và quân giải phóng, vào cách mạng nhất định thắng lợi. Mọi người, mọi
lứa tuổi hăng hái tham gia xây dựng chính quyền cách mạng, vận chuyển đạn
dược, lương thực, chăm sóc thương binh. Thanh niên hăng hái gia nhập quân giải
phóng, dân quân, du kích, để giữ gìn an ninh chính trị. Khí thế cách mạng của
quần chúng trong tỉnh mạnh mẽ, sôi nổi, nhộn nhịp chưa từng có.
Mặc dù quân địch ở Tây Nguyên dồn xuống rất đông, rất nhiều xe tăng, thiết giáp
nhưng quân dân Phú Yên với thế lực mới do những thắng lợi dồn dập trên các
chiến trường, đặc biệt trong tỉnh tạo ra quyết tâm tiêu diệt thật nhiều xe, pháo và
quân địch ở Tây Nguyên rút xuống.
Trưa ngày 19 tháng 3, hơn 2 vạn quân ngụy và hơn 2.000 xe quân sự có 150 xe
tăng và xe bọc thép ở Tây Nguyên theo đương số 7 kéo xuống đông quận lỵ Củng
Sơn (
3
). Từ đây địch không tiếp tục đi theo đường số 7, bắc cầu dã chiến vượt sông

Nhao đường số 5 để xuống thị trấn Phú Lâm. Đúng như nhận định của Sở chỉ huy
chiến dịch, tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chỉ huy cuộc rút lui đã chọn con đường
số 5 để đội quân Tây Nguyên đi đoạn đường cuối cùng xuống thị xã Tuy Hòa.
Hơn nữa, trước ngày 19 tháng 3, đường số 5 và đồng bằng Tuy Hòa nói chung còn
do địch kiểm soát. Còn ở Tuy Hòa 2, từ ngày 17 tháng 3 ta đánh mạnh ở các xã
Hòa Định, Hòa Thắng. Đoạn đường số 7 từ Củng Sơn xuống Hòa Định khá hiểm
trở, ta đang làm chủ, đào nhiều hầm hố, gài mìn, chông địch không thể đi lại được
trên đoạn đường này từ lâu.
Trước tình hình quân địch ở Tây Nguyên đã xuống đến Hòn Kén, Sở chỉ huy tiền
phương lệnh cho các đơn vị nhanh chóng tổ chức trận địa phục kích trên địa đoạn
từ cầu Tổng lên cầu Đồng Bò.
Trận đánh của tiểu đoàn 9 và đại đội 377 chiều ngày 19, diệt 5 xe bọc thép đi
đầu của địch từ Hòn Kén xuống làm cho bọn chỉ huy Quân đoàn 2 và Tiểu khu rất
lúng túng, hốt hoảng. Chúng vội vã điều thêm 2 tiểu đoàn 219 và 206 lên giải tỏa
đường số 5.
6 giờ sáng ngày 20, tiểu đoàn 13 tập kích bọn địch cụm lại ở Phú Diễn, diệt và bắt
sống 40 tên (có 1 tên đại úy) thu toàn bộ vũ khí. Cùng ngày, địch ở Hòn Kén cho 2
đại đội của tiểu đoàn 268 đi mở đường 5 phối hợp với 2 tiểu đoàn 219 và 206 từ
dưới đánh lên. Nhưng cả 2 cánh quân địch đều bị ta đánh thiệt hại nặng phải bỏ cả
xác chết đồng bọn tháo chạy.
Thực hiện chia cắt địch để tiêu diệt, không cho chúng cụm lại và buộc địch
phải bức chạy nhanh. Đêm 21 tháng 3, đại đội đặc công 25 và tiểu đoàn 189 dùng
súng cối 82 ly tập kích vào bãi xe bắc Hòn Kén và sông Nhao phá hủy 50 xe các
loại, diệt gần 100 tên địch.
Ngày 21 tháng 3, địch dùng hơn 350 xe hon da cải trang thường dân để tháo
chạy. Đài quan sát ở Sở chỉ huy tiền phương kịp thời phát hiện thông báo cho các
đơn vị. Tiểu đoàn 13 và tiểu đoàn 9 nhanh chóng bao vây chia cắt ở khu vực Mỹ
Thạnh Trung, Mỹ Thạnh Tây (xã Hòa Phong). Sau hơn 30 phút chiến đấu, ta diệt
120 tên, bắt sống gần 300 tên, thu và phá hủy hơn 300 xe hon da, 7 xe GMC, 3 xe
Jéep và 120 súng các loại.

Cùng ngày, đại đội 377, đại đội 203 và đội 7 chặn đánh quyết liệt các cánh quân
địch từ Hòa Thành lên giải tỏa đường số 5, diệt hàng chục tên, buộc chúng phải
tháo lui. Đại đội công binh 19 và K65 chặn đánh một đoàn xe quân sự ở Khánh
Hòa ra tại chân đèo Cả phá hỏng 1 xe chở đầy lính.
Chiều ngày 22 tháng 3, Sở chỉ huy chiến dịch điều chỉnh lại đội hình một số đơn
vị. Tiểu đoàn 9 bố trí sát cầu Đồng Bò. Tiểu đoàn 13 vẫn bố trí ở Mỹ Thạnh Trung
lên Lương phước. Đại đội 377 và đại đội 203 chốt chặn ở Phú Thứ, Cầu Tổng,
kiên quyết chặn đánh, không cho địch dưới thị xã lên và địch ở Tây Nguyên
xuống.
Địch từ chỗ chủ quan cho rằng các đơn vị địa phương Phú Yên không thể tiến
công, ngăn chặn, tiêu diệt nổi chúng trên địa bàn đồng bằng Tuy Hòa 1, đến nay,
3
đã 4 ngày hơn 20.000 quân và hơn 2.000 xe quân sự vẫn bị ta chặn đứng. Quân
lính, xe cơ giới địch bị dồn lại dày đặc từ Củng Sơn xuống Hòn Kén chưa chạy
thoát được một đơn vị, một xe nào. Tình hình đó, làm cho tên chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm chỉ huy cuộc rút lui vô cùng hoảng sợ. Hắn thúc giục tên Vũ Quốc Gia -
Tỉnh trưởng phú Yên trực tiếp chỉ huy liên đoàn 924 và tiểu đoàn 236 phản kích
nhiều hướng, mở cho được đường số 5 để quân Tây Nguyên xuống thị xã Tuy
Hòa. Chúng dùng các trận địa pháo Gò Muối, sân vận động Phước Bình, Hòn Kén,
bắn dồn dập hàng trăm quả vào các trận địa quân ta, trên dọc đường số 5. Hàng
ngày, từ tờ mờ sáng đến chiều tối nhiều tốp máy bay phản lực A37, trực thăng vũ
trang liên tục ném bom, phóng đạn rốc két xuống các trận địa quân ta trên đường
số 5, làng mạc, Sở chỉ huy tiền phương. Trận địa hỏa lực phòng không ta, ở núi
Hương và các trận địa tiểu đoàn 9, tiểu đoàn 13 Hỏa lực 12 ly 7 phòng không
của tiểu đoàn 189, bắn trả quyết liệt làm bị thương một số máy bay. Bộ đội ta tích
cực xây dựng nhiều hầm kèo khá vững chắc nên hạn chế được thương vong do
bom, pháo địch. Tuy nhiên, do chiến đấu liên tục, nhiều ngày, quân số chưa bổ
sung kịp nên có đại đội chỉ còn hơn 10 tay súng. Trận cầu Cháy tiểu đoàn 13 đã hy
sinh 15 đồng chí. Mặc dù chiến đấu rất ác liệt không tránh khỏi hy sinh, tổn thất
nhưng cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đều phấn khởi, quyết tâm chiến đấu diệt và bắt

thật nhiều quân địch ở Tây Nguyên xuống. Các xã Hòa Phong, Hòa Bình, Hòa Mỹ
hầu hết nhà cửa và tài sản bị bom, pháo địch tàn phá, nhưng nhân dân vẫn hăng
hái tham gia các công tác kháng chiến như: chuyển thương binh về bệnh xá ban
đêm ra đường 5 tham gia thu chiến lợi phẩm. Các đoàn thể phụ nữ, thanh niên vận
động nhân dân, ủng hộ, giúp đỡ bộ đội, nấu cơm, nước. Tình yêu thương, đùm bọc
của nhân dân là sự cổ vũ, động viên to lớn các đơn vị vượt qua thử thách ác liệt,
quyết tâm tiêu diệt địch giải phóng quê hương.
Sáng ngày 23 tháng 3, liên đoàn 924 và tiểu đoàn bảo an 236 tổ chức phản kích
quyết liệt nhiều hướng theo trục đường số 5 lên Hòa Phong và từ Hòa Tân lên Cầu
Cháy. Đại đội 377 và đại đội 203 liên tiếp chặn đánh diệt một số. Đến 10 giờ cùng
ngày, địch chiếm được Phú Thứ, Cầu Cháy. Khi địch lên Phú Thạnh bị tiểu đoàn
13 chặn đánh diệt hàng chục tên, bọn còn lại lui về Phú Thứ.
Ngày 23, tiểu đoàn 189 dùng súng cối 82 ly ĐKZ 75 ly pháo kích nhiều đợt vào
bãi xe của địch ở bắc Hòn Kén, gây cho địch nhiều thiệt hại.
17 giờ cùng ngày lực lượng vũ trang Sơn Hòa phục kích ở khu vực sông Nhao,
phá hủy 3 xe quân sự, diệt gọn 20 tên.
Đêm 23 tháng 3, đại đội 377 và đại đội 203 tập kích tiêu diệt địch ở Phú Thứ và
Cầu Tổng. Ta làm chủ 2 vị trí quan trọng này, xây dựng công sự sẵn sàng đánh
địch phản kích .
Ngày 24 tháng 3 địch tăng cường dùng phi pháo chi viện cho bộ binh địch tiến
công, cố chọc thủng trận địa tiểu đoàn 13, tiểu đoàn 9, để chiếm Hòn Sặt, Núi
Hương mở đường cho quân Tây Nguyên xuống thị xã Tuy Hòa. Mặt chiến hào,
trận địa dày đặc hố bom, hố pháo, nồng nặc khói súng. Những trận đánh ác liệt
diễn ra liên tục trong ngày. Các đợt tiến công của địch đều bị quân ta đánh lui.
Đêm 24 tháng 3, đại đội đặc công 25 và đại đội đặc công 201 tập kích bãi xe sông
Nhao, diệt 40 tên, phá hủy 30 xe các loại.
Như vậy, đến tối ngày 24 tháng 3, toàn bộ quân địch ở Tây Nguyên xuống vẫn bị
các lực lượng vũ trang Phú Yên chặn đứng tại Hòn Kén (xã Hòa Phong). Hàng
trăm tên bị giết và bị bắt, hàng chục xe quân sự bị phá hủy. Tình hình đó, làm cho
binh sĩ địch thêm hoang mang dao động.

Tiểu đoàn 96 sau khi lập được chiến công xuất sắc diệt gọn 2 đại đội địch ở Tuy
Hòa 2, ngày 20 tháng 3 chấp hành mệnh lệnh của Sở chỉ huy tiền phương hành
quân thần tốc lên tây Củng Sơn để đánh từ phía sau đội hình địch và bắt liên lạc
với sư đoàn 320 trên đường truy kích địch xuống Phú Yên.
Trưa ngày 22 tháng 3, tiểu đoàn 96 bắt liên lạc được với trung đoàn 64, sư đoàn
320 ở tây quận lỵ Củng sơn lúc này một bộ phận quân Tây Nguyên xuống đã vượt
cầu dã chiến qua sông Đà Rằng sang đường số 5. Một bộ phận còn cụm lại ở quận
lỵ Củng Sơn.
Trước tình hình quân địch ở quận lỵ Củng Sơn rất hoang mang dao động. Ban
chỉ huy trung đoàn 64 và Ban chỉ huy tiểu đoàn 96 họp quyết định nhanh chóng
siết chặt vòng vây, tiến công tiêu diệt địch, giải phóng quận lỵ Củng Sơn.
14 giờ 30 phút ngày 24 tháng 3, được pháo binh và xe tăng sư đoàn chi viện, trung
đoàn 64 và tiểu đoàn 96 từ nhiều hướng tiến công đồng loạt vào các vị trí chủ yếu
của địch trong và xung quanh quận lỵ Củng Sơn. Đại đội 2, tiểu đoàn 96 ở hướng
chủ yếu chia thành 2 mũi đánh vào cụm xe tăng địch ở chân núi Một. Các chiến sĩ
ta dùng ĐKZ 75 ly súng B41 , B40 và cối 82 ly bắn chính xác, dồn dập vào cụm
xe tăng. Sau 15 phút chiến đấu ta bắn cháy 7 xe tăng M41 và thu 7 chiếc xe tăng
M41 còn nguyên vẹn diệt 70 tên, thu 7 khẩu súng ĐKZ 75 ly, 7 súng 12 ly 7, 10
súng đại liên, 6 máy thông tin PRC-25. Đây là trận vận động tiến công đầu tiên
của một đại đội bộ binh ta vào một cụm xe tăng địch, nhưng đã lập được chiến
công xuất sắc. Đơn Vị không có thương vong.
Sau khi diệt cụm xe tăng 14 chiếc, tiểu đoàn 96 phát triển tiến công đánh vào trận
địa pháo, phối hợp chặt chẽ với trung đoàn 64 chiến đấu. Đến 17 giờ trong ngày,
ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ, chi khu Củng Sơn. Thừa thắng, tiểu đoàn 96 cùng
với một bộ phận trung đoàn 64 phát triển sang Tuy Bình vây chặt yếu khu Phú
Đức. Đến 8 giờ sáng ngày 25 tháng 3, toàn bộ quân địch ở yếu khu Phú Đức đầu
hàng nộp vũ khí (trong đó có tên đại tá Đồng - Trung đoàn trưởng trung đoàn xe
tăng). Nhân dân nổi dậy truy lùng bắt tù binh, xây dựng chính quyền cách mạng,
hăng hái tham gia các công tác kháng chiến.
Quân địch ở Củng Sơn, Phú Đức bị ta tiêu diệt và sự xuất hiện của bộ đội chủ

lực làm cho bọn địch ở Thạnh Hội, hoảng hốt. Xe, người tranh nhau chạy qua cầu
phao làm cho cầu bị hỏng. Hàng chục xe bị lật chìm xuống sông và hàng trăm tên
địch bị chết.
Tiểu đoàn 96 sau khi hoàn thành nhiệm vụ phối hợp với trung đoàn 64 giải
phóng huyện Sơn Hòa và Tuy Bình, được lệnh của Sở chỉ huy tiền phương hành
quân thần tốc xuống khu vực Hòn Kén cùng với đại đội 201, đại đội 25, pháo 189
đánh từ phía sau đội hình địch. Các tiểu đoàn 9, tiểu đoàn 13, đại đội 377, đại đội
203, đội 7 được bổ sung đầy đủ đạn các loại, tranh thủ củng cố công sự vững chắc,
chuẩn bị cho trận chiến đấu quyết liệt ngày hôm sau. Đội quân Tây Nguyên xuống
đến Hòn Kén bị ta chặn lại đã bảy ngày. Chúng chẳng những bị ta tiêu diệt một bộ
phận sinh lực và phương tiện chiến tranh mà còn thiếu lương thực, thuốc men.
Trước tình hình nguy khốn đó, bọn chỉ huy cuộc rút lui phải liều mạng dồn toàn
lực mở đường máu tháo chạy.
Về phía ta: các đơn vị đã chiến đấu liên tục 7 ngày, sức khỏe giảm sút, quân số
mỗi ngày hao hụt không bổ sung kịp. Nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn phấn khởi quyết
tâm chiến đấu Tiểu đoàn 13 có 7 thương binh, tiểu đoàn 6 có 9 thương binh nhẹ
đều tình nguyện ở lại chiến đấu không chịu về tuyến sau. Đêm 24 tháng 3, các đơn
vị hầu như thức suốt đêm để đào công sự, chặt cây làm hầm kèo chống phi pháo,
lau chùi vũ khí. Một số đồng chí chuẩn bị nhiều loại súng để diệt địch. Khí thế
chuẩn bị chiến đấu sôi nổi. Các đơn vị đều hạ quyết tâm với chỉ huy tiền phương
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Mờ sáng ngày 25 tháng 3, các trận địa pháo địch ở Gò Muối, Phước Bình đồng
loạt bắn hàng trăm quả theo dọc đường số 5, Hòn Sặt, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh
Đông, Lương Phước, Phú Thứ. Rồi nhiều tốp máy bay A37, trực thăng vũ trang
đến ném các loại bom bi, bom khoan, phóng rốc-két làm cháy rất nhiều nhà của
nhân dân. Mặt chiến hào, trận địa hố bom, chồng lên hố pháo. Mặt đất bầu trời khu
vực Hòa Phong mịt mù lửa khói bom đạn, nồng nặc mùi thuốc súng. Dưới sự chi
viện của pháo binh và không quân, địch dùng 28 xe tăng, xe bọc thép triển khai
đội hình hàng ngang từ bờ sông Đà Rằng đến Mỹ Thạch Trung, bắn xối xả vào
phía sau trận địa đại đội 2, tiểu đoàn 9 ở đồi Cây Da Tân Mỹ. Tiểu đoàn 9 do đồng

chí Thuận làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Hân làm chính trị viên phó xuất kích
bắn cháy 3 xe tăng M41. Tiểu đoàn 189 dùng ĐKZ 75 ly và cối 82 ly bắn cháy và
bị thương một số xe tăng. Những chiếc xe tăng còn lại dạt ra bờ sông Đà Rằng
chạy xuống thị xã Tuy Hòa. Từ 10 giờ đến 12 giờ địch tổ chức nhiều đợt tiến công
từ trên xuống và từ thị xã lên. Mặc mưa bom, bão đạn, khói lửa ngút trời, cán bộ,
chiến sĩ tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 13 vẫn ngoan cường chiến đấu, dùng B40, B41,
ĐKZ đánh lui các đợt tiến công của địch, bắn cháy 7 xe tăng và xe bọc thép. Lần
đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các lực lượng vũ trang Phú Yên mặt đối
mặt với xe tăng M41, M48 của Mỹ, nhưng chiến sĩ ta vẫn không hề run tay, tiêu
diệt được nhiều xe tăng, đánh bại trận tiến công bằng xe tăng quy mô chưa từng có
của địch trên chiến trường Phú Yên. Đến 13 giờ, địch tập trung hàng chục xe tăng
và xe cơ giới chở bộ binh mở đường máu tháo chạy. Xe tăng, xe cơ giới địch chen
lấn nhau thoát thân, lật xuống mương dẫn thủy, đầm chết cả bộ binh chúng. Các
đơn vị của ta, một số bị thương vong, đạn hỏa lực hết nên địch đã tràn qua, chạy
thoát xuống Phú Lâm gần 500 chiếc xe các loại.
Đến 14 giờ, tiểu đoàn 13 xuất kích, dùng hỏa lực B40, B41 bắn cháy 3 xe tăng
và một số xe quân sự, làm nghẹt đường số 5. Hàng trăm xe cơ giới và hàng ngàn
tên địch bị ùn lại từ Mỹ Thạnh Trung. Tiểu đoàn 9, chia thành 3 mũi cắt địch ra
lần lượt tiêu diệt. Ta dùng 4 súng cối 82 ly, 7 súng cối 60 ly, 5 súng đại liên và
ĐKZ 75 ly bắn dồn dập vào đội hình dày dặc của địch. Các đơn vị vệ binh, trinh
sát, vận tải và cả thanh niên xung phong cũng tham gia chiến đấu, vây bắt địch.
Đến 14 giờ 30 phút, đại đội 25 và đại đội 201 tiến công từ phía sau đội hình địch
diệt diệt gần 100 tên, phá hủy 5 xe tăng M41 và 33 xe quân sự, bắt sống 500 tên
địch. Ta đánh mạnh từ phía sau làm cho địch càng hoảng loạn. Xe tăng, xe quân
sự vượt lên đè chết hàng trăm tên. Bọn địch phía trước đã bị ta chặn lại, chúng
phải bỏ xe, cởi vất quần áo lính, quân hàm chạy thoát thân. Những toán địch chạy
lùi về phía sau bị tiểu đoàn 96, đại đội 25, đại đội 201 tiêu diệt và bắt sống. Một số
địch lội qua sông Đà Rằng sang Tuy Hòa 2 bị chết trôi và bị đại đội 202 và các lực
lượng vũ trang Tuy Hòa 2 diệt và bắt. Một số địch chạy vào rừng đói phải ra đầu
hàng và bị du kích, nhân dân lùng bắt. Chỉ tính trong các trận ngày 25 tháng 3 ta

đã diệt hơn 400 tên địch và bắt hơn 1.200 tên. Đội phẫu tiền phương bắt được gần
100 tên địch. Đồng chí Kháng trợ lý chính sách bắt được 26 tên địch (có 15 sĩ
quan). Đến 17 giờ ngày 25 tháng 3 ta hoàn toàn làm chủ đường số 5, từ Cầu Tổng
lên đến giáp Củng Sơn.
Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương và tinh thần chiến
đấu dũng cảm phi thường, nhân dân Phú Yên đã làm nên chiến thắng lịch sử
đường số 5. Đập tan ý đồ co cụm chiến lược đưa quân ngụy Tây Nguyên về giữ
đồng bằng miền Trung.
Chỉ trong vòng 7 ngày (từ ngày 19 đến 25 tháng 3) quân dân Phú Yên đã hoàn
thành xuất sắc 2 nhiệm vụ: Tiêu diệt cứ điểm, chốt điểm, quét sạch địch ở 5 xã
Tuy Hòa 1, đánh lùi các đợt phản kích , làm chủ đoạn đường số 5 dài hơn 10 ki-lô-
mét. Từ thắng lợi này, quân dân Phú Yên bước ngay vào trận chiến đấu mới với
20.000 quân và hơn 2.000 xe quân sự địch từ Tây Nguyên đã di tản xuống đến
chân Hòn Kén (xã Hòa Phong), chỉ còn cách thị xã Tuy Hòa 30 ki-lô-mét.
Đường số 5 đã kết thúc số phận cuộc rút lui co cụm chiến lược của quân Tây
Nguyên.
Chiến thắng đường 5 Xuân 1975 của quân dân Phú Yên đã tiêu diệt và làm tan
rã toàn bộ đoàn quân địch từ Tây Nguyên xuống sau khi địch bị Sư đoàn 320 chủ
lực của ta tiêu diệt một bộ phận lớn ở Phú Bổn và trên đường 7; sau các đòn tiêu
diệt này, địch không còn lực lượng để tập hợp tại duyên hải miền Trung để phản
kích lại theo như kế hoạch của chúng;
+ Đây là chiến thắng có tác dụng to lớn, trong thời điểm cuối tháng 3/1975, quân
dân Phú Yên với vai trò chủ động của địa phương tổ chức tiêu diệt một lực lượng
lớn quân địch đã góp phần và tạo điều kiện cho quân chủ lực tập trung lực lượng
tiến công tiêu diệt địch trên các mặt trận trọng điểm, tiến tới giải phóng miền
Nam. Chiến thắng đường 5 làm suy sụp nặng tinh thần và lực lượng quân địch; cổ
vũ quân dân Phú Yên tiến công giải phóng toàn tỉnh.
Câu hỏi 4. Diễn biến và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975
ở tỉnh Phú Yên ?
Trước tình hình phát triển hết sức mau lẹ, ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ

Chính trị họp nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới" và hạ quyết tâm giải
phóng miền Nam trước mùa mưa 1975. Để hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm
vụ chiến lược trước mắt là nhanh chóng đánh chiếm Huế - Đà Nẵng, tiêu diệt quân
đoàn 1 ngụy không cho chúng co về giữ Sài Gòn, giải phóng các tỉnh Trung và
Nam Trung Bộ.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ở phía Bắc
ngày 25 tháng 3, quản và dân ta giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 29 tháng 3, ta làm chủ toàn bộ căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, giải phóng
hoàn toàn Quảng Nam - Đà Nẵng, hoàn thành việc tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ
lực lượng địch ở Quân đoàn 1 và Quân khu 1 ngụy. Thắng lợi của chiến dịch Huế
- Đà Nẵng có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, đã làm thay đổi hẳn so sánh
lực lượng về chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, tạo điều kiện thuận lợi cho quân
và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Ở Phú Yên: Sau khi quân dân ta tiêu diệt và bắt sống gần hết đạo quân Tây
Nguyên rút xuống, Quân khu đã ra lệnh tiếp cho Phú Yên: "Nhanh chóng củng cố
lực lượng, cùng với chủ lực đánh chiếm thị xã và giải phóng toàn tỉnh với thời
gian ngắn nhất".
Sau khi nhận được mệnh lệnh của Quân khu, ngày 26 tháng 3, đồng chí
Ông Văn Bưu trực tiếp đi với một đoàn cán bộ ngược đường số 5 để bắt liên lạc
với sư đoàn 320. Sư đoàn 320 thuộc quân đoàn 3 của Bộ, gồm có 3 trung đoàn bộ
binh và các đơn vị xe thiết giáp, pháo binh, do đồng chí Kiệt đại tá làm sư đoàn
trưởng. Sư đoàn 320 đã tham chiến ở Tây Nguyên, diệt chi khu quân sự Thuận
Mẫn, Buôn Ma Thuộc, Cheo Reo và Củng Sơn. Sư đoàn được lệnh của Bộ và
Quân khu 5 phối hợp cùng quân dân Phú Yên giải phóng thị xã Tuy Hòa và tỉnh
Phú Yên.
Các đơn vị lực lượng vũ trang Phú Yên sau chiến thắng lớn ở đường số 5,
phát triển thắng lợi, tiến sâu xuống các xã vùng ven thị xã, ép địch không cho
chúng nống ra để ta có điều kiện làm công tác chuẩn bị tiến công giải phóng thị
xã. Các đơn vị đều được bổ sung thêm quân số, đạn dược. Số tù binh ta bắt được
lúc này đã tăng lên rất nhanh. Trại tù binh Tuy Hòa 1 đã có 3.000 tên. Trại tù binh

Hòa Thuận có 1.200 tên. Tỉnh tranh thủ phân loại, giáo dục, tuyển chọn một số
nhân viên, kỹ thuật để sử dụng xe, pháo. Số xe quân sự chiến lợi phẩm tỉnh thu
được còn sử dụng tốt hơn 300 chiếc và gần chục xe tăng, xe thiết giáp.
Ngày 26 tháng 3, Ban chỉ huy tiền phương và Bộ tư lệnh sư đoàn 320 họp hạ
quyết tâm: Nỗ lực chuẩn bị để sáng ngày 1 tháng 4 năm 1975 tiến công giải phóng
thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh Phú Yên. Sư đoàn 320 và Sở chỉ huy tiền phương
khẩn trương làm công tác hiệp đồng chiến đấu.
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử, các đơn vị, các địa phương thực hiện
khẩu hiệu: Hành quân thần tốc như Quang Trung; chiến thắng giòn dã như Điện
Biên Phủ. Khí thế quần chúng nổi dậy như cách mạng tháng Tám. Các đơn vị
công binh của sư đoàn và tỉnh đội cùng hàng trăm nhân dân được huy động gấp rút
sửa đường số 7, đường số 5 để cơ giới ta hoạt động. Ủy ban quân chính được
thành lập gồm 200 người để tiếp quản thị xã, thành lập thêm các trại tù binh. Mọi
công tác chuẩn bị đến ngày 29 tháng 3 phải hoàn thành.
Về phía địch: để tăng cường lực lượng giữ thị xã Tuy Hòa chúng điều 2 tiểu
đoàn biệt động từ Khánh Hòa ra; dùng 1 tiểu đoàn cùng với đám tàn quân tiểu
đoàn 206 và 219 lên đóng từ ga Gò Mầm sang núi Một (xã Hòa Tân), lập tuyến
ngăn chặn từ xa. Một tiểu đoàn biệt động (cùng tiểu đoàn 235 bố trí từ cầu Bàn
Thạch vào Đèo Cả, giữ trục đường số 1. Tiểu đoàn 220 (thiếu) bố trí tây xã Hòa
Thắng. Tiểu đoàn 210 và tiểu đoàn 268 (thiếu) bố trí bắc thị xã. Trung đoàn 47 ở
khu vực tỉnh đường. Ở các huyện khác, chúng chủ trương dồn lực lượng về giữ
quân lỵ, chi khu.
23 giờ ngày 28 tháng 3, tiểu đoàn 189 phóng 20 quả hỏa tiễn H12 trúng phía
bắc tỉnh đường phá hủy một số trại lính, làm cho địch rất hoảng sợ trước loại vũ
khí mới của ta lần đầu sử dụng trên chiến trường Phú Yên. Chúng đôn đốc quân
lính củng cố, xây dựng thêm nhiều công sự tăng cường tuần tiễu, canh gác suốt
ngày đêm. Nhiều gia đình sĩ quan ngụy, tư sản đã di chuyển vào Nha Trang. Hàng
ngày có 4 tàu nhỏ trực tại cửa sông Đà Rằng, sẵn sàng đón bọn sĩ quan, ngụy
quyền tháo chạy.
10 giờ ngày 27 tháng 3, địch ở Xuân Phước rút chạy về La Hai, lực lượng Đồng

Xuân chặn đánh diệt một số. Đến 12 giờ, địch ở Xuân Lãnh rút chạy. Ta làm chủ
các xã Xuân Phước, Xuân Quang 2, tiếp tục truy lùng bọn ác ôn, bắt tàn quân, thu
chiến lợi phẩm.
Như vậy, đến ngày 27 tháng 3, ta đã giải phóng toàn bộ 3 huyện Sơn Hòa, Miền
Tây và Tây Nam cùng với 12 xã ở các huyện đồng bằng.
Thực hiện kế hoạch tiến công giải phóng thị xã Tuy Hòa, ngày 30 tháng 3 tiểu
đoàn 9 cùng trung đoàn 3 sư đoàn 3220 hành quân xuống Đèo Cả (đoạn Hảo Sơn)
chặn địch, không cho chúng chạy vào Khánh Hòa. Sau đó, tiểu đoàn 9 cùng đại
đội đặc công 24 hành quân lót trước tại xã Hòa Hiệp. Đến 3 giờ ngày 01 tháng 4,
các đơn vị đã chiếm lĩnh xong các vị trí quy định sẵn sàng chờ lệnh tiến công.5 giờ
sáng ngày 1 tháng 4 năm 1975, trận tiến công giải phóng thị xã Tuy Hòa bắt đầu.
Pháo 105 ly, súng cối 120 ly của ta đặt ở Hòa Thắng bắn mạnh vào các trận địa
pháo binh địch làm cho các trận địa pháo địch bị tê liệt. Cùng lúc xe tăng ta theo
đường số 7 nổ súng chi viện đắc lực cho tiểu đoàn 4 trung đoàn 2 đánh chiếm cầu
ông Chừ, cầu Đà Rằng và Nhạn Tháp.
Đến 5 giờ 45 phút, được sự chi viện của xe tăng tiểu đoàn 5, trung đoàn 2 đã
đánh chiếm khu vực ngã 5, diệt gọn địch từ tiểu khu kéo lên phản kích. Cùng lúc
tiểu đoàn 6 trung đoàn 2 đánh chiếm xóm Đạo, sân bay khu chiến, phát triển theo
đường 6, đường Lê Lợi chiếm ty ngân khố, khu công chức.
Ở hướng bắc thị xã, trung đoàn 1
(4)
sau khi tiêu diệt bọn địch ở khu Phước Hậu,
Minh Đức, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 nhanh chóng theo đường Ninh Tịnh đánh
chiếm tỉnh đường và ty cảnh sát. Tiểu đoàn 2 cùng đại đội Quyết thắng của thị
đánh chiếm trung đoàn bộ 47. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 1, phát triển đánh chiếm Gò
Đá và núi Chóp Chài bắt sống 40 tên địch.
Hiệp đồng chặt chẽ với các trung đoàn chủ lực, từ 5 giờ sáng ngày 1 tháng 4,
tiểu đoàn 96, đại đội 25 và một bộ phận của tiểu đoàn pháo hỗn hợp 189 đã tiến
công quyết liệt quân địch ở cứ điểm Núi Sầm, diệt và bắt 100 tên, thu 2 khẩu pháo
105 ly. Sau đó, quân ta phát triển tiến công bọn địch đóng ở Long Tường, xóm

Lẫm, Quy Hậu, Phước Khánh, Phước Hậu.
Đến 8 giờ sáng ngày 1 tháng 4, quân ta đã đánh chiếm, làm chủ toàn bộ thị xã
Tuy Hòa.
Tại Tuy Hòa 1: Cùng lúc với tiếng súng tiến công vào thị xã, tiểu đoàn 9 phối
hợp với tiểu đoàn 7, trung đoàn 3 đánh chiếm núi Một (xã Hòa Tân), ga Gò Mầm,
Cảnh Phước, Phú Lương diệt và bắt gọn một tiểu đoàn biệt động. Sau đó, quân ta
phát triển đánh chiếm xã Hòa Vinh chia cắt địch ở Phú Lâm và cầu Bàn Thạch,
làm cho hàng trăm xe và bọn địch ở thị xã chạy vào ùn lại rất đông, hỗn loạn từ
nam cầu Bàn Thạch đến đèo Cả. Lúc này, đại đội công binh 19, đội công binh K65
và 1 đơn vị bạn đã chốt sẵn ở chân đèo Cả nổ súng diệt hàng trăm tên thu và phá
hủy 120 xe quân sự, bắt sống hơn 200 tên.
4
Tiểu đoàn 13 tiến theo trục đường số 5, đánh chiếm thị trấn Phú Lâm, diệt và
bắt hàng trăm tên địch.
Đến 7 giờ sáng ngày 1 tháng 4, ta đã giải phóng hoàn toàn các xã Hòa Tân, Hòa
Vinh, Hòa Xuân, Hòa Bình. Bọn địch sống sót chạy dồn về phía bắc xã Hòa Hiệp
định tẩu thoát đường biển. Nhưng chúng bị tiểu đoàn 9 của tỉnh chặn đánh diệt và
bắt gần 100 tên. Đến 8 giờ, tiểu đoàn 9 phối hợp với 1 đại đội của tiểu đoàn 7 đánh
chiếm sân bay Đông Tác, dùng hỏa lực bắn chìm 1 tàu chở đầy bọn tàn quân chạy
trốn và sau đó vây bắt gọn 1 đại đội biệt động lẩn trốn ở thôn Phú Hiệp, thu 30
khẩu súng và 6 xe quân sự.
Trong khi ta đánh vào tỉnh đường, chiếc máy bay trực thăng dùng để chở bọn sĩ
quan cao cấp của Sở chỉ huy nhẹ Quân đoàn 2 chạy trốn bị đạn pháo ta phá hỏng.
Tên chuẩn tướng Trần Văn Cảm và tên đại tá Vi Văn Bình phải cải trang dân
thường chạy bộ vượt sông Đà Rằng sang phía nam lẩn trốn. Nhưng ngày 2 tháng 4
tên Cẩm và tên Bình bị du kích Hòa Hiệp và lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa
lùng bắt được và giao cho sư đoàn 320.
Tại các huyện Tuy An, Đồng Xuân, Sông Cầu lực lượng vũ trang và du
kích phối hợp với hướng trọng điểm nổ súng đánh chiếm từng khu vực, bao vây
quận lỵ, chi khu. Đến 9 giờ bọn địch các nơi không còn liên lạc được với tiểu khu.

Toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền ở các huyện Tuy An, Đồng Xuân, Sông Cầu đầu
hàng giao nộp vũ khí cho cách mạng. Những tên chạy trốn lần lượt bị quân dân địa
phương truy bắt và ra trình diện.
Như vậy đến 11 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1975, bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích và nhân dân Phú Yên đã tiến công quyết liệt, nổi dậy
đều khắp, diệt, bắt và làm tan rã toàn bộ lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, giải
phóng thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh Phú Yên.
Qua 21 ngày đêm liên tục tiến công và nổi dậy, quân dân Phú Yên đã diệt
bắt 40.430 tên địch (trong đó có 4.680 tên chết, 900 tên bị thương, bắt sống và ra
trình diện 34.850 tên). Trong số địch ta bắt sống có 1 chuẩn tướng, 2 đại tá 4 trung
tá, 12 thiếu tá, 71 đại úy, 204 trung úy và 269 thiếu úy.
Về đơn vị: Ta đã diệt gọn, bắt sống toàn bộ 10 tiểu đoàn bảo an, 10 đại đội
biệt lập, 10 trung đội pháo binh, 1 chi đoàn cơ giới. Ngoài quân địa phương, ta diệt
và bắt sống 6 liên đoàn biệt động, 2 trung đoàn xe tăng, xe thiết giáp, 1 liên đoàn
công binh, trung đoàn 40 hậu cứ bộ chỉ huy nhẹ của Quân đoàn 2, quân của 3 tiểu
khu (Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai), trung đoàn bộ 47, 2 tiểu đoàn biệt động từ
Khánh Hòa ra.
Về vũ khí và phương tiện chiến tranh: Ta thu được 12.563 khẩu súng các
loại (trong đó có 22 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 10 súng cối 106,7 ly, 40 súng cối
81 ly, 60 súng cối 60 ly, 80 súng đại liên, 12 súng trọng liên, 500 tấn đạn các loại,
185 máy bộ đàm PRC-25, 154 máy điện thoại, 3 bộ đài 15W, 6 bộ tổng đài 12 cửa,
134 xe quân sự, 10 xe tăng M41.
Ta phá hủy 2.000 xe quân sự các loại, có 180 xe tăng, xe bọc thép, 10 máy
bay.
Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trên đường số 5 đã đập tan ý đồ co cụm
chiến lược đưa quân ngụy Tây Nguyên về giữ đồng bằng miền Trung.
Chiến thắng giải phóng thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh Phú Yên đã góp phần
thúc đẩy nhanh đà tan rã, sụp đổ ngụy quân, ngụy quyền trong Quân khu cũng như
trong toàn Miền.Thắng lợi này trước hết là nhờ chủ trương và quyết tâm chiến
lược tài giỏi, sáng suốt của Bộ Chính trị, trung ương Đảng, là kết quả của đòn tiến

công quân sự mở đầu ở Buôn Ma Thuột, Trị Thiên - Huế, Đà Nẵng tình hình đó
tạo nên chiến lược áp đảo hết sức thuận lợi cho cuộc tiến công và nổi dậy giải
phóng toàn tỉnh Phú Yên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch lịch sử mang tên Bác kính yêu đã
toàn thắng. Chặng đường chiến đấu liên tục 30 năm của dân tộc ta, của quân dân
Phú Yên đã kết thúc thắng lợi. Thực hiện di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh muôn vàn kính yêu, quân dân ta đã mang lá cờ bách chiến, bách thắng của
Bác đến đích cuối cùng.
Câu hỏi 5. Bạn cho biết mục đích của cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết quả bước đầu của cuộc vận động này ở Phú
Yên ?
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người dân noi theo.
- Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số
23-CT/TW về việc toàn Đảng, toàn dân tổ chức đợt học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
để quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đợt học tập đã thu được nhiều kết quả tốt.
- Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị lần
thứ 12 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn
trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại Hội X của Đảng. Đây là một chủ trương
lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu
dài với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
- Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ quan
Trung ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại Hội
X của Đảng, Bộ Chính trị quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỷ niệm 77
năm ngày thành lập Đảng (03-02-2007) tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.

Mục đích của cuộc vận động là nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức và nhân dân về giá trị to lớn của tấm gương Hồ Chí
Minh. Tạo sự chuyển biến mạnhmẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và hành động
cách mạng theo tấm gương Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân góp phần đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,
Theo Ban chỉ đạo cuộc vận động, những tổng kết ban đầu cho thấy, tuyệt đại đa
số cán bộ, đảng viên và nhân dân đều nhiệt liệt hưởng ứng cuộc vận động với tinh
thần phấn khởi và thái độ đồng tình, nhất trí cao. Tuy nhiên, Cuộc vận thời gian
qua cũng có một số hạn chế: chương trình, kế hoạch tổng thể chưa được xây dựng
và thông qua kịp thời, nên công tác chỉ đạo gặp khó khăn, lúng túng; một số đồng
chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành chưa quan tâm đầy đủ, chưa nêu cao tính
gương mẫu và ý thức trách nhiệm trong Cuộc vận động; công tác tuyên truyền
chưa được quan tâm đúng mức…
Để đẩy mạnh Cuộc vận động trong thời gian tới, Ban chỉ đạo Cuộc vận động
cho rằng Cuộc vận động cần kết hợp ba nội dung: tuyên truyền sâu rộng tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và toàn xã hội; đề cao tinh thần tự
giác phấn đấu, rèn luyện cán bộ, đảng viên với sự tham gia góp ý, giám sát của
nhân dân; xây dựng và thực hiện nghiêm túc, có kết quả kế hoạch rèn luyện, phấn
đầu của từng cá nhân, đơn vị theo tấm gương của Bác Hồ, tạo chuyển biến tích
cực về đạo đức, lối sống trong toàn Đảng, toàn dân.
Ban chỉ đạo Cuộc vận động cũng đã thống nhất, thực hiện Cuộc vận động này
sẽ kéo dài tới năm 2011. Các mục tiêu, chương trình hành động của các năm cũng
đã được đưa ra. Cũng nhân dịp này, Báo điện tử Đảng cộng sản và Trung tâm
thông tin công tác tư tưởng thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương đã phát động cuộc
thi “Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Kết quả bước đầu của cuộc vận động này ở Phú Yên :
Qua 2 năm triển khai cuộc vận động trong toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân
trong tỉnh, ngày 26/11/2009, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tỉnh Phú Yên đã tổ chức Hội nghị biểu dương,
giao lưu, trao đổi kinh nghiệm 169 tập thể và cá nhân tiêu biểu trong thực hiện

Cuộc vận động.
Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” tỉnh Phú Yên khẳng định: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” đã thực sự đi vào cuộc sống và được các cấp ủy đảng,
chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận, hội, đoàn thể, đông đảo cán bộ, chiến sĩ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên, công nhân viên chức, học sinh, sinh viên và các
tầng lớp nhân dân đồng tình, tích cực hưởng ứng tham gia. Qua Cuộc vận động đã
xuất hiện ngày càng nhiều những cách làm hay, việc làm tốt, nhiều tập thể và cá
nhân tiêu biểu, xuất sắc trong học tập và làm theo gương Bác.
Tại Hội nghị, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động đã biểu dương 48 tập thể và 121 cá
nhân có nhiều thành tích tiêu biểu xuất sắc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, được cấp ủy, Ban chỉ đạo các huyện,
thị, thành phố và các Đảng bộ trực thuộc chọn cử tham gia Hội nghị. Chính các tập
thể và cá nhân tiêu biểu, cùng với hàng nghìn gương mặt khác đang tích cực “làm
theo” tấm gương đạo đức của Bác là những hình ảnh đầy sức thuyết phục về sự
thành công của Cuộc vận động.
Câu 6 : Trả lời : Cảm nhận của bản thân về danh nhân văn hoá thế giới , anh
hùng giải phóng dân tộc và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh :
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đại Hội đồng UNECO công nhận là danh nhân
văn hoá thế giới , anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỉ niệm ngày sinh lần thứ 100
của Người vì những đóng góp vô cùng to lớn trên con đường giải phóng dân tộc
,giải phóng giai cấp ,giải phóng con người . Hồ Chí Minh là biểu tượng vĩ đại của
sự khẳng định dân tộc , đã cống hiến cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp giải
phóng của nhân dân Việt Nam , góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân
tộc vì hoà bình , độc lập dân tộc ,dân chủ và tiến bộ xã hội . Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có nhiều có nhiều cống hiến quan trọng và đa dạng trong các lĩnh vực về văn
hoá , về giáo dục và nghệ thuật đã kết tinh truyền thống văn hoá mấy ngàn năm
của dân tộc Việt Nam , các lí tưởng của Người đã hiện thân những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định diện mạo văn hoá của mình và tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau . Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là di sản vĩ đại để lại cho

toàn Đảng ,toàn dân . Đó là tấm gương đạo đức trung với nước , hiếu với dân ; cần
kiệm ,liêm ,chính , chí công ,vô tư ; đặt lợi ích của nhân dân , của Tổ quốc lên trên
hết . Người đã trở thành một mẫu mực đạo đức không riêng cho nhân dân Việt
Nam mà còn cho cả nhân loại yêu chuộng hoà bình ,tiến bộ .
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Danh nhân Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng
nhưng luôn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta . Nhân loại trên con đường
vươn tới sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người và của mọi người , đã tìm
thấy trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh những giá trị trường tồn .

Câu 7: Trả lời : Cảm nhận của bản thân tôi về cuộc thi Tìm hiểu Những sự kiện
lịch sử Phú Yên ( 1930 – 1975 ) hướng đến kỉ niệm 80 năm thành lập Đảng , 65
năm thành lập nước , sinh nhật lần thứ 120 của Bác , 35 năm giải phóng Phú Yên
và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước là :
- Cuộc thi được tổ chức đã nhằm tôn vinh truyền thống cách mạng hào hùng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam , dấu son chói lọi trong pho sử
vàng 400 năm Phú Yên hình thành , phát triển và lịch sử dựng nước hàng nghìn
năm của dân tộc .
- Qua tìm hiểu các sự kiện quan trọng của Đảng bộ Phú Yên , đặc biệt là các
sự kiện tiêu biểu trong hai cuộc kháng chiến góp phần tăng cường giáo dục truyền
thống yêu nước ,truyền thống cách mạng cho cán bộ , đảng viên , đặc biệt là thế hệ
trẻ . Cuộc thi góp phần giúp cho Đảng bộ và quân dân , đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu
về tầm cao và chiều sâu lịch sử của quê hương Phú Yên từ khi có Đảng và ý nghĩa
của những sự kiện lịch sử tiêu biểu . Qua đó nâng cao lòng tự hào và củng cố
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước .
Qúa khứ vẻ vang , hiện tại xứng đáng . Đảng bộ và quân dân Phú Yên đang biến
chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh thành chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kì đổi mới và hội nhập . Trung thành
mục tiêu Cách mạng mà Đảng , Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn ; tất cả vì mục
tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh .
- Qua cuộc thi , tất cả chúng ta càng tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát

động và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước thu được những thành quả to lớn và
tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ,anh hùng giải phóng dân tộc ,danh nhân
văn hoá thế giới . Tôi càng tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng , sự hy sinh
to lớn của quân dân cả nước nói chung và Phú Yên nói riêng trong cuộc đấu tranh
giải phóng quê hương , đất nước ; sự nỗ lực của toàn Đảng , toàn quân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN .
- Bản thân tôi là người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam , là giáo viên giảng
dạy ở trường phổ thông , tôi cảm thấy mình cần phải nỗ lực phấn đấu ,tiếp tục tu
dưỡng ,rèn luyện bản thân , học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh , phải cố gắng học tập ,tìm tòi ,sáng tạo , trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và
có những cống hiến đặc sắc cho quê hương đất nước thời kì hội nhập và phát triển
mới.


BÀI DỰ THI TÌM HIỂU NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ PHÚ YÊN ( 1930 –
1975 ) - ĐỢT II .
Họ và tên : Phạm Mạnh Hùng
Năm sinh : 17/ 10 / 1973 .
Nghề nghiệp : Giáo viên
Đơn vị : Trường Tiểu học Số 2 Xuân Thọ 2 – Tx Sông Cầu – Phú Yên

×