Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.78 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tiếng gọi thiêng liêng, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi con người.
Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân khi chào đời và
trong quá trình phát triển luôn được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ các
thành viên trong gia đình.
Quan hệ gia đình là tổng hòa các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, giữa các
thành viên của gia đình có mối quan hệ gắn bó. Trong một gia đình thực sự bền
vững và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình đều tìm thấy sự thỏa mãn
nhu cầu về vật chất, tình cảm của mình. Bất cứ ai khi bước chân vào ngưỡng cửa
hôn nhân cũng đều mong muốn có cuộc sống viên mãn, hạnh phúc như thế.
Nhưng khi cả hai không còn nhìn chung về một hướng, những rạn nứt bắt đầu
xuất hiện. Ly hôn là giải pháp cuối cùng được đặt ra để kết thúc sự đổ vỡ của
tình yêu hoặc chấm dứt quan hệ gia đình khi không còn hạnh phúc.
Qua việc tổng hợp số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày
01-9-2000 đến ngày 30-9-2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ
việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình.
Trong đó số vụ việc về hôn nhân và gia đình là 875.282 (chiếm khoảng 30%
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 2

tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý). Đáng báo động hơn nữa là số liệu này đang
ngày một gia tăng, khái niệm về “ tổ ấm gia đình” thực sự có nguy cơ bị rạn nứt.
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước” (1884) Ph. Ăng ghen đã chỉ ra rằng: “ Trong 3 hình thái bất bình đẳng lớn
nhất của lịch sử nhân loại (bất bình đẳng chủng tộc, giai cấp, giới) thì quan hệ
bất bình đẳng giữa nam và nữ là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của
những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng”. Từ đó, ông đã xây
dựng lên quan điểm về giải phóng phụ nữ.


Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề phụ nữ, Đảng và Nhà nước ta luôn dành cho phụ nữ một sự quan
tâm đặc biệt. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc (Hiến pháp 1946), Nhà
nước đã ghi nhận quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới. Quyền bình đẳng đó
còn được thể hiện và được bảo vệ cả trong trường hợp đặc biệt, đó là khi vợ
chồng ly hôn.
Hiện nay, Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và 1 hệ thống pháp luật
tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong các vụ án ly hôn.
Điều này được thể hiện ở các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
các công ước quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ mà Việt Nam đã gia nhập. Tuy
nhiên, trên thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong các vụ
án ly hôn vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập.
Bảo vệ quyền của người phụ nữ không chỉ thực hiện ở việc ghi nhận
những quyền của họ trong pháp luật mà quan trọng là đảm bảo cho những quyền
đó được thực thi, trở thành hiện thực trong thực tế. Vì vậy việc bảo vệ quyền của
phụ nữ khi ly hôn là một việc làm vô cùng quan trọng đối với các nhà lập pháp,
của Nhà nước và của toàn xã hội. Hơn thế nữa, quyền đó nên được mở rộng và
thực thi áp dụng một cách hiệu quả hơn nữa trong tương lai.
Nhận thức được điều đó và mong muốn đưa ra những giải pháp, đề xuất
thực tế nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, em đã mạnh dạn chọn đề
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 3

tài” Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về bảo vệ phụ nữ là 1 mảng đề tài lớn được khá nhiều nhà
khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học Luật nói chung và
Luật hôn nhân gia đình nói riêng, nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ là
một 1 cơ sở quan trọng cho việc ban hành các quy định pháp luật nhằm thực hiện
tốt mọi chính sách về phụ nữ.

Hiện tại đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ
khác nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan về vấn đề bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ khi ly hôn như sau:
- Nhóm luận văn, luận án: Một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu là: “
Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000”, Luận văn tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004;” Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật
Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Phạm Thị
Ngọc Lan, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008, “Nguyên tắc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ Luật học, của Lê Thu Trang,
Khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2012. Những luận án, luận văn trên các
tác giả đã đi vào nghiên cứu về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và ly
hôn, đề cấp tới vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em.
- Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận
khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, NXB Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự
Việt Nam; Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số án dân sự và Hôn nhân gia đình,
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 4

NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001; Đinh Thị Mai Hương, Bình luận khoa
học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
nội…
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân, tạp
chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Luật học…Trong đó phải kể
đến bài viết của tác giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên tạp chí Luật học năm 2002 với

nhan đề “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích:
- Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn theo Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 là 1 vấn đề rất cần thiết. Đây không chỉ đơn thuần là
sự tổng hợp các quy định của pháp luật về bảo vệ người phụ nữ mà còn để nhằm
xem xét diễn biến, quá trình giải phóng phụ nữ theo từng thời kì, theo từng giai
đoạn lịch sử của nước ta, qua đó thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề
này.
- Chỉ ra được vai trò của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đối với
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn, qua đó tìm hiểu thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000.
- Đề ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng các quy phạm Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Phạm vi:
- Đề tài tương đối phức tạp, nội dung phong phú và có liên quan đến nhiều ngành
luật trong hệ thống pháp luật nước ta nhưng trong phạm vi khóa luận, em xin đề
cập những vấn đề sau: Khái niệm quyền con người, quyền của phụ nữ, khái niệm
ly hôn, phân tích việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thể hiện qua các quan
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 5

hệ nhân thân, quan hệ tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000.
- Qua những phân tích ở trên, xem xét vấn đề mở rộng phạm vi quyền của người
phụ nữ hơn nữa khi ly hôn và xem xét kiến nghị những điểm còn vướng mắc
theo quy định của pháp luật nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng của
Luật hôn nhân và gia đình vào việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly
hôn.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta về việc bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp,…
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ không chỉ là việc ghi nhận các quyền con
người của họ mà còn phải đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện . Với người
phụ nữ, điều này càng có ý nghĩa sâu sắc khi quyền của phụ nữ trên thực tế
thường xuyên bị xâm hại. Người phụ nữ chịu sự phân biệt đối xử là tình trạng
khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Vì lẽ đó, việc ghi nhận các quyền con
người của phụ nữ bằng pháp luật là hết sức cần thiết. Tuy nhiên vấn đề quan
trọng là việc bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện thì pháp luật lại giữ vai
trò quyết định bởi sức mạnh từ tính cưỡng chế của nó. Với ý nghĩa đó các quyền
phụ nữ được thể chế hóa thành pháp luật phải được tuyên truyền phổ biến sâu
rộng cho chính các chủ thể này để họ nhận thức được và trên cơ sở đó họ sẽ đủ
hiểu biết giác ngộ về các quyền của mình và nâng cao ý thức tự bảo vệ những
quyền mà pháp luật ghi nhận cho họ.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm 3 chương:
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 6

Chương I: Lý luận chung về bảo vệ quyền lợi người phụ nữ khi ly hôn theo quy
định Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
Chương II: Nội dung bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn theo quy định Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chương III: Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình về việc bảo vệ quyền
của phụ nữ khi ly hôn.
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 7


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
KHI LY HÔN THEO QUY ĐỊNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM NĂM 2000
1.1. Những vấn đề chung về quyền phụ nữ và bảo vệ quyền phụ nữ
khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm quyền phụ nữ
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực
như đạo đức, chính trị, pháp lý… Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa
về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo những góc độ
khác nhau. Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp
quốc thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu : “Quyền con người là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự cho phép và tự do cơ bản của con người”[OHCHR, Freequently Asked
Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation,
New York anh Geneva, 2006, trang 1].
Ở Việt Nam đã có nhiều tác phẩm phân tích về quyền con người. Trong tác
phẩm giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa
quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được
ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế
[Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quóc gia Hà
Nội, trang 38].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan điểm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ
yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 8

người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân

phẩm, bình đẳng xã hội, tự do…; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền,
những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Như vậy dù ở cấp độ nào hay góc độ nào thì quyền con người
cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn
của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Quyền con người là những
quyền vốn có của con người, không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới tính,
nguồn gốc quốc gia hay dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân
phận nào khác. Mọi người được hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng
và không có sự phân biệt đối xử. Những quyền này có mối quan hệ, phụ thuộc
lẫn nhau và không thể tách rời.
Nội dung quyền con người:
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung quyền con người. Do vậy,
việc phân loại nội dung quyền con người cũng khác nhau. Theo phương pháp
tiếp cận của khoa học pháp lý, quyền con người được chia thành các nhóm
chính:
+ Các quyền tự do dân chủ về chính trị: Quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã
hội, quyền bầu cử và ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do tín ngưỡng,
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, …
+ Các quyền dân sự: Quyền tự do đi lại cư trú trong nước, quyền ra nước ngoài
và từ nước ngoài về nước, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được an
toàn, bí mật về thư tín, điện thoại,…
+ Các quyền kinh tế xã hội: Quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở
hữu hợp pháp, quyền học tập, quyền thừa kế…
Khái niệm quyền phụ nữ cần phải được nghiên cứu trong mối liên hệ khăng khít
với khái niệm quyền con người. Bởi vì phụ nữ cũng như nam giới, họ phải được
hưởng tất cả những quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Vì vậy,
bảo vệ quyền phụ nữ là việc Nhà nước ghi nhận quyền phụ nữ đồng thời ban
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 9

hành những quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện các quyền phụ nữ

trên thực tế.
Khái niệm quyền phụ nữ không chỉ giới hạn như những quyền của nam giới mà
các nhà làm luật còn phải tính đến những đặc thù của nữ giới. Phụ nữ bình đẳng
với nam giới, là chủ thể tham gia các quan hệ xã hội nhưng với những đặc thù về
giới tính, phụ nữ là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất, họ bị
hạn chế về mặt sức khỏe hơn nam giới, họ gánh chịu tác động về mặt tâm lý một
cách nặng nề, sâu sắc và lâu dài hơn so với nam giới và họ thường khó có thể
vượt qua những biến cố hơn nam giới, bởi vậy người phụ nữ cần phải được quan
tâm và bảo vệ một cách đặc biệt. Do đó, việc xác định và ghi nhận các quyền con
người của họ, đặc biệt là đảm bảo trên cơ sở của tiêu chí bình đẳng là cần thiết.
Đây cũng chính là cơ sở để tiến hành bảo vệ quyền con người của phụ nữ.
1.1.2. Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ
khi ly hôn
Thứ nhất, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trước hết xuất phát từ
chính vai trò to lớn của họ đối với gia đình và toàn xã hội. Trong xã hội xưa và
nay, người phụ nữ góp 1 vai trò vô cùng quan trọng, và điều đó thể hiện ngay
trong gia đình với tư cách, trách nhiệm của người vợ, người mẹ, người con dâu
trong gia đình. Hơn thế, người phụ nữ còn là người của xã hội, họ còn có vai trò
to lớn với xã hội, đó là 1 lực lượng lao động to lớn trong xã hội. Chính vì vậy,
người phụ nữ không chỉ có vai trò rất quan trọng trong gia đình mà còn đối với
cả xã hội.
Nền kinh tế ra đời tạo điều kiện cho người phụ nữ khẳng định vai trò của
mình đối với nền kinh tế gia đình cũng như nền kinh tế xã hội. Phụ nữ trở thành
lực lượng sản xuất hùng hậu của xã hội và sự lệ thuộc của họ vào người chồng
về mặt kinh tế cũng dần hạn chế hơn. Nhìn nhận người phụ nữ dưới cuộc sống
hiện đại ngày nay thì phụ nữ là người sắp xếp, tố chức cuộc sống gia đình theo
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 10

suy nghĩ, nhận thức và bản năng khéo kéo của mình. Sẽ không sai nếu như
chúng ta dành trọn những lời khen ngợi, ca tụng bàn tay chăm bẵm của những

người bà, người mẹ, người chị trong gia đình. Họ là người vun vén và sắp xếp
cuộc sống gia đình được ổn thỏa, theo trật tự. Chính những người đã và đang làm
chồng cũng thầm cám ơn những người vợ của họ vì điều đó.
Người phụ nữ góp phần hỗ trợ cho sự thành đạt của người chồng và đảm
bảo cho người chồng 1 cuộc sống chu toàn nhất. Sau người mẹ, người vợ là
người sẵn sàng hi sinh vì người chồng nhất. Họ chu tất, thông minh, khéo léo.
Người chồng là người “xông pha trận mạc” trong công cuộc kiếm tiền thì người
vợ lại là người xây đắp, vun vén cho gia đình. Mỗi người chồng khi trở về nhà
đều được nhìn thấy cảnh cơm ngon, canh ngọt, con cái nhà cửa sạch sẽ, tinh
tươm. Tạo hóa đã ban cho người phụ nữ những đức tính mà người đàn ông hiếm
có, đó là khả năng nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó, và một bàn tay chăm sóc
nhẹ nhàng, chu toàn. Đó là chỗ dựa vững chắc để những người chồng yên tâm
kiếm tiền, là nơi đi về bình yên và hạnh phúc nhất của những người đàn ông.
Người phụ nữ còn là người có vai trò to lớn trong các hoạt đồng xã hội, họ
là người gắn kết xóm giềng, làng xóm, anh em, bạn bè, gia tộc. Họ giải quyết các
mối quan hệ to nhỏ, thân sơ làng tạo nên cuộc sống yên ổn, vui vẻ từ bên trong
gia đình đến bên ngoài xã hội.
Thiên chức làm mẹ là thiên chức chỉ dành riêng cho người phụ nữ, dù ở
bất kì chế độ xã hội nào cũng không thể thay đổi quy luật tự nhiên ấy. Đó là một
thiên chức vô cùng cao quý trong việc duy trì nòi giống của toàn nhân loại. Trên
cơ sở lý luận và nghiên cứu thực nghiệm, các nhà tâm lý học và giáo dục học đã
kết luận rằng, ảnh hưởng của người mẹ đối với tình cảm, nhân cách và sự nghiệp
của người con lớn hơn rất nhiều so với người cha. Người phụ nữ luôn là đối
tượng có đời sống nội tâm vô cùng sâu sắc, hiểu hết tâm tư, nguyện vọng của các
con hơn ai hết, do vậy việc giao con cho người phụ nữ chăm sóc nuôi dưỡng một
mặt đảm bảo quyền của họ, một mặt đảm bảo sự phát triển bình thường về mặt
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 11

tâm sinh lý của các con. Như vậy, bảo vệ bà mẹ nhằm đảm bảo cho gia đình thực
hiện tốt các chức năng xã hội của nó và có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp phát

triển nguồn nhân lực của đất nước.
Thứ hai, mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của người phụ nữ trong
xã hội nhưng những tư tưởng lạc hậu, ăn sâu bám rễ từ thời phong kiến để lại về
hôn nhân gia đình, về giới, về tư tưởng ”xuất giá tòng phu”, “trọng nam khinh
nữ” vẫn còn hiện diện trong gia đình Việt Nam hiện đại. Dù kinh tế xã hội của
đất nước đã có những bước chuyển không hề nhỏ nhưng những tư tưởng lạc hậu
ấy vẫn tiềm ẩn và không hề mất đi, đặc biệt là ở những vùng nông thôn, dân tộc.
Điều cần làm là chúng ta cần phải mở ra một con đường ngắn nhất để có thể đầy
lùi hẳn những tư tưởng cổ súy, bất bình đẳng này. Hơn thế nữa, một thực tế cho
thấy kết quả Điều tra lao động 2009 cho thấy thu nhập bình quân của lao động
nữ chỉ bằng 75% nam giới. Theo điều tra mức sống hộ gia đình 2008, mặc dù
61% doanh nghiệp hộ gia đình phi nông nghiệp do phụ nữ điều hành, nhưng
doanh thu trung bình hàng tháng chỉ bằng 30 - 50% so với doanh nghiệp do nam
giới điều hành. Việc thu nhập của phụ nữ nhìn chung thấp hơn so với nam giới
càng tác động không nhỏ tới tiếng nói của họ trong gia đình.
Thứ ba, sau khi ly hôn, vấn đề ổn định cuộc sống là một vấn đề hết sức nan
giải được đặt ra với các cặp vợ chồng mà trước hết là người phụ nữ. Bởi vì, phụ
nữ là một bộ phận đặc biệt của xã hội, khả năng tự lập không thể cao bằng những
người đàn ông. Hơn nữa họ lại là bộ phận rất nhạy cảm. Trên thực tế họ là người
quyết định ly hôn hay là người phải ly hôn thì họ vẫn phải gánh chịu hậu quả tâm
lý rất nặng nề trong một thời gian. Một số phụ nữ đã cho biết về tâm trạng khi ly
hôn: “Tôi đang trong thời gian chờ chồng nộp đơn ra toà án để ly hôn sau hai
năm kết hôn và mười năm quen nhau. Để chấp nhận lời đề nghị ly hôn của
chồng một cách thanh thản như hiện nay, tôi đã phải trải qua một thời gian dài
ngụp lặn trong đau khổ, cũng như đã nỗ lực rất nhiều để cứu vãn cuộc hôn
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 12

nhân”, “Thời điểm sau ly hôn, tôi gần như bị stress, mặc dù đã chuẩn bị tâm lý
từ trước đó gần nửa năm, nhưng tôi vẫn không quen với việc tự tay mình gánh
vác công việc của một người đàn ông. Và nhiều lúc nghe con nhắc tới bố, tôi đã

bật khóc, tôi nghĩ rằng, đây liệu có phải là quyết định sai lầm. Nhưng thời gian
đã giúp tôi cân bằng cuộc sống, và hiện tại, mẹ con tôi hạnh phúc vì điều đó”.
[tâm sự của chị Mai Hương và chị Minh Anh- Hà Nội trên báo Bạn trẻ cuộc
sống, đăng ngày 21/05/2013]
Thứ tư, pháp luật quy định nam nữ bình đẳng trong việc kết hôn thì đương
nhiên, họ cũng được bình đẳng trong việc ly hôn. Tự do yêu cầu ly hôn là quyền
nhân thân của vợ chồng được pháp luật ghi nhận. Vậy bảo vệ quyền phụ nữ
trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn còn là phải bảo vệ quyền nhân
thân của người phụ nữ và cụ thể trong trường hợp này là bảo vệ quyền yêu cầu ly
hôn của họ.
Thứ năm, trên thực tế, vấn đề tài sản và xác định tài sản khi có tranh chấp
xảy ra là một vấn đề hết sức phức tạp, nhất là đối với việc xác định tài sản của vợ
chồng khi ly hôn, theo đó, một mặt chúng ta phải vừa đảm bảo quyền chính đáng
của người chồng, mặt khác phải ra sức bảo vệ cho người phụ nữ- nhóm xã hội
đặc biệt. Vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn sẽ rất phức tạp nếu người chồng là
người trụ cột trong việc kiếm tiến, công sức đóng góp của họ sẽ không khó để
xác định thì vai trò của người vợ trong gia đình, là người chăm sóc, đảm đương
tất cả mọi việc trong gia đình thì công sức của họ lại rất khó xác định, định
lượng ra vật chất. Mặc dù chúng ta luôn thừa nhận công sức của người phụ nữ
đối với gia đình không hề nhỏ nhưng vấn đề xác định nó lại vô cùng khó khăn.
Họ có thể lực yếu hơn nhưng đảm đương nhiều việc hơn và đa số là những việc
không thể kiếm ra tiền và không thể quy đổi thành tiền, vậy ngoài pháp luật thì
sẽ ai chứng minh công sức đóng góp của họ một cách an toàn và đầy đủ nhất?
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 13

Như vậy, với những lý do trên đây, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi
ly hôn là một việc vô cùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với toàn xã hội. Từ
đó định ra được các phương diện cần bảo vệ họ trong giải quyết ly hôn một cách
cụ thể, rõ ràng hơn.
1.2. Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly

hôn ở Việt Nam
Phụ nữ chiếm một nửa nhân loại và là lực lượng lao động quan trọng góp
phần phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Trải qua hàng
trăm năm tranh đấu, ngày nay, quyền của phụ nữ đã được thừa nhận và đề cao
trên phạm vi thế giới. Việc quy định quyền của phụ nữ trong pháp luật là sự ghi
nhận về mặt pháp lý đối với vai trò của nữ giới trong xã hội, đây là bước tiến
trong sự nghiệp giải phóng con người nói chung và giải phóng phụ nữ nói riêng.
Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ trong hôn nhân nói chung, trong vấn đề ly
hôn nói riêng đã được quy định trong một vài điều luật của các Bộ luật thời
phong kiến (tiêu biểu là Bộ Luật Hồng Đức) nhưng quyền lợi thực sự của họ
được ghi nhận rõ ràng là từ khi nhân dân ta giành được độc lập từ tay thực dân
phong kiến.
1.2.1. Vấn đề quyền của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến
1.2.1.1. Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức)
Ngay từ xã hội phong kiến, người phụ nữ cũng có thể yêu cầu ly hôn (đâm
đơn kiện). Điều 322 - "Quốc triều hình luật" ghi: "Con gái thấy chồng chưa
cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ", nếu "con rể lăng mạ cha mẹ
vợ, đem thưa quan, cho ly dị". Trong hôn nhân phong kiến, người vợ có một số
quyền nhất định. Họ được phép đến nhà đương chức xin ly hôn trong trường hợp
chồng không chăm nom, săn sóc vợ trong năm tháng (một năm - nếu vợ đã có
con). Nếu vợ đem đơn đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly hôn.
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 14

Nghĩa là, người chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì người vợ cũng không
buộc phải làm tròn bổn phận của mình. Quy định này không có trong bất kỳ bộ
luật nào của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật trước hay sau triều Lê.
Ngay cả khi luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan, điều
310 quy định "Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều "thất xuất" mà người chồng ẩn
nhẫn không bỏ thì phải tội biếm tùy theo nặng nhẹ". Tuy nhiên, sẽ không thể ly
hôn được nếu như vi phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở trong ba trường

hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu
có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời,
khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt
ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người
vợ có quyền đòi chia một nửa số con. Điều 167 - Hồng Đức thiện chính thư - quy
định rõ hình thức thuận tình ly hôn: “Giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp
đồng, người vợ và người chồng mỗi bên giữ một bản làm bằng”. Vậy là, bên
cạnh sự ưng thuận của cha mẹ hay các bậc tôn thuộc rất quan trọng thì sự ưng
thuận của hai bên trai - gái cũng là một thành tố được nhà lập pháp chú ý đến.
Theo quy định của Bộ luật Hồng Đức, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau
khi ly hôn hoàn toàn chấm dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà
không bị pháp luật ngăn cấm.
Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng
(gồm cả điền sản và tư trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Trong
trường hợp có lỗi; thường thì tự ý người vợ không đem theo tài sản hoặc trong
một vài trường hợp luật định người vợ buộc phải để lại tài sản đó cho chồng,
người vợ mà đi gian dâm, tài sản phải trả về cho chồng.
Ngoài ra, việc phân chia và thừa kế tài sản còn tùy thuộc vào việc vợ
chồng có con hay không có con. Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375
và 376 (Quốc triều hình luật). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn:
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 15

Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ
gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài
sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn,
tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.
Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do bố mẹ dành cho
được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để
lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng/vợ hoặc người thừa tự bên chồng/vợ giữ). Một
phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời (nhưng không có quyền sở

hữu). Khi người vợ/chồng chết, thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên
chồng.
Đối với tài sản do vợ chồng tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần
dành cho vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau:
1/3 dành cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để
phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình
bên chồng. "Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền
sản. Song trong "Hồng Đức thiện chính thư"[sách ghi chép về những chính sách
tốt thời Hồng Đức biên soạn từ năm 1541- 1564] tại điều 258-259 đã không gạt
hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. Đến như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai,
người sống được một phần làm chỗ ở, người chết được một phần làm nơi tế lễ.
Còn đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự và theo lệ dân trả nợ miệng, còn
thừa bao nhiêu cũng chia cho vợ con. "Của nổi" ở đây được hiểu là vàng, bạc,
lụa, vải, thóc lúa, giường chiếu, đồ sứ, mâm thau Như vậy, pháp luật đã ghi
nhận một cách bình đẳng sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ
chồng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra.
Nhìn chung, dưới chế độ phong kiến, pháp luật hầu như không bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng. Tuy nhiên, trong bối
cảnh của xã hội phong kiến, chúng ta ghi nhận những điểm sáng của Quốc triều
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 16

Hình luật với những yếu tố tiến bộ bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Đó là
những quy định họ có quyền có tài sản riêng; khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản
được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và
chia đôi tài sản chung của hai người. Đáng tiếc, những nội dung tiến bộ này
không được kế thừa trong Bộ Luật Gia Long mà chúng ta sẽ thấy dưới đây.
1.2.1.2. Bộ luật Gia Long
Khác với quy định của Quốc triều hình luật, luật Gia Long quy định: ở nhà
chồng, tài sản làm ra thuộc sở hữu của nhà chồng, khi chồng còn sống, người vợ
không có quyền lợi kinh tế, khi chồng chết, tài sản không thuộc về họ mà thuộc

về con cái và dòng họ nhà chồng…
Điều 15 Xuất thê Hộ Luật hôn nhân có quy định:
“ Phàm dù vợ ở trong 7 điều nên bỏ, cũng không nên bỏ, và đối với chồng không
có trạng thái nghĩa tuyệt, mà tự tiện bỏ vợ thì phạt 80 trượng. Dù phạm 7 điều là
không có con, dâm dật, không thờ cha mẹ chồng, nói nhiều, trộm cắp, ghen
tuyên, ác tật. Nhưng có 3 điều không bỏ để tang 3 năm, trước nghèo sau giàu, có
người cưới cũng không ưng mà bỏ thì giảm 2 bực tội, cho về đoàn tụ.”
Nghĩa tuyệt là ân tình chồng vợ đi trái ngược nhau làm cho mất đứt nghĩa. Điều
luật này quy định cũng tương tự như trong Quốc triều hình luật. Tuy người vợ
phạm thất xuất nhưng cũng không được bỏ khi người vợ ở trong tam bất khứ.
Nếu người chồng thẳng tình bỏ thì giảm hai bực, phạt 60 trượng cho về đoàn tụ.
- Nếu phạm nghĩa tuyệt nên ly dị mà không ly dị thì phạt 80 trượng. Nếu vợ chồng
không cùng ăn ý vui vẻ mà cả hai muốn ly dị thì không có tội (tình thế đã đến ly
dị khó kéo lại hòa hợp). Quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chí của cả hai vợ
chồng, đồng thời cũng thể hiện sự bình đẳng của người phụ nữ với chồng trong
việc yêu cầu ly hôn.
- Nếu chồng không có ý ly dị mà vợ theo trai, chồng bỏ thì phạt vợ 100 trượng.
Người đàn bà đáng nghĩa phải theo chồng, chồng có thể bỏ vợ nhưng vợ thì
không được tự mình tuyệt giao với chồng. Quy định này thể hiện sự bất bình
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 17

đẳng của người phụ nữ trong việc yêu cầu ly hôn khi việc ly hôn không có đầy
đủ ý chí của hai bên. Như vậy, quyền lợi của người phụ nữ trong trường hợp này
không được đảm bảo.
- “Trường hợp chồng đem gả bán, nhân đó vợ trốn tự cải giá thì phạt thắt cổ
(giam chờ). Nếu chồng bỏ vợ đi biệt trong 3 năm, trong thời gian ấy, không báo
quan biết, rồi bỏ đi thì bị phạt 80 trượng, tự ý cải giá thì phạt 100 trượng. Bể
thiếp thì giảm hai bực…”
- Trường hợp chồng đi biệt xứ xa không tin tức, không biết sống chết thế nào,
cũng phải đợi 3 năm mới báo quan biết, để xử theo lý. Nếu trong hạn 3 năm

không báo quan mà trốn đi thì phạt 80 trượng, tự tiện cải giá thì phạt 100 trượng.
Việc hồng đi không về và việc phản bội chồng hoàn toàn khác nhau. Nhưng nếu
còn trốn thì có thể trở về, chứ còn cải giá thì là chấm dứt rồi. Cho nên tội có
nặng nhẹ khác nhau.
1.2.2. Vấn đề quyền của người phụ nữ trong tập dân luật giản yếu, Bộ dân
luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936)
Thời Pháp thuộc, với mục đích phục vụ cho chính sách cai trị, thực dân Pháp đã
chia đất nước ta thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với tổ chức bộ máy
nhà nước và hệ thống pháp luật riêng.
Tại Nam Kỳ đã áp dụng quy định của Bộ Dân Luật giản yếu 1883 quy định
quyền xin ly hôn chỉ do người chồng quyết định, người vợ không có quyền xin
ly hôn nhưng được áp dụng chế độ “tam bất khứ” để hạn chế quyền xin ly hôn
của người chồng. Chồng không có quyền xin bỏ vợ nếu như người vợ đã để tang
nhà chồng ba năm, khi lấy nhau nghèo mà về sau giàu có, người vợ không còn
nơi nương tựa để trở về nhà.
Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936) đã quy định cho vợ
chồng được tự do lập hôn ước, chế độ tài sản pháp định chỉ đặt ra khi vợ chồng
không lập hôn ước. Theo chế độ này, tài sản chung của vợ chồng bao gồm tất cả
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 18

của cải, hoa lợi của chồng cũng như của vợ, không kể tài sản đó được tạo ra
trước hay trong thời kì hôn nhân.
Mặc dù trong chế độ cũ, quan hệ vợ chồng nói chung và quan hệ tài sản
giữa vợ chồng nói riêng là quan hệ bất bình đẳng song pháp luật cũng đã bắt đầu
đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với
chồng.
1.2.3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong pháp luật Việt Nam
từ sau Cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng tám thành công đã giải phóng dân tộc ta thoát khỏi ách
đế quốc và phong kiến, đồng thời nó cũng là cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh xóa bỏ dần chế độ hôn
nhân gia đình phong kiến lạc hậu, cổ hủ, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình
mới, tiến bộ. Nhưng việc xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến không
phải dễ dàng mà nó đòi hỏi cả một quá trình lâu dài. Chính vì vậy sau cách mạng
tháng tám, Nhà nước ta chưa ban hành một đạo luật mà chỉ mới thực hiện phong
trào “ vận động đời sống mới” nhằm vận động nhân dân tự nguyện xóa bỏ những
tục lệ cũ về hôn nhân gia đình. Đây là cuộc cách mạng về tư sản- văn hóa, do đó
ngay một lúc không thể dùng văn bản pháp luật hoặc mệnh lệnh để cưỡng bức.
Theo sắc lệnh 10/10/1945, từ 1945 đến 1950 về cơ bản chúng ta vẫn vận
dụng những văn bản pháp luật cũ có chọn lọc để giải quyết những vấn đề về hôn
nhân gia đình: trong đó có ly hôn và giải quyết hậu quả của nó. Năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đã xác nhận quyền
bình đẳng giữa nam và nữ trên mọi phương diện. Điều 9 Hiến pháp đã quy định
“ Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. Đây chính là cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc đấu tranh xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong
kiến, đặt cơ sở cho việc xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình mới dân chủ và
tiến bộ.
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 19

Để đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn đầu sau khi giành
được chính quyền trong khi chưa xây dựng được Bộ luật về hôn nhân gia đình,
Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh quy định về hôn nhân và gia đình: Sắc lệnh
số 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159- SL ngày 17/11/1950.
Vấn đề ly hôn được Nhà nước ta quy định rõ tại Sắc lệnh số 159- SL ngày
17/11/1950. Sắc lệnh gồm 9 điều chia thành 3 mục: Duyên cớ ly hôn, thủ tục ly
hôn và hiệu lực của việc ly hôn. Cụ thể, tại mục đầu tiên về “ Duyên cớ ly hôn”
quy định cụ thể:
- Tòa án có thể cho phép vợ hoặc chồng ly hôn trong những trường hợp sau (Điều
2): Ngoại tình; một bên can án phát giam; một bên mắc bệnh điên hoặc bệnh khó
chữa khỏi; một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng; vợ

chồng tính tình không được hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể sống chung
được.
Sắc lệnh này thực sự đã thực hiện nguyên tắc tự do hôn nhân: công nhận quyền
tự do kết hôn và tự do ly hôn. Ở đây, nhà làm luật không còn phân biệt duyên cớ
ly hôn cho riêng vợ hay riêng chồng mà gộp vào làm một với cách dùng từ “một
bên”, thể hiện rõ sự bình đẳng giữa đôi bên vợ và chồng, xóa bỏ sự bất bình đẳng
trong các Bộ luật cũ. Đây thực sự là một bước ngoặt lớn trong chế độ hôn nhân
và gia đình thời bấy giờ.
- Vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn (Điều 3)
Đây cũng là một điểm tiến bộ trong sắc lệnh số 159- SL ngày 17/11/1950 , như
vậy, nhà làm luật đã cho phép vợ chồng có thể xin ly hôn theo như đúng ý chí
của họ mong muốn, mà không phải chịu một sự ràng buộc nào về điều kiện cho
đôi bên được ly hôn, duy nhất là đôi bên, với ý chí tự nguyện, xin thuận tình ly
hôn. Theo đó, với vấn đề thuận tình ly hôn này các nhà làm luật đã đơn giản hóa
thủ tục ly hôn, cụ thể: “Khi xét xử ly hôn, tòa án áp dụng các thủ tục thông
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 20

thường như xử các việc hộ khác; trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn,
tòa án tiến hành hòa giải không thành và nếu sau đó một tháng, vợ chồng vẫn
giữ nguyên ý định xin ly hôn, thì tòa án sẽ chính thức công nhận việc thuận tình
ly hôn” ( Điều 4).
Ngoài ra, sắc lệnh này còn bảo vệ phụ nữ và thai nhi trong việc ly hôn, cụ
thể: nếu người vợ đang có thai thì vợ hay chồng có thể xin tòa án hoãn sau khi
sinh nở mới xử lý việc ly hôn (Điều 5). Đây là điểm mới mà các bộ luật cũ
không hề đề cập tới.
Sắc lệnh 97 và sắc lệnh 159 đã đề ra được một số nguyên tắc chung tiến bộ góp
phần đáng kể vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, giải phóng
phụ nữ, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước tình hình phát triển của xã hội, cuộc kháng chiến chống Pháp đã
hoàn toàn thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã

hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập. Đó là cơ sở vững chắc của
chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, sắc lệnh 97 và sắc lệnh
159 với những hạn chế của mình đã không còn đáp ứng được những yêu cầu
trong tình hình mới. Do đó, cần phải xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình cho
phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, việc cần thiết là phải ban hành luật hôn
nhân gia đình mới là cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh xóa bỏ tận gốc rễ những
tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến. Nhận thức được điều
đó, Đảng và Nhà nước ta, tại kỳ họp Quốc hội khóa I ngày 29/12/1959 Luật hôn
nhân gia đình Việt Nam đã được thông qua và ngày 13/1/1960 được công bố.
Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nhà nước Việt Nam được ban hành
năm 1959 chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng, đó là chế độ cộng đồng
toàn sản. Quy định này đã thực sự bảo đảm được quyền lợi của người vợ trong
gia đình về tài sản. Tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 21

phải thuộc sở hữu của vợ và chồng: "Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ
và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới"( Điều 15).
Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, kinh tế - xã hội phát triển, tài sản
của công dân trở nên phong phú, đa dạng về giá trị sử dụng thực tế và giá trị tài
sản. Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, để bảo vệ tốt hơn
quyền của người phụ nữ, tạo môi trường pháp lý bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
tài sản giữa vợ và chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành,
đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm quyền sở hữu đối với tài sản
chung và tài sản riêng. Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng, tạo điều kiện cho
vợ, chồng được tự định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của
bên kia.
Luật hôn nhân gia đình 1959 và Luật hôn nhân gia đình 1986 đã có những
bước tiến đáng kể trong việc bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn, cụ thể:
Về quyền yêu cầu xin ly hôn, cả hai luật đều quy định bình đẳng giữa hai vợ

chồng. Một trong hai người hoặc cả hai người nhận thấy tình trạng hôn nhân
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được thì có thể nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án nhân dân sẽ xử cho ly hôn.
Về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn, cả hai luật đều đưa ra quy định khá giống
nhau: Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã
sinh con được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn
của người vợ (Điều 41 Luật hôn nhân gia đình 1986).
Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn: Các quy
định về việc này giữa hai luật cũng khá giống nhau và đều được quy định trên cơ
sở đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ và chồng và bắt buộc phải xem xét tới lợi
ích của con cái. Nội dung chính bao gồm:
- Khi ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo
dục phải căn cứ vào quyền về mọi mặt của con.
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 22

- Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ. Người không nuôi
giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn
nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Tòa án
nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí
tổn đó.
- Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức
đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Các quy định về việc chia tài sản sau khi ly hôn cũng đc xây dựng trên cơ sở
bình đẳng giữa vợ và chồng. Nhà làm luật đã nhấn mạnh thêm việc bảo vệ quyền
cho người phụ nữ khi ly hôn trong quy định: “ Khi chia tài sản, phải bảo vệ
quyền lợi của người vợ…”
• Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:
Cùng với sự phát triển kinh tế, các mối quan hệ trong xã hội cũng phức tạp
hơn. Đến thời điểm này, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã hoàn thành sứ
mệnh của mình, nhường chỗ cho sự ra đời của Luật hôn nhân gia đình mới, tiến

bộ hơn. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa và phát triển
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định rất rõ quyền bình đẳng nam nữ,
bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em. Ngay tại chương I Luật hôn nhân và gia
đình”Những vấn đề chung” quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân
và gia đình. Hầu hết các nguyên tắc này đều ghi nhận quyền của người phụ nữ
với tư cách là thành viên trong gia đình . Đó là:
+ Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng;
+ Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số kế hoạc hóa gia đình;
+ Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con.”
+ Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em , giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Có thể thấy rằng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có sự phát triển
hơn so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Các nguyên tắc lần đầu tiên
được quy định rõ ràng, cụ thể trong một điều luật, thể hiện rõ nét quyền của phụ
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 23

nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong các quy định về các chế định
cụ thể, quyền của người phụ nữ được quy định khá chi tiết:
Khoản 1 điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thể hiện sự bình
đẳng giữa vợ và chồng trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Nhà nước
bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau
thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì
quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích
của hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó có thể có lợi cho vợ chồng, con cái và
các thành viên khác trong gia đình. Quyền tự do ly hôn là quyền chính đáng và
bình đẳng giữa vợ chồng.
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp vợ có thai
hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu
xin ly hôn” (Khoản 2, Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình). Bảo vệ quyền lợi
người phụ nữ, nhà làm luật đã hạn chế quyền ly hôn của người chồng.

- Đảm bảo cho người phụ nữ khi giải quyết vấn đề chia tài sản chung theo luật
định. Khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình quy định “ Việc chia tài sản
chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào
việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia
đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên
bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình…”.
Như vậy bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trở thành nguyên tắc chung khi chia
tài sản vợ chồng trong ly hôn.
Bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ, Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định quyền ưu tiên việc nuôi con cho người mẹ trong trường hợp ly
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 24

hôn” Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các
bên không có thỏa thuận khác” (Khoản 2 Điều 92). Pháp luật trước năm 1945 và
pháp luật chính quyền miền Nam đã không quy định vấn đề này. Ưu tiên người
phụ nữ nuôi con khi ly hôn chỉ được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình
năm 1959:” người vợ sẽ nuôi con nếu con còn bú”. Kế thừa luật năm 1959, Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định tương tự. Nhưng quy định trong
luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là phù hợp hơn cả bởi vì thiên chức làm mẹ
gắn liền với việc nuôi con.
1.2.4. Một số điểm mới trong dự thảo luật hôn nhân và gia đình
Việc sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 được đặt ra trong
bối cảnh quyền con người được tôn trọng và bảo vệ một cách cao nhất trong rất
nhiều lĩnh vực ở các nước trên thế giới. Do đó, thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn
quyền con người là yêu cầu cấp thiết trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình
sửa đổi.

Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành mặc dù đã điều chỉnh có hiệu quả nhiều
quan hệ về hôn nhân và gia đình phát sinh trong thực tiễn, nhưng vẫn còn những
hạn chế, bất cập như: Một số quy định liên quan đến thực hiện quyền con người,
đặc biệt là về bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất và không
khả thi.
Về ly hôn, để tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án giải quyết trường hợp người bị tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ, dự thảo Luật đưa
ra quy định cho phép cha, mẹ, người thân thích khác của người này có quyền yêu
cầu giải quyết ly hôn để bảo vệ quyền lợi cho họ.
Ngoài ra, để bảo vệ tốt hơn quyền của người vợ sinh con, dự thảo mở rộng hơn
quy định của Luật hiện hành về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng,
Nguyễn Thị Lý- K55CLC 25

×