Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Ôn thi 12 - Vợ chồng A Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.58 KB, 26 trang )

Vợ chồng A Phủ
* Tác giả: Tơ Hồi tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một
gia đình làm nghề thủ công, ở quê ngoại − làng Nghĩa Đơ, ven sơng Tơ Lịch,
thuộc phủ Hồi Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phờng Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy,
Hà Nội). Quê nội ở làng Cát Động, thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà
Đông (nay là Hà Tây). Tô Hoài chỉ đợc học hết bậc Tiểu học, rồi phải làm nhiều
nghề để kiếm sống trớc khi cầm bút. Từ trớc Cách mạng tháng Tám 1945, Tơ
Hồi đã viết nhiều, với hai đề tài chính : truyện lồi vật và truyện về cuộc
sống của những ngời dân nghèo, thợ thủ cơng ở vùng q ngoại. Năm 1943,
Tơ Hồi gia nhập tổ chức Văn hoá cứu quốc do Đảng Cộng sản thành lập.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tơ Hồi làm báo Cứu quốc Việt Bắc
và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Năm 1957, khi Hội Nhà văn Việt Nam đợc
thành lập, ơng làm Tổng th kí, rồi Phó Tổng th kí trong nhiều năm. Tơ Hồi cịn
là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội (1986 - 1996). Tô Hồi là nhà văn có sức
sáng tạo dồi dào. Đến nay, trong hơn sáu mơi năm cầm bút, Tơ Hồi đã cho ra
hơn 160 đầu sách, và ở giai đoạn nào cũng viết đều. Tác phẩm của Tơ Hồi đa
dạng về thể loại : tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, hồi kí, tự truyện, kinh
nghiệm sáng tác, truyện và kịch cho thiếu nhi, kịch bản phim,... Tơ Hồi đợc
Nhà nớc tặng Giải thởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 1996.
Những tác phẩm chính : Dế Mèn phiêu lu kí (đồng thoại,
1941), O chuột (tập truyện về loài vật, 1942), Quê ngời (tiểu thuyết, 1942),
Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Mời
năm (tiểu thuyết, 1957), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Ngời ven thành (tập
truyện ngắn, 1972), Tự truyện (1978), Quê nhà (tiểu thuyết, 1980), Cát
bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999),...
Tơ Hồi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của
nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của Tơ Hồi thể hiện vốn hiểu biết
phong phú, kĩ lỡng của nhà văn về đời sống, đặc biệt là sinh hoạt và phong
tục đợc tái hiện bằng cảm quan hiện thực đời thờng. Nghệ thuật văn xi
của Tơ Hồi có nhiều đặc sắc, nổi bật ở lối kể chuyện tự nhiên, sinh động,
cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngơn ngữ phong phú và đậm tính khẩu


ngữ.
* Hoàn cảnh sáng tác: Là phần đầu truyện Vợ chồng A Phủ, trích trong tập:
Truyện Tây Bắc (1954), là kết quả chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng
Tây Bắc (1952). Tơ Hồi đã sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào các dân tộc
miền núi đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà văn.
- Tác phẩm được giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 19541955
* Tóm tắt
+ Mị, một cơ gái xinh đẹp, u đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về
làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.
+ Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con
rùa ni trong xó cửa".
+ Trong một đêm mùa xuân, nghe thấy tiếng sáo, Mị bồi hồi nhớ laị ngày
trước… Mị muốn đi chơi tết, nhưng bị A Sử trói đứng Mị vào cột nhà.


+ A Sử đi chơi tết, cậy thế con nhà quan bị A Phủ đánh. A Phủ bị bắt, bị phạt
vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí.
+ Khơng may hổ vồ mất 1 con bị, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến
gần chết.
+ Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa.
+ Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
* Giá trị hiện thực
- Bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc- một thành cơng có
ý nghĩa khai phá của Tơ Hồi ở đề tài miền núi.
- Bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những cảnh
tượng hãi hùng như địa ngục giữa trần gian.
- Phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp.
- Những trang viết chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân miền núi.
Giá trị nhân đạo:
- Cảm thông sâu sắc đối với người dân.

- Phê phán gay gắt bọn thống trị
- Ngợi ca những gì tốt đẹp ở con người.
- Trân trọng, đề cao những khát vọng chính đáng của con người.
- Chỉ ra con đường giải phóng người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận
thê thảm.
* Chủ đề
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại
quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của
bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
khơng gì hủy diệt được của những kiếp nơ lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy
của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tơ
Hồi đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ
tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tơ Hồi. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải
phóng miền Tây Bắc (1952), Tơ Hồi đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng
bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tơ Hồi tìm được cảm hứng để
viết truyện này. Tơ Hồi thành cơng trong "Vợ chồng A Phủ" khơng chỉ do vốn
sống, tình cảm sống của mình mà cịn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút
tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tơ Hồi đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ
thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành
động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng
và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong


đêm mùa đơng cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo
của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh
của cơ gái "dù làm bất cứ việc gì, cơ ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là

nét tâm lý của một con người cam chịu, bng xi trước số phận, hồn cảnh
sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hơn nhân
cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời
ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là
do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành
một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất
vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nơ lệ khơng hơn khơng kém. Điều đó làm
Mị đau khổ, Mị khóc rịng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón
kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã bng xi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị
dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc
sống, mong muốn thốt khỏi hồn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã
được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình
cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng
sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu
và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời
rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thơ bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột.
Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ khơng thể "trói"
được tâm hồn của một cơ gái đang hịa nhập với mùa xn, với cuộc đời. Đêm
ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cơ thực sự sống cho riêng
mình sau hàng ngàn đêm cơ sống vật vờ như một cái xác khơng hồn. Đó là một
đêm cơ vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết
về vấn đề này, Tơ Hồi khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp
tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một
luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng
cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác
phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đơng dài và
buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì
thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm
đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn


thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thơi". Tại
sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết
là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó
nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại
đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt
lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen
lại". Đó là dịng nước mắt của một kẻ nơ lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất
gần. Chính "dịng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong
lòng Mị.
Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước
Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống
miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình
về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị
nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến
chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra
“Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết cịn các hơn cả thú dữ trong
rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bị mà một người thanh niên khỏe mạnh,
siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống
trị coi sinh mạng của A Phủ khơng bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A
Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho
thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó

rồi thì chỉ cịn biết chờ ngày rũ xương ở đây thơi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ
đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thơi là người kia chết, chết đau, chết đói,
chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng
phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ
phải chết vì cái tội để mất một con bò!
Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người
chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy
sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một
con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình
yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói
một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với
Mị như thế ư?
Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị
diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện
người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật


độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị
lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…
Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây
mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm
nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đơng này. Sau khi cắt
dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng khơng ngờ mình dám làm một chuyện động
trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng
chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm
lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt
chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã
thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn
băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa
phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi

kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A
Phủ. Cho tơi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao
tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau
trái tim bạn đọc. Đó chính là ngun nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây
vơ hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống
dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối
với họ q ít, cịn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai
người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao
họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đơng này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trị hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu
A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích
trên, Tơ Hồi đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi
nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tơ Hồi đã rất cảm
thơng và xót thương cho số phận hẩm hiu, khơng lối thốt của Mị. Thế nhưng
bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tơ Hồi đã phát hiện và
ngợi ca đốm lửa cịn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn
sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tơ Hồi cũng đã khẳng định được chân
lí mn đời: ở đâu có áp bức bất cơng thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó
dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này
giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói
chung, ta hiểu vì sao Tơ Hồi lại thành cơng trong thể loại truyện ngắn đến như
vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình
thấm đượm, ngơn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong


truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện
ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ
chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá

trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả
là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tơ Hồi.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng
trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích
thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan
niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của "Vợ chồng A Phủ"
1, Với vợ chồng A phủ tác giả Tơ Hồi đã vẽ lại chân thực cái khơng khí ngột
ngạt của một vùng q Tây Bắc trước cách mạng. Ở đó có đủ cả các giai tàng xã
hội: có địa chủ phong kiến (ở đó gọi là thống lý), có giai cấp lao dộng (A Phủ)
và một lớp người trong giai cấp lao động đó là người phụ nữ (tiêu biểu là nhân
vật Mị); có cả ánh sáng cách mạng và một lũ cầm cờ chaỵ hiệu tay sai.Ở đó hiện
lên một cái khơng khí qnh đặc lại của một màu xámư xin xỉn và tăm tối như
cái bóng đêm trong Chị Dậu.
Tơ Hồi đã diễn tả được lại những khó khan trong cuộc sống của người lao
đông trong xã hội cũ thông qua diễn biến tâm trạng cua Mị. Cô Mị là nhân vật
trung tâm, là cành, là nhánh, là gốc rễ của vợ chồng A Phủ, là người đã thơng
qua ngịi bút Tơ Hồi mà nói, mà than thở, mà sống, ma buồn cho cái nỗi buồn
chung của xã hội. Cô, từ một cô gái vừa có tài vừa có sắc, đã bị cái giai cấp đó
cái xã hội đó biến trở thành một thứ công cụ, một thứ vật dụng để mua vui.
Quyền con người ở đây đã bị chà đạp, bị đè nén, bị giày xéo để xiết rên lên
những ngôn từ thảm hại. Nó cịn tệ hơn cả Chí Phèo trước cách mạng, nó khơng
được chết, nó cứ lửng lơ trong cái cảnh sống dở chết dở, muốn ngóc cao đầu
dậy lại bị một bè lũ phong kiến tay sai ấn dập xuống. Và dần dần, nó biến chất,
trở thành, hoặc là xấu xa như cái giai cấp thượng tầng chèn ép nó, hoặc là nó trở
nên vơ cảm, một cái vô cảm đáng sơn giữa những con người cùng chung một
cảnh ngộ đắng cay.
Với A Phủ quyền sống trong con người đã trỗi dậy. A Phủ gặp mị chính là cuộc
gặp gỡ lịch sử giữa những người lao động, khác hịan cảnh, khác than thế khác

xuất thân, nhưng đều có chung một kẻ thù giai cấp. Cú đấm của A Phủ giáng
xuống mặt A Sử ở đầu truyện chính là cú đấm đã thả ra biét bao nhiêu tủi nhục,
cú đấm đã giáng thẳng xuống đầu, xuống mặt kẻ thù bằng sức mạnh bị chèn nén
của khó khăn, của đói kém và cùng khổ. A Phủ chính là hiện thân tuyệt vừoi của
người chiến sĩ cách mạng tiền thân ở một vùng cao Tây BẮc. Sức mạnh đó dù


đã có lúc rỉ máu khi A Phủ bị treo lên cột nàh banừg những dây rợ những đòn
roi phong kiến, nhưng rồi lại bùng phát lên dữ dội tnành một tia sáng chọc vào
giữa cái màn đêm đen dày của lịch sử, soi đường cho một cuộc vượt ngục quyết
dịnh, chạy bỏ quá khứ để huớng tới tương lai.
Chú ý đến màn đêm ở cuối truỵen: với Tắt đèn cuối truyện là một màn đêm tăm
tối của sự bế tắc thì ở A Phủ, trong cái màn đêm thăm thẳm vơ biên đã có ánh
sáng, tuy cịn mờ của cách mạng. Con người lao động trong Mị & A Phủ đã tìm
ra nguồn sáng, trên con đường chạy thốt số phận, tìm ve với hạnh phúc để rồi
đứng lên, giáng trả lại kẻ thù.

Sức sống mãnh liệt của Mỵ trong đêm tình mùa xn ở Hồng Ngài
Lúc đó, khung cảnh mùa xn căng tràn sự sống,niềm vui.Khơng khí tưng
bừng, nhộn nhịp”Trai đánh pao,đánh quay,thổi sáo,thổi khèn nhảy”.Màu sắc rực
rỡ”Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc
sỡ”Âm thanh réo rắt mời gọi”Những đêm tình mùa xuân đã tới, tiếng sáo gọi
bạn yêu lửng lơ bay ngồi đường…
“Anh ném pao,em khơng bắt
Em khơng yêu,quả pao rơi rồi
Tgiả miêu tả bức tranh thiên nhiên Tây Bắc nhiều màu sắc, thấm đượm chất
thơ,chất trữ tình. Qua đó ,ta hiểu thêm về khung cảnh vùng cao cùa Tổ Quốc.Ta
biết thêm về cuộc sống,phong tục , sinh hoạt của người miền núi. Âm thanh
tiếng sáo thiết tha mời gọi cùng với thiên nhiên , cuộc sống căng tràn niền vui
đã tác dộng đến tâm hồn Mỵ.

Trong một đêm tình mùa xn năm đó,dĩên biến tâm trạng và hành động của Mị
đã có nhiều thay đổi.Lúc đó ngồi đầu núi có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi
“Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.Mị nhẩm thầm bài hát của người
đang thổi”.Đây có lẽ là dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh trong tâm hồn Mị.Cô
bắt đầu nghe được âm thanh của sự sống và đang dần dần hoà nhập vào cuộc
sống.
Ngày Tết,”Mị cũng uống rượu. Rồi say,nhưng lịng Mị thì đang sống về ngày
trước.Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.” Mị nhớ lại “Ngày trước,Mị
thổi sáo giỏi.Mị uốn chiếc lá trên mơi,thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao
nhiêu người mê,ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.”Mị tự hào về tài năng của
mình,hãnh diện về một thời tươi đẹp xưa kia.Những cảm xúc trong tâm hồn Mị
đang hồi sinh.
Cứ như thế,”Mị ngồi xuống giường.Đã từ nãy,Mị thấy phơi phới trở lại,trong


lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”.Mị khơng cịn giống
tảng đá như trước.Tâm hồn Mị đã có những cảm xúc.Mị nhớ về quá khứ tươi
đẹp và cảm thấy vui .Sự hồi sinh của nhưng cảm xúc đó dẫn đến nhận thức của
Mị cũng có thay đổi. Mị ý thức được “Mị trẻ lắm.Mị vẫn còn trẻ”.Bao đời nay,
tuổi trẻ ln gắn liền vớí tình u,hạnh phúc.Mị ý thức mình cịn trẻ cũng là cơ
hiểu rõ mình có quyền hưởng hạnh phúc.
Thế nhưng ,hiện thực đen tối đối lập với quá khứ tươi đẹp.Và mơ ước về hạnh
phúc khó trở thành sự thật.Mị lại muốn chết.”Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này,Mị sẽ ăn cho chết ngay,chứ không buồn nhớ lại nữa.Mà tiếng sáo gọi bạn
yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường”.Mị ý thức được quyền sống,quyền được
hưởng hạnh phúc của mình đã bị tước đoạt.Mị đang sống trong hồn cảnh bi
thảm mà cơ khó có thể thoát ra được.Ý nghĩ về cái chết lúc này có thể được coi
như một hành động phản kháng để lên tiếng địi quyền được sống hạnh phúc.
Sau đó,”Mị đến góc nhà,lấy ống mỡ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho
sáng”Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng để

xua tan bóng tối đang bao phủ căn buồng mình, cuộc đời mình.Mị thắp đèn là
Mị đang làm sáng lên cuộc đời mình,là làm cho khát vọng về hạnh phúc của
mình sớm trở thành hiện thực.Có thể nói hành động Mị thắp đèn là một bước
chuyển quan trọng đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị.Cô đang thắp lên
ánh sáng của niềm tin, hi vọng cho cuộc đời mình.
Tiếp theo liền sau đó,Mị vùng lên muốn đi chơi. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng
sáo.Mị muốn đi chơi.Mị cũng sắp đi chơi.Mị quấn lại tóc.Mị với tay lấy cái v
hoa vắt ở phía trong vách.”Tác giả đã dùng một loạt các câu văn ngắn,miêu tả
dồn dập những hành động liên tiếp của Mị.Mị hành động như một người tự
do.Điều này chứng tỏ khát vọng mãnh liệt về hạnh phúc đang trỗi dậy ngày
càng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị.
Thế nhưng, khát vọng chính đáng đó bị dập tắt ngay lập tức.A Sử đã trói Mị lại
bằng một thúng sợi đay vào cột nhà.”A Sử quấn ln tóc Mị lên cột làm cho Mị
khơng cúi, không nghiêng được”Vậy mà “,Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi
theo những cuộc chơi,những đám chơi” Mị qn mình đang bị trói”Mị vùng
bước đi”.Hành động này cho ta thấy tình yêu cuộc sống tự do,khát vọng về hạnh
phúc trong lịng Mị đang trỗi dậy mạnh mẽ ,khơng gì có thể dập tắt được.
Ở đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân,ta thấy
nhiều lần Tơ Hồi nhắc đến tiếng sáo.Vào một ngày Tết” Mị nghe tiếng sáo
vọng lại, thiết tha bổi hổi “Mị chợt nhận ra những đêm tình mùa xuân đã
tới.”Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”Chính âm thanh tiếng sáo dìu
dặt đã làm cho Mị nhớ lại “Ngày trước,Mị thổi sáo giỏi.Mị uốn chiếc lá trên
môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê,ngày đêm thổi
sáo đi theo Mị.”Lúc Mị muốn chết thì “Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài


đường”.Có lẽ tiếng sáo gọi bạn này đã tiếp thêm sức mạnh cho Mị hành
động.Mị chuẩn bị đi chơi khi “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”.Khi bị A Sử trói
đứng ở cột nhà” Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi theo những cuộc
chơi,những đám chơi”….Am thanh tiếng sáo vốn là biểu tượng của mùa xuân

,của tình yêu, của sự sống.Mị nghe được âm thanh này chính là Mị nghe được
âm thanh của cuộc sống,của hạnh phúc.
Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn Mị.Thế
nhưng khơng!Ngọn lửa tình u cuộc sống,khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn
âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn Mị.Khi có điều kiện thuận lợi,ngọn lửa đó đã
được khơi dậy và bùng lên .Điều kiện đó chính là Mị đang sống trong một đêm
tình mùa xuân,mùa của sự sống căng tràn,mùa của tình yêu.Lúc đó âm thanh
tiếng sáo bồi hồi,tha thiết,lơ lửng ln dập dìu vang lên mời gọi.Đã vậy lại thêm
có men rượu nồng nàn.Tất cả các yếu tố trên cùng cộng hưởng làm cho những
khát khao về hạnh phúc trong tâm hồn Mị hồi sinh và bùng lên mạnh mẽ.
Thế nhưng,thực tại phũ phàng đã bóp chết những khát vọng chính đáng đó.Bị A
Sử trói cả đêm bằng một thúng dây đay.Tay chân đau đến mức Mị khơng cịn
nghe tiếng sáo nữa.Khát vọng về hạnh phúc một lần nữa bị dập tắt trong tâm
hồn Mị.Cô lại trở về với kiếp sống không bằng con trâu,con ngựa như xưa kia…
Mỵ sức sống bùng dậy mãnh liệt trong đêm giải cứu A Phủ
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
(Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi).
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tơ
Hồi đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ
tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tơ Hồi. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải
phóng miền Tây Bắc (1952), Tơ Hồi đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng
bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tơ Hồi tìm được cảm hứng để
viết truyện này. Tơ Hồi thành cơng trong "Vợ chồng A Phủ" khơng chỉ do vốn
sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút
tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tơ Hồi đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ
thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành
động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng
và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong
đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo
của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh
của cơ gái "dù làm bất cứ việc gì, cơ ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là
tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống
đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân
cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị khơng được lấy người mình u mà phải ăn đời


ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là
do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành
một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất
vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn khơng kém. Điều đó làm
Mị đau khổ, Mị khóc rịng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón
kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị
dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người u đời, u cuộc
sống, mong muốn thốt khỏi hồn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã
được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình
cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng
sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu
và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời
rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột.
Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ khơng thể "trói"
được tâm hồn của một cơ gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm
ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cơ thực sự sống cho riêng
mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một
đêm cơ vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết
về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp

tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lịng Mị. Và chỉ cần có một
luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng
cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác
phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và
buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì
thế đêm nào Mị cũng ra bên ngồi bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm
đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thơi". Tại
sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết
là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó
nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại
đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt
lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại". Đó là dịng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất
gần. Chính "dịng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong
lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân
trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống


miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về
cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ
lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết
người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra
“Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết cịn ác hơn cả thú dữ trong
rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh,
siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống
trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A

Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về
với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà
chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết chờ ngày rũ xương ở
đây thơi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay
thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì
mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng
có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con
bị! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là
người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn
khơng thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến
Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha
thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã
tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại
khơng đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”
của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng
cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra
bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị
lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…
Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây
mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm
nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đơng này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng khơng ngờ mình dám làm một
chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại.
A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung
được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm
câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống
tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm
nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của
bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu
năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu

năm câm nín: “A Phủ. Cho tơi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát
sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình
cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là ngun nhân - hệ quả của
việc Mị cắt đứt sợi dây vơ hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A
Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà


những kỉ niệm đẹp đối với họ q ít, cịn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất
khơng sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những
ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trị hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu
A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích
trên, Tơ Hồi đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi
nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tơ Hồi đã rất cảm
thơng và xót thương cho số phận hẩm hiu, khơng lối thốt của Mị. Thế nhưng
bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa u thương, Tơ Hồi đã phát hiện và
ngợi ca đốm lửa cịn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn
sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tơ Hồi cũng đã khẳng định được chân
lí mn đời: ở đâu có áp bức bất cơng thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó
dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta
hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói
chung, ta hiểu vì sao Tơ Hồi lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như
vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình
thấm đượm, ngơn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong
truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện
ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ
chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá
trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả

là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tơ Hồi.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước
nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày
càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương
đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã
quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Nguyện Trung Ngân - ĐH Cần Thơ 2007
Mỵ -trong đêm cứu A Phủ
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
(Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi).
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồngA Phủ" mà nhà văn Tơ
Hồi đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xâydựng. Truyện được trích từ tập
"truyện Tây Bắc" (1953) của Tơ Hồi.Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải
phóng miền Tây Bắc (1952), Tơ Hồiđã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng
bào các dân tộc miền núi,chính điều đó đã giúp Tơ Hồi tìm được cảm hứng để
viết truyện này. TơHồi thành cơng trong "Vợ chồng A Phủ" khơng chỉ do vốn
sống, tình cảmsống của mình mà cịn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút


tài hoa.Trong "Vợ chồng A Phủ", Tơ Hồi đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ
thuật,trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý vàhành
động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sựphát sáng
và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động củanhân vật Mị trong
đêm mùa đơng cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trịhiện thực và nhân đạo của
tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượngnhất đó chính là hình ảnh
của cơ gái "dù làm bất cứ việc gì, cơ ta cũngcúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là
tâm lý của một con người cam chịu,bng xi trước số phận, hoàn cảnh sống
đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mịcó nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng
bức giữa Mị và A Sử.Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp

với một người màmình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy
quyền, thầnquyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa
condâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,nhưng
thật sự Mị chỉ là một kẻ nơ lệ khơng hơn khơng kém. Điều đó làmMị đau khổ,
Mị khóc rịng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lángón kết thúc cuộc
đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quenkhổ rồi". Chính vì thế Mị
đã bng xi trước số phận đen tối của mình,trái tim của Mị dần chai sạn và
mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng củamột người u đời, u cuộc
sống, mong muốn thốt khỏi hồn cảnh sốngđen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã
được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triểntheo những cung bậc tình
cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậctrước. Ban đầu, Mị nghe tiếng
sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hátngười đang thổi, rồi Mị uống rượu
và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời
rồi Mị muốn đi chơi. Nhưngsợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột.
Thế nhưng sợi dây ấychỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ khơng thể "trói"
được tâm hồncủa một cơ gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm
ấy thật làmột đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cơ thực sự sống cho riêng mình
sauhàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêmcơ
vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đờitrâu ngựa. Thế nhưng viết về
vấn đề này, Tơ Hồi khẳng định: cái khổcái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro
tàn phủ khuất che lấp sức sốngtiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng
gió mạnh đủ sức thổiđi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy
và giúp Mịvượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
ngờilên ở chỗ đó.


Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính lànhững đêm mùa đông dài và

buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đôngrét buốt như cắt da cắt thịt, vì
thế đêm nào Mị cũng ra bên ngồi bếplửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm
đó Mị gặp A Phủ đang bị tróiđứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn
thản nhiên thổi lửahơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại
sao Mị lạilãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến
chếtlà một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen vớiđiều
đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ,Mị quen khổ
rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của ngườikhác. Một đêm nữa lại
đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cảrồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt
lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mịlé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắtlấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại". Đó là dịng nước mắt củamột kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất
gần. Chính "dịngnước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong
lòng Mị.Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa
xuântrước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt
rơixuống miệng, xuống cổ khơng lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy
giốngmình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông
chonhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nóbắt
trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lýtrí giúp Mị
nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chếtcịn ác hơn cả thú dữ
trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà mộtngười thanh niên khỏe mạnh,
siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phảilấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống
trị coi sinh mạng của A Phủ khôngbằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A
Phủ cũng bị xử phạt như thếmà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về
với hiện tại, Mị đaukhổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà
chúng nó đẵ bắtta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết chờ ngày rũ xương ở
đâythơi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm naythơi
là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ngườikia việc gì mà
phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.Thật sự, chẳng có lí
do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chếtvì cái tội để mất một con bò!

Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh APhủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người
chết thay cho A Phủ trên cái cộttưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn khơng thấy
sợ, sự suy tưởng của Mị làcó cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một
con người yêu đời,yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình
uthành một con dâu gạt nợ, một kẻ nơ lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khitrói
một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại khơngđối xử với
Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”của A Phủ, tâm
trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với ngườicùng cảnh ngộ, Mị
nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúpMị nhận ra bọn lãnh chúa
phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước sốphận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A
Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đếncái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét
tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến vớihành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói


cho A Phủ. Đó là mộtviệc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp
với nét tâm lícủa Mị trong đêm mùa đơng này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng khơng ngờmình dám làm một
chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng“đi ngay” rồi Mị nghẹn lại.
A Phủ vùng chạy đi, cịn Mị vẫn đứng lặngtrong bóng tối. Ta có thể hình dung
được nét tâm lí ngổn ngang trăm mốicủa Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm
câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủhay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống
tiềm tàng đã thôi thúcMị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm
nhưng Mị vẫn băngđi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của
bọn lãnh chúaphong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu
năm qua. Mịđuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu
nămcâm nín: “A Phủ. Cho tơi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khaokhát
sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biếtbao tình
cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân- hệ quả của
việc Mị cắt đứt sợi dây vơ hình ràng buộc cuộc đời củamình. Thế là Mị và A
Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rờibỏ Hồng Ngài - một nơi mà

những kỉ niệm đẹp đối với họ q ít, cịn nỗibuồn đau, tủi nhục thì chồng chất
khơng sao kể xiết. Hai người rời bỏHồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những
ngày phía trước ra sao họ cũngchưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đơng này, sức sống tiềm tàngđóng một vai trị hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trênsố phận đen tối của mình. Mị cứu
A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tựcứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích
trên, Tơ Hồi đã ca ngợi nhữngphẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói
riêng và những người phụnự Việt Nam nói chung. Tơ Hồi đã rất cảm thơng và
xót thương cho sốphận hẩm hiu, khơng lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một
trái tim nhạycảm và chan chứa u thương, Tơ Hồi đã phát hiện và ngợi ca
đốm lửacịn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên
ởđó. Đồng thời qua tác phẩm, Tơ Hồi cũng đã khẳng định được chân límn
đời: ở đâu có áp bức bất cơng thì ở đó có sự đấu tranh để chốnglại nó dù đó là
sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩmnày giúp ta hiểu được
nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập“Truyện Tây Bắc” nói
chung, ta hiểu vì sao Tơ Hồi lại thành cơng trongthể loại truyện ngắn đến như
vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắcdân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình
thấm đượm, ngơn ngữ lời văn giàutính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong
truyện ngắn này. Tác phẩm“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện
ngắn - giải thưởng doHội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ
chồng A Phủ”thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá
trịnghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắnnày quả là
một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tơ Hồi.


Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảmthông sâu sắc trước
nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiếnmiền núi, từ đó giúp em ngày
càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đâyquả là một tác phẩm văn chương đích
thực bởi nó đã góp phần nhân đạohóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan

niệm trong truyện ngắn “Đờithừa”.
Sức sống tiềm tàng của Mị
MB:
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tơ Hồi tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60
năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại
phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tơ Hồi ta ko thể qn đc tp "Dế mèn
phiêu lưu kí"- tp tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tơ Hồi
lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.
Những năm gần đây người ta lại xơn xao nhớ đến Tơ Hồi với tp "Cát bụi chân
ai"... Cho đến nay, "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức với chính Tơ
Hồi, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề
tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị- 1 cô gái Mèo nghèo khổ,
xinh đẹp, nết na được Tơ Hồi xây dựng chân thực và sống động với sức sống
tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngịi bút của
Tơ Hồi đã bộc lộ là 1 ngịi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào
Nga Sêkhốp đã từng nói: " 1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ
trong cốt tuỷ". Tơ Hồi là 1 nhà văn như vậy.
TB:
a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà
thống lí Pá Tra
Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải
được sống cuộc đời hp, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa
khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức
ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay
bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá
Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị
đã phản ứng lại ngay: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm
nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu". Đây chỉ là 1
câu nói bình thường nhưng đã tốt ra cả 1 con người. Đó là con người có sức
sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở

nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do
còn hơn fải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh


tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết
quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: "Thân gái như
hạt mưa sa", việc người con gai được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm
chí cịn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người
có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia
đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của
cuộc hôn nhân gả bán này: "Bố đừng bán con cho nhà giàu". Rõ ràng chỉ là 1
câu nói giản đơn nhưng fần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức
sống tiềm tàng bất diệt.
b. Mị toan tự tử:
Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế
nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong
kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thốt đc. Mị
bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết
rũ xương ở đó. Biết được điều này "có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng
khóc". Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với
Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng
khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như
van xin trong làn nước mắt: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày
chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm
nương ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!"
Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cơ đứng trước 1 hồn cảnh
éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị
đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch
lý?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hồn cảnh của Mị

đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người cịn hơn fải
sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống
cs chết dần, chết mịn, chết khơ, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế
nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lịng thì
Mị fải trà đạp lên chữ "hiếu", Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ "hiếu"
Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí
Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân
vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết đc điều nàynhưng Mị vẫn chấp nhận
vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm
trước "bán mình chuộc cha". Hơm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của
người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến
lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cs của những người vùng cao.
Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như HCM: "VH nghệ thuật là 1 mặt


trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Tơ Hồi thơng qua "vợ chồng A
Phủ" đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để "cứu
đất cứu Mường". Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa.
"Mị sống lầm lũi như con rùa ni trong xó cửa", như cái bóng, cái xác vơ hồn
trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết
đc, điều này đã được Tơ Hồi thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với
những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với
sức sống tàn fai, mai một: "Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra...cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lịng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi
sinh 1 cách chóng vánh khi mùa xuân đến.
Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà
văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn.
"Vợ chồng A Phủ" xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: "Văn học VN
gđoạn 45-75 có sự kết hợp hài hồ giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn". Nhưng

điều cta quan tâm hơn cả là ngịi bút tâm lí của nhà văn Tơ Hồi khi mơ tả sự
trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp,
âm thầm trong tâm hồn người fụ nữ:
Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xn về sớm hơn mọi năm. Tơ
Hồi mơ tả những làn gió đem mùa xn về trên khắp các bản làng. Những
nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào khơng khí của
ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên
những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần
áo mới đến đánh quay, ném pao, tung cịn,... Tất cả những hình ảnh này đã dội
vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khơ cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự
vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay
đổi lớn sắp diễn ra trong lịng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau
khổ.
Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xn. Trong khơng gian tiếng hát, tiếng sáo,
tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi
này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu
trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi
sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:
"Anh ném pao
Em ko bắt
Em ko yêu


Quả pao rơi rồi"
Hay: "Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người u"
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng
"ngày xưa" từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị

sống cđời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối,
nhìn ra bên ngồi qua ơ cửa mờ mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương
hay nắng. Khi 1 người ko nhận thức đc ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko
nhận thức đc ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang
tàn fai, mai một. Hnay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị
thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hp. Thế là Mị luôn hướng
về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ
để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.
Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tơ Hồi rất
khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ
dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng
lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng
nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng,
náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy
áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành
địi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống
ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong ***g
ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá
khứ hp. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hp
trongmối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối
ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi
tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước
đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp,
bẩn thỉu... Mị cũng chẳng bận lịng. Hnay thì khác, lịng u đời vừa mới trở về
với Mị. Mị muốn đời mình fải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng
mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn
lửa trong lịng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người
đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái
váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống



lầm lũi như con rùa ni trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vơ hồn giữa địa
ngục trần gian bỗng 1 hơm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là
dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh
mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử
đã vùi dập nó 1 cách fũ fàng, hắn trói Mị = 1 thúng dây đay từ chân lên đầu.
Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện
trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra,
khi mỏi cịn đc đổi tàu, cịn đc gãi chân, nhai cỏ, cịn Mị khóc ko tự lau đc nước
mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.
d. Sức sống tiềm tàng thêm 1 lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ
Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tơ Hồi ko để cho Mị gặp
đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống
tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thốt đời mình, giải thốt người cùng cảnh
ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa
đơng đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị
vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia
đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng
thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị
ko động lịng thương nhưng hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của
A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất
bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2 con mắt trũng
sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò
xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên
trong lịng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế.
Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng
tối: "Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây,
người kia việc gì fải chết...A Phủ". Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi
trong bóng tối bỗng 1 hơm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi
loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1

người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành
1 người fản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ
đến cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh
khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt
đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào
trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi
A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay
vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: "A Phủ! Cho tơi đi!". Đây là
1 câu nói của lịng ham sống trong giờ fút nguy cấp để giải thốt đời mình. Thế
là 2 người nơ lệ giải thốt cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài
đến Phiềng Sa.


KB:
Việc Mị giải thốt cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới.
Nó khép lại TG tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nơ lệ ở Hồng Ngài, đồng thời
nó mở ra TG mới- TG tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị,
nó đã đưa "vợ chồng A Phủ" trở thành tp bản lề trên diễn đàn văn chương VN.
Nó khép lại những hạn chế của 1 dịng văn học hiện thực fê fán 1 thời. Nó mở
ra 1 hướng đi mới cho VH kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của
chính nhà văn Tơ Hồi. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của
Đảng, gặp được cán bộ CM A Châu. Và 2 người đã tham gia CM, chỉ có CM
mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới
là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu
"Đời CM từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều
Là gươm kề cổ, là súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa"
"Vợ chồng A Phủ" mơ tả q trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nơ lệ này.
Ngịi bút của Tơ Hồi đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao

cả. Và "vợ chồng A Phủ" mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời.
Bài 2
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Trước cách mạng tháng Tám, Tơ Hồi nổi tiếng với tác phẩm Dế
mèn phưu lưu kí . Sau cách mạng tháng Tám và đi theo kháng
chiến, Tô Hồi tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập
Truyện Tây Bắc . Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công
nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc . Tác phẩm có
một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc
sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị
tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện
đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng
đến với cách mạng của họ .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có
một cơ gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu
ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ


củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi ” .
Vợ chồng A Phủ mở đầu như thế , một sự mở đầu xứng đáng với
giọng kể chuyện đẹp như ru . Thế giới Tây Bắc đã được mở ra
xa xăm kì diệu, trên cả ý nghĩa và nhạc điệu và lời văn . Một thế
giới khơng phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao cổ tích,
một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm, qua một bức chân
dung thiếu phụ buồn .
Mị là một người con gái đẹp, một vẻ đẹp mang tính thuần nhất
với vẻ đẹp trong văn chương . Mị có nhan sắc, và có khả năng
âm nhạc, khơng có đàn tì bà, khơng có nguyệt cầm thì cơ giỏi

sáo và giỏi “uốn chiếc lá trên mơi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo” . Mà tài năng âm nhạc, cũng theo truyền thống thường hé
mở một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu
đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim
từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thah hò hẹn của
người yêu .
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một
cuộc đời có thể nói là bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối
cùng cơ đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu
gạt nợ trong nhà thống lí .
Tơ Hồi đã khơng qn diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của
người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu , nhưng
thực chất chính là tơi tớ . Thân phận Mị khơng chỉ là thân trâu
ngựa, “Con trâu con ngựa làm cịn có lúc, đêm nó cịn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì
vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Song nhà văn xem ra vẫn thông cảm nhiều hơn với nỗi đau khổ
về tinh thần . Chính cảm xúc về nỗi đau thinh thần ấy đã giúp
ông sáng tạo ra những ngôn từ, những hình ảnh khó qn : Một
cơ Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lạng câm ,
“lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn
buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi
trong đó trơng ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng khơng
biết là sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần
gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm
cố tuổi xuân và sức sống của cô . Rõ ràng tiếng nói tố cáo chế


độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền
sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khơ nhựa

sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những
con người vô cùng đáng sống .
Mị đã tùng muốn chết mà khơng được chết , vì cơ vẫn cịn đó
món nợ của người cha . Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị
khơng cịn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taịi vật
vờ . Chính lúc này cơ gái cịn đáng thương hơn . Bởi muốn chết
nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống,
nghĩa là xét cho cùng, cịn thiết sống . Cịn khi đã khơng thiết
chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng khơng cịn, lúc
đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng
chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .
Như vậy sức sống của Mị đã vĩnh viễn mất đi ? Không phải thế,
bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang cịn một con
người . Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên
trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng
khơng thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên
từ lớp tro tàn . Và nó, cái khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt
cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xn đầy ắp
tiếng gọi của tình u .
Có thể nói cuộc nổi loạn lần thứ nhất trong tâm hồn Mị là đoạn
văn thử thách thực sự ngịi bút của Tơ Hồi . Làm sao có thể cắt
nghĩa được vì lí do gì mà cơ Mị của ngày xưa, cơ Mị đầy xuân
tình xuân sắc lại bỗng dưng thức dậy trong người đàn bà âm
thầm, chịu đựng mỏi mòn đúng vào, và chỉ đúng vào cái đêm
tình mùa xuân ấy ? Làm sao con người đã chôn vùi cả tuổi
thanh xuân trong gian buồng kín mít chỉ có cái lỗ vng nhỏ mờ
mờ trăng trắng kia suốt từng ấy năm trời, vào đúng đêm ấy lại
muốn vùng lên, nảy sinh ý định đi chơi xuân ? Nguyên do là bởi
đất trời ? Quả thực bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có
sức làm say đắm lịng người, ngất ngây tâm hồn tuổi trẻ . Song

gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hay sự biến đổi màu sắc kì
ảo của các lòa hoa đẹp chưa hẳn đã đủ để làm nên cuộc nổi
loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ .
Cần phải có những tác nhân khác nữa, mạnh mẽ hơn, có sức lơi
cuốc Mị ra khỏi hiện tại để Mị trở về với chính mình của xa xưa :
phơi phới , trẻ trung, yêu đời .


Tác nhân ấy, theo Tơ Hồi trước hết phải là hơi rượu . Ngày tết
năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát , “uống ừng
ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng
quên vừa đem về nỗi nhớ . Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi
người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và
cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày
trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn
là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống
của một con người : “Mị vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi . Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết . Huống chi Mị và A
Sử, khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị
bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ
vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của
tình yêu và tuổi trẻ . Tiếng sáo lúc đầu đã có tình cảm lắm,
nhưng cịn vọng lại từ xa, mãi từ ngồi đầu núi, và Mị vẫn cịn
đủ tỉnh táo để để nhẩm theo lời hát . ít lâu sau, tai Mị lại vẳng
tiếng sáo , nhưng không cịn vẳng từ ngồi đầu núi xa nữa mà
là tiếng sáo gọi bạ đầu làng . Rồi đến lúc tiếng sáo khơng chỉ là
gọi bạn. Nó gọi bạn u . Và nó “lửng lơ bay ngồi đường” , như
tình ai khơng thể tan, như lịng ai đợi chờ, hờn trách . Để rồi
cuối cùng tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng

lịng của người thiếu phụ .
Tơ Hồi đã đặt Mị trong sự tương giao giữa một bên là sức sống
tiềm tàng với một bên là cảm thức về thân phận . Cho nên
trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn .
Lịng phơi phới nhưng Mị vẫn theo qn tính bước vào buồng ,
ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng .
Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết
ngay đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ
lớn dần , cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy
nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hồn tồn chìm hẳn vào trong ảo
giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời
điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại
tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những
việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên khơng
nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.


Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khốc
thêm vịng bác đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du
đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang
bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống
trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh
động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về
hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo
tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ
không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai
đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và
nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ ,
gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra,

đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí
của con rùa ni trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị
cởi trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ
độc tài phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự
nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân
đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản
năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham
thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói
đứng . Và chính hồn cảnh bi thương đó đã đánh thức lịng
thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó khơng
phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá
trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô . Mấy
hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là
cái xác chết đứng đó cũng thế thơi” . Câu văn như một minh
chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ
những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dịng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước
mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa
Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói,
đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy
xuống cổ, xuống cằm khơng biết lau đi được . A Phủ, nói đúng
hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót
thương cho mình .
Và đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau
khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình . Từ
sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình
thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó cịn vượt



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×