Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

sáng kiến kinh nghiệm môn Lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.94 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Nội dung Trang
I.Lời nói đầu 02
II.Những khó khăn 03
III.Những giải pháp 05
IV.Kết quả 13
V.Kết luận 13
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 1
I.LỜI NÓI ĐẦU:

Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá, với
mục tiêu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng
quốc tế. Trong bối cảnh đó, đặt ra những yêu cầu mới đối với phẩm chất và
năng lực của người lao động, đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện. Để đáp ứng được yêu cầu này, cần phải nâng cao chất lượng giáo dục,
tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
yêu quê hương gia đình, lòng biết ơn, lòng nhân ái, tinh thần hiếu học, biết
kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở Trường THPT nhằm góp phần vào việc
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Trong quá trình hội nhập,
môn Lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi trọng để giúp thế hệ
trẻ hình thành nhân cách, bản lĩnh con người, để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Nhưng thực trạng việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đang
ở mức “ báo động đỏ ”, kiến thức của học sinh về môn lịch sử quá kém, dư
luận xã hội đang rất quan tâm vấn đề này.
Trong thư gửi cuộc Hội thảo “Thực trạng việc dạy và học lịch sử trong
trường phổ thông, nguyên nhân và giải pháp” do Hội khoa học lịch sử Việt
Nam và Bộ Giáo dục đào tạo phối hợp tổ chức, đại tướng Võ Nguyên Giáp
cho rằng “ cứ trượt dốc theo đà này thì chúng ta chưa thể lường hết những
hậu quả đối với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ ”.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn lịch sử tôi rất trăn trở về vấn đề


này, nên mạnh dạn nêu một vài giải pháp, mong góp phần công sức trong
việc khắc phục sự sa sút về chất lượng giáo dục môn lịch sử trong nhà
trường phổ thông.
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 2
II.NHỮNG KHÓ KHĂN:

Qua các kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh cao đẳng, đại
học, số điểm thi môn lịch sử cho thấy kiến thức lịch sử của học sinh hiện nay
quá kém. Theo thống kê của Cục Công nghệ Thông tin, Bộ GDĐT, trong kì
thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2007, có hơn 150.000 thí sinh có điểm
môn lịch sử từ 4.5 trở xuống, chiếm tỉ lệ 95,74% tổng số học sinh thi khối C.
Điểm trung bình là 2,09/10, đứng hạng thấp nhất, so với điểm trung bình của
các môn khác. Còn ở kì thi tốt nghiệp THPT năm 2007, điểm trung bình của
môn lịch sử là 6.19, cũng là thấp so với điểm trung bình của những môn
khác.
Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém về chất lượng môn lịch sử là
do đâu? Theo tôi:
Thứ nhất: Sách giáo khoa (SGK) nặng về kiến thức, sự kiện, chưa nâng
cao về trình độ lý thuyết trong học tập lịch sử, chưa gắn liền học với hành.
Tài liệu tham khảo nhiều, nhưng trùng lặp về nội dung, chỉ mang tính khái
quát, đại cương, chưa sâu sắc, chưa tập trung đi sâu vào một giai đoạn, một
khóa trình, hay một chuyên đề cụ thể,…thậm chí không thống nhất về số
liệu (SGK lớp 10-Nâng cao trang 204, ghi Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia
Long có 398 điều trong khi SGK lớp 10-Chuẩn trang 127, ghi Hoàng triều
luật lệ -Luật Gia Long có 400 điều,…), về thời gian (thời gian Nguyễn Ái
Quốc trở về nước sau 30 năm tìm đường cứu nước chưa thống nhất, SGK
lớp 10-Nâng cao trang 215, ghi: thời đại phong kiến độc lập, kéo dài đến
giữa thế kỉ XIX, là đúng hay sai? ).
Thứ hai: số tiết học của môn Lịch sử trong tuần là quá ít, nếu nói là ít
hơn so với các môn học khác như môn Thể dục, Địa lí, Giáo dục công dân,

Giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng đúng, còn để so sánh với môn Toán, Lí,
Hoá, Sinh, Ngoại ngữ thì hoàn toàn không dám nghĩ đến. Điển hình:
* Khối 10: Ban KHTN, KHCB và Ban KHXH-NV số tiết học môn
Lịch sử 1,5 tiết/tuần. Như vậy, Ban KHXH-NV nâng cao môn Lịch sử ở
“chỗ” nào? Trong khi cũng đồng thời là môn học nâng cao của Ban KHXH-
NV, thì môn Văn là 4 tiết/tuần, Địa lí là 2 tiết/tuần, Ngoại ngữ là 4 tiết/tuần;
Còn môn Toán là 3 tiết/tuần (Toán không phải là môn nâng cao của Ban
KHXH-NV).
*Khối 11:
+Ban KHXH-NV số tiết môn Lịch sử là 2 tiết/tuần. Trong khi cũng
đồng thời là môn học nâng cao của Ban KHXH-NV, thì môn Văn là 4
tiết/tuần, Địa lí là 1,5 tiết/tuần, Ngoại ngữ là 4 tiết/tuần; Còn môn Toán là
3,5 tiết/tuần (Toán không phải là môn nâng cao của Ban KHXH-NV).
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 3
+Ban KHTN và Ban KHCB số tiết môn Lịch sử là 1 tiết/tuần (bằng
số tiết khi chưa cải cách SGK), môn GDCD cũng 1 tiết/tuần. Trong khi môn
Văn 3,5 tiết/tuần, môn Ngoại ngữ là 3 tiết/tuần, cũng xin nêu rõ: môn Văn,
Ngoại ngữ không phải là môn học nâng cao của Ban KHTN và KHCB. Như
vậy, môn Lịch sử và môn GDCD ở vị trí nào?
*Khối 12:
+Ban KHXH-NV số tiết môn Lịch sử là 2 tiết/tuần, còn môn Văn và
Ngoại ngữ là 4 tiết/tuần, môn Toán là 3,5 tiết/tuần (Toán không phải là môn
nâng cao của Ban KHXH-NV).
+Ban KHTN và KHCB số tiết môn Lịch sử là 1,5 tiết/tuần, còn môn
Văn và môn Ngoại ngữ là 3 tiết/tuần (cả ba môn Lịch sử, Văn, Ngoại ngữ
đều không phải là môn nâng cao của Ban KHTN và KHCB).
 Những nghịch lý này tồn tại từ rất lâu, nhưng những năm trước
đây điểm trung bình môn Lịch sử trong kì thi tốt nghiệp khá cao vì chưa
có “Hai không” hay “Hai không với bốn nội dung”.


Thứ ba: Tôi không phủ nhận vấn đề là do cách dạy của người thầy thiếu
chiều sâu, chưa hấp dẫn, vẫn mang tính nhồi nhét,…và người thầy cũng
chưa đủ sức vượt qua “rào cản” môn phụ, nên tâm lý chán nản, không muốn
đầu tư nhiều cho một tiết dạy, nhưng không có nghĩa là tất cả thầy, cô giảng
dạy môn Lịch sử trên cả nước ta đều như vậy.
Thứ tư: là do sự thực dụng về môn học, theo tôi đây là nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng yếu kém về kiến thức môn Lịch sử ở rất nhiều
người, kể cả những học sinh đã và chưa tốt nghiệp. Bởi vì, có thể nói 99 %
ngành nghề không cần người lao động phải am hiểu về lịch sử, mà chỉ cần
trình độ Tin học, Ngoại ngữ hay Toán, Lý, Hoá, Sinh mà thôi. Môn Lịch sử
không phải là môn bắt buộc thi tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc khi
phỏng vấn xin việc làm hoặc là thi vào biên chế nhà nước, nên dần dà trong
học sinh, thầy cô và cả mọi người tồn tại một lối ứng xử ngầm: Lịch sử chỉ
là môn học phụ, học chỉ mang tính đối phó, học để biết, nhưng “Biết để
làm gì?” khi không vận dụng vào “thực tiễn” công việc, đối với thầy cô dạy
môn Lịch sử ở trường phổ thông là “bốn không”: không phụ đạo, không
tăng tiết, không dạy thêm và không thu nhập. Một khi không thu nhập thì
làm sao tự trang bị đồ dùng dạy học hay ứng dụng công nghệ thông tin vào
bài giảng, mà trực quan không sinh động, không phong phú thì học sinh
chán học, thêm vào đó là không ứng dụng gì trong công việc, học chỉ để biết
nhưng biết để làm gì, dù chỉ có bốn từ “biết để làm gì?” nhưng câu trả lời thì
không đơn giản. Đây là vòng lẩn quẩn chưa tìm ra lối thoát.
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 4
III.NHỮNG GIẢI PHÁP:

Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn Lịch sử trong nhà
trường phổ thông, tôi xin nêu một vài giải pháp để khắc phục những khó
khăn chủ quan về phía người thầy:
1. Để phần nào khắc phục nội dung “quá dài” trong sách giáo khoa:
a.Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa ở nhà:

Muốn hiểu được nội dung của bài, học sinh phải hiểu được các thuật
ngữ, một số từ hay một vài cụm từ quan trọng trong mỗi bài, phải có cách
lập luận khoa học, phân tích vấn đề, vận dụng kiến thức đã học ở từng bài để
tổng hợp một giai đoạn hay một khoá trình lịch sử,… đây là một trong
những phương pháp lấy học sinh làm trung tâm. Để đáp ứng yêu cầu này,
đòi hỏi mỗi học sinh phải đọc sách giáo khoa ở nhà trước khi học bài mới.
Nhưng trong thực tế, học sinh chưa quen với việc đọc một tài liệu khoa học,
các em có tâm lí chờ đợi, ít chịu động não, mau nản chí trước những vấn đề
khó. Học sinh chỉ đọc sách giáo khoa qua loa nên không nắm được nội dung
chính của bài, không dừng trước những từ, cụm từ “lạ” để suy nghĩ, thậm chí
có nhiều em không đọc bài trước, không biết bài mình sắp học có tựa là gì?
gồm mấy phần? phần nào đó do người thầy không có đủ thời gian kiểm
soát xem các em có đọc sách trước hay không, từ đó các em ỷ lại, chủ quan
và theo thời gian đã hình thành trong đa số học sinh thói quen không đọc bài
mới trước ở nhà.
Vì thế, sự hướng dẫn của người thầy là rất quan trọng, để học sinh làm
quen với cách đặt vấn đề, phân tích vấn đề, giải thích vấn đề, tổng hợp vấn
đề và đánh giá vấn đề, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm việc với
sách giáo khoa theo các bước sau:
-Đọc lần 1: đọc tựa chương, tựa bài, đọc lướt nhanh nội dung của mỗi
mục, sau đó viết nhanh ra giấy những nội dung cần lưu ý nhưng không cần
thiết phải viết đầy đủ nội dung của cả câu, cả đoạn mà chỉ cần thay thế nội
dung đó bằng một từ hoặc một cụm từ để diễn tả.
+Ví dụ 1: Chương I, Bài 21: Các giai đoạn phát triển của xã hội
nguyên thuỷ (SGK lớp 10-Nâng cao). Sau khi đọc lướt, học sinh có thể tóm
tắt theo cách sau:
Người tối cổ  Người tinh khôn  Công xã thị tộc (Cách mạng đá
mới): văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn
+Ví dụ 2: Chương I, Bài 9: Cách mạng tháng Mười Nga (SGK lớp 11-
Nâng cao). Sau khi đọc lướt, học sinh có thể tóm tắt theo cách sau:

Trước cách mạng  Cách mạng tháng Hai  Cách mạng tháng
Mười  Xây dựng, bảo vệ chính quyền  Ý nghĩa.
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 5
-Đọc lần 2: Đọc lại nội dung, cố gắng hiểu từng phần, kết hợp ghi nhớ
các hình ảnh minh họa có trong sách giáo khoa để hỗ trợ cho việc hiểu nội
dung bài học. Phần này đòi hỏi người học phải có khả năng tư duy, nhưng
cách làm này không khó chỉ yêu cầu học sinh có tính chịu khó mà thôi.
+Trở lại ví dụ 1: Sau khi đọc lại nội dung lần thứ hai, học sinh phải
biết niên đại của Người tối cổ, công cụ lao động của họ như thế nào? (bằng
cách quan sát Hình 41); thuật ngữ Thị tộc, Bộ lạc; Hiểu phần nào về nền văn
hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn; Vì sao gọi là Cách mạng đá mới?
+Trở lại ví dụ 2:
Mục 1: học sinh nắm được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội kết hợp
quan sát Hình 23 để hiểu được hậu qủa của việc Nga hoàng đẩy nhân dân
Nga vào Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Mục 2: Học sinh cần hiểu vì sao trong năm 1917 ở Nga lại tiến hành
tới hai cuộc cách mạng?
Mục 3: Học sinh cần hiểu vì sao cần phải bảo vệ chính quyền?
Mục 4: Cách mạng tháng Mười Nga 1917 thắng lợi có ý nghĩa như
thế nào đối với nước Nga và thế giới, trong đó có Việt Nam.
-Đọc lần 3: Nắm được mối liên hệ giữa các mục trong bài và đừng quên
đọc cả câu hỏi ở mỗi mục và cuối bài, để định hướng nội dung trả lời.
Học sinh cần gạch chân một số từ hoặc cụm từ quan trọng có liên quan
đến câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc khó hiểu để tập trung vào nội dung đó
khi nghe thầy giảng trên lớp.
+Trở lại ví dụ 1: sau khi đọc ba lần nội dung của bài thì học sinh sẽ
biết được thời nguyên thuỷ xã hội Việt Nam trải qua mấy giai đoạn? Đó là
những giai đoạn nào? Cuộc sống lúc bấy giờ ra sao?
+Trở lại ví dụ 2: sau khi đọc ba lần nội dung của bài, học sinh sẽ biết
nguyên nhân nào dẫn đến cách mạng? Nhiệm vụ của cách mạng? Kết quả

của cách mạng? Bài học kinh nghiệm cho những nước khác?
b.Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa trên lớp:
Khi học sinh đã quen dần với phương pháp đọc sách giáo khoa ở nhà,
giáo viên có thể rèn luyện cho học sinh cách đọc sách giáo khoa tại lớp.
Hình thức này yêu cầu các hoạt động của học sinh cao hơn, nhạy bén hơn và
người thầy cũng phải kiên trì hơn, vì không phải một sớm, một chiều mà học
sinh làm tốt được. Nhưng khi học sinh đã có thói quen này thì sẽ khắc phục
phần nào tình trạng nội dung bài học quá dài.
Cụ thể: Khi dạy Bài 31: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc (Lớp
10- Nâng cao), giáo viên yêu cầu HS đọc đoạn 3, SGK trang 168 và cho biết
tình hình Phật giáo trong giai đoạn này ra sao? HS nói những hiểu biết của
mình về tôn giáo này?
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 6
Bài 32: Việt Nam thế kỉ XV- thời Lê sơ (SGK lớp 10-Nâng cao), giáo
viên yêu cầu HS đọc đoạn 3 (gồm 4 dòng), SGK trang 173 và gọi lên bảng
vẽ sơ đồ tổ chức Bộ máy nhà nước ở trung ương.
Với phương pháp đọc sách giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh thói quen
làm việc với tài liệu khoa học, giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp và
giành thời gian mở rộng kiến thức như kể những câu chuyện có liên quan
hoặc nêu nhận định hoặc đặt câu hỏi mang tính giáo dục học sinh, đặt học
sinh vào tình huống có vấn đề,…Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giải
quyết nội dung bài học quá dài, còn học sinh sẽ hứng thú hơn trong việc đọc
sách giáo khoa vì tự mình khai thác nội dung bài học dưới sự hướng dẫn của
người thầy.
Để vận dụng phương pháp đọc sách giáo khoa có hiệu quả, giáo viên
phải thường xuyên đôn đốc, nhắc nhỡ, kiểm tra việc đọc sách giáo khoa của
học sinh bằng cách kiểm tra sách giáo khoa xem học sinh có gạch chân
những từ hoặc cụm từ nào hay không? Hoặc hỏi các em có biết bài học hôm
nay có mấy phần, nội dung chính là gì? Cũng sẽ có trường hợp khi nghe
thầy nói kiểm tra thì học sinh mới mở sách giáo khoa và gạch chân một vài

từ cho có hoặc chỉ trả lời một cách đối phó. Khi đó, giáo viên cũng cố gắng
tìm ý đúng mà khen và “Nếu lần sau em chuẩn bị kĩ hơn một chút thì sẽ tốt
hơn nhiều”, vì một lời khen có giá trị hơn nhiều lời trách mắng.
Việc yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa là một trong những phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Và phương pháp này sẽ gặp
không ít trở ngại vì thói quen thụ của học sinh, vì vậy thầy cô cần phải kiên
trì, thực hiện từng bước nhưng phải kiên quyết, phải “đến nơi đến chốn”,
phải hướng dẫn các em cách đọc sách giáo khoa và thường xuyên kiểm tra,
khi kiểm tra cần tập trung nhiều vào việc đánh giá sự hoàn thành nhiệm vụ
học tập của học sinh hơn là kiểm tra kết quả đúng hay sai và người thầy
cũng đừng quên tìm ý đúng mà khen.
2.Người thầy phải đóng vai trò chủ đạo:
Người thầy tìm cách vượt ra khỏi tâm lí môn phụ, không cho phép
“ngồi chờ” có đủ điều kiện mới tiến hành mà cần phải làm ngay với mức độ
phù hợp, phải biết tạo sự cuốn hút môn học bằng cách đầu tư thời gian cho
việc nghiên cứu một tiết dạy, luôn tạo mới mẽ cho mỗi tiết học, quyết tâm từ
bỏ thói quen dạy học theo kiểu truyền đạt kiến thức một chiều, chỉ nói lại
những nội dung có sẵn trong sách giáo khoa. Đồng thời trong cách diễn đạt
của giáo viên, ngôn ngữ phải rõ ràng, giàu hình ảnh, sinh động, hấp dẫn, gây
xúc cảm cho học sinh, tạo cho học sinh hình thành biểu tượng.
a.Tạo tính chiều sâu trong tiết dạy:
Trong một tiết dạy Lịch sử, giáo viên cần phải chuẩn bị công phu, tạo
ra nhiều phương án, toàn diện về ngôn ngữ cũng như nghệ thuật trình bày,
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 7
lời nói rõ ràng, trong sáng. Mặt khác, người thầy cần nắm vững kiến thức để
khai thác bài học tốt, cần đa dạng và phong phú các tài liệu tham khảo về
lịch sử, văn học, địa lí, triết học, nghệ thuật,… để có khả năng liên môn tốt.
Khi dạy về cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai (Bài 5, SGK
lớp 12, tập 1), giáo viên cần sự hiểu biết và có khả năng vận dụng tốt nhiều
môn học khác, như: Toán, Lí, Hóa, Sinh,…kiến thức về khoa học vũ trụ,

nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thông tin,…thì mới tạo được chiều
sâu của bài giảng. Cụ thể: khi giới thiệu vào bài, giáo viên có thể làm thí
nghiệm để HS quan sát và trả lời:
-Giáo viên chuẩn sẵn một lọ nước, một miếng tả lót Baby, một bông
mướp, một cái ly.
-Giáo viên tiến hành thí nghiệm: đổ nước vào ly rồi cho bông mướp
vào. Học sinh quan sát sẽ thấy bông mướp hút hết phần nước có trong ly, rồi
giáo viên vắt bông mướp thì nước trong bông mướp sẽ chảy ra. Sau đó, giáo
viên thao tác các bước tương tự như vậy, nhưng thay bông mướp bằng tả
Baby.
-Sau khi học sinh quan sát thí nghiệm giáo viên đặt câu hỏi: vì sao tả
Baby thấm nước nhưng nước không chảy ngược trở ra? Sau khi học sinh trả
lời, tuỳ theo câu trả lời của học sinh mà giáo viên dẫn dắt vào bài mới:
Trong tả Baby có thành phần Polime, Polime là một trong rất nhiều thành
tựu do CMKHKT mang lại nhằm phục vụ con người, hôm nay các em sẽ
được tìm hiểu về cuộc cách mạng này.
Hoặc khi dạy Bài 7: Những thành tựu văn hóa thời cận đại (SGK lớp
11-Chuẩn), giáo viên phải biết kết hợp các môn học có liên quan, như văn
học, nghệ thuật, tư tưởng, âm nhạc, hội họa,… ở thời cận đại và những ảnh
hưởng, tác động của nó đối với xã hội. Giáo viên có thể kể một vài mẫu
chuyện về danh họa nổi tiếng Pi-cát-xo (mẫu đàn ông trong mắt của nhiều
phụ nữ đương thời vì tài vẽ tranh của ông), hay những bản giao hưởng của
thiên tài âm nhạc Mô-da, kể về tác phẩm văn học AQ chính truyện,…hay
giáo viên yêu cầu học sinh nói lên những gì mình biết về hai nhà triết học:
Hê-ghen, Phơi-ơ-bách (học ở môn GDCD),…
Hoặc khi dạy Bài 28: Xây dựng và phát triển nhà nước độc lập thống
nhất từ thế kỉ X đến thế kỉ XV (SGK lớp 10-Nâng cao), giáo viên có thể kể
chuyện về nguyên phi Ỷ Lan, bà được tôn là cô Tấm sống, là Quan nữ âm,
không lấy việc trau chuốt nhan sắc để được sự sủng ái của vua Lý Thánh
Tông mà chỉ chuyên vào việc nghiên cứu sách vỡ cùng vua lo cho dân cho

nước,…hay những câu chuyện về Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải,…
Hoặc dạy Bài 30: Kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến thế kỉ
XV (SGK lớp 10-Nâng cao), giáo viên hỏi học sinh biết gì về hội nghị Bình
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 8
Than (Trần Quốc Toản bóp nát quả cam…) và Diên Hồng (các bô lão đều
đồng thanh trả lời: “đánh”, tinh thần “sát Thát”,…)?
Hoặc khi dạy Bài 2: Phong trào cách mạng Việt Nam trong những
năm (1919-1925) (SGK lớp 12, tập 2 -không phân ban), để giảng về hành
trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc giáo viên có thể liên hệ bài
thơ Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên):
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương…”
Hay cảm xúc của Bác khi đọc Luận cương của Lênin (7/1920) về vấn đề dân
tộc và thuộc địa:
“…Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc,
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi”…”
Nói chung, người thầy phải đa dạng hoá phương pháp giảng dạy, thông qua
việc trình bày các sự kiện lịch sử nên có hình ảnh tái tạo quá khứ để tạo biểu
tượng và khơi dậy những cảm xúc sâu sắc về lịch sử.
b.Khai thác kênh hình:
Nếu người thầy có phương pháp tốt thì hiệu quả của bài dạy càng
cao, để đạt hiệu quả đó giáo viên không chỉ dừng lại ở sử dụng kênh chữ mà
còn kết hợp cả kênh hình, nhằm phát triển tư duy, kĩ năng, kĩ xảo, tính tích

cực của học sinh trong học tập.
Cụ thể: Trước khi chuyển vào phần ba: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến
1918 (SGK lớp 11-Chuẩn), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát ba hình
trang 105 và cho biết ba hình đó nói lên nội dung gì?
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 9

Học
sinh
quan sát hình và ít, nhiều sẽ nói lên được nội dung của những hình trên, sau
đó giáo viên dẫn dắt vào nội dung của phần học mới, điều này tạo cho các
em có tính tò mò về môn học và khi học sẽ thích thú hơn.
Hoặc khi dạy về sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thuỷ (SGK
lớp 10-Nâng cao), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình và miêu tả về sự
tiến triển của loài người (có thể gợi ý cho các em miêu tả về dóc dáng,
gương mặt, sự thay đổi từ vị trí số 1 đến số 7,…):
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 10
Hoặc khi dạy về tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
(SGK 12, tập 2, Bài 8), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình và miêu tả
về lớp Bình dân học vụ: điều kiện lớp học, thành phần lớp học, thái độ học
tập của học viên,…sau đó liên hệ với lớp học mà bản thân các em đang ngồi.
Khi dạy Bài 4: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII (SGK lớp 11-Nâng
cao), để tạo biểu tượng cho học sinh về đời sống của nhân dân Pháp trước
cách mạng, giáo viên yêu cầu các em quan sát hình và miêu tả tình cảnh
nông dân trước cách mạng: người nông dân già cõng trên lưng mình quý tộc
và tăng lữ, trong túi áo là giấy nợ, còn xung quanh thì chuột bọ phá hoại
mùa màng,…

Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 11

Hoặc khi dạy Bài 33: Chiến tranh phong kiến và sự chia cắt đất nước (SGK

lớp 10-Nâng cao), giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào bản đồ hành chính Việt
Nam hiện nay, hãy cho biết các khu vực tương đương với vùng kiểm soát của
Bắc triều và Nam triều, khu vực Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ranh giới phân
chia Đàng Trong và Đàng Ngoài có gì đáng nhớ?
c.Tạo môi trường gần gũi, thân thiện trong giờ dạy:
Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần tạo môi trường thân thiện, bằng nhiều
cách, tuỳ theo đặc thù của từng địa phương, có thể thông qua việc tổ chức
cho học sinh tham quan học tập ở bảo tàng, các di tích lịch sử phù hợp với
chương trình, các trò chơi, đố vui, hoạt động nhóm hay kiểm tra bài tập, sách
giáo khoa, cho các em sưu tầm tranh, ảnh, tài liệu,… kèm theo đó là những
lời dặn dò, nhắc nhỡ, động viên, khích lệ,… bởi thông qua việc dạy chữ còn
dạy người, giúp các em hình thành nhân cách, tác phong làm việc, không
“ngồi chờ”, không còn nhút nhát mỗi khi muốn phát biểu hay hỏi về một nội
dung nào, phải tạo một môi trường mà tất cả mọi người đều phải có sự đóng
góp, nếu học sinh chỉ nghe một chiều thì sẽ nhanh chóng quên đi những gì
mình đã nghe, còn khi tự các em làm thì các em sẽ nhớ và hiểu sâu sắc hơn
về vấn đề đó. Đây là một lợi thế rất lớn đối với các em khi bước vào đời,
một môi trường mới lạ, các em phải tự đi trên đôi chân của mình, không có
cha, mẹ hay thầy, cô bên cạnh để dìu dắt.
Trên đây là một số giải pháp về nguyên nhân từ phía người thầy, còn
những yếu tố khách quan tôi hy vọng và tin tưởng trong một thời gian ngắn,
môn Lịch sử sẽ trở về đúng vị trí của nó.
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 12
IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Với một số kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, tôi đã đạt được kết quả
như sau:
-Trong năm học 2006-2007:
+Tỉ lệ tốt nghiệp lần 1 năm 2007 là 75,28% (chỉ tiêu là 70%).
+Xếp loại giờ dạy: 4/4 tiết đạt loại giỏi.

+Đạt danh hiệu: Chiến sĩ thi đua cơ sở (lần thứ hai).
-Trong năm học 2007-2008:
+Lớp 11A3-Ban KHTN học kì I đạt 90% (chỉ tiêu là 70%); khối 12 đạt
75% (chỉ tiêu là 65%); Khối 10-Ban KHXH-NV cả năm xác suất đạt 92%
(chỉ tiêu là 80%).
+Xếp loại giờ dạy: 4/4 tiết loại giỏi.

V.KẾT LUẬN:

Như vậy, để chuẩn bị cho một tiết dạy thật không đơn giản chút nào!
Người thầy phải có sự linh hoạt trong tổ chức thảo luận, tranh luận trên lớp
học để vừa đảm bảo thời gian tiết học vừa có thể phát huy tối đa tính tích
cực, sự sáng tạo của học sinh. Yêu cầu học sinh làm việc cũng có nghĩa là
tạo cho các em tác phong làm việc trong thời đại của nền kinh tế tri thức,
kinh tế hội nhập, để các em sẵn sàng hoà nhập khi bước vào đời.
Con đường phía trước còn rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng tôi tin
rằng với sự tận tuỵ, lòng yêu nghề, mến trẻ, người thầy sẽ luôn tìm tòi những
điều lý thú để đưa thế hệ trẻ trở về quá khứ một cách sống động và hướng
đến tương lai là những con người toàn diện.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành đề tài, nhưng chắc hẳn vẫn
còn không ít thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn
đọc, để chúng ta cùng nâng cao chất lượng của môn học Lịch sử.

Xin chân thành cảm ơn!
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 13
Nâng cao hiệu quả trong một giờ học Lịch sử - GV Lê Ngọc Đảm 14

×