Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.88 KB, 15 trang )

1. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các NHTM Việt
Nam.
1.1. Kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm
ẩn nhiều rủi ro
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị,
quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh ngày càng phát huy tác dụng. Những
rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM.
Các Ngân hàng & các Định chế tài chính phi Ngân hàng trước hết là trung gian
tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những
người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, Doanh nghiệp,
Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm mà các NHTM mua, bán,
kinh doanh trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích Ngân
hàng khác. Trong hoạt động tín dụng, cho dù hệ số an toàn vốn có đạt tới 8% thì
so với tài sản có, số vốn liếng của bản thân Ngân hàng chỉ là không đáng kể
(hoặc nói theo các nhà toán học thì có thể dùng cụm từ “vô cùng nhỏ bé”). Nói
một cách ngắn gọn là: Hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để
thu hút nguồn và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển
dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực
lượng cầu về các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM do
đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng
cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra
những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận
được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là
hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
1.2. Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro
Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro.
Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp
rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và
khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như


1
vậy, hiệu quả kinh doanh của NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh
nghiệp. Khi rủi ro quá lớn đến mức NHTM mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến
phá sản doanh nghiệp.
1.3. Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt
động kinh doanh của NHTM
Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp
lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản trị
NHTM cần được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông
tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra,
kiểm soát và kiểm toán nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa,
hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh – Theo đó, nhiều ý kiến khẳng
định:”quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống” hay là
“chết” của một NHTM”
2. Những nội dung cơ bản về quản trị rủi ro tại các NHTM
2.1. Các rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
Có nhiều cách phân loại rủi ro, tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các
NHTM Việt Nam, chúng tôi thấy có thể tổng hợp thành 1 số loại rủi ro cơ bản
sau:
Rủi ro tín dụng: Rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác
không thực hiện một nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với
một Ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là
nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro này bao gồm cả rủi ro thanh toán
khi một bên thứ ba (ví dụ một Ngân hàng thanh toán) không thực hiện các nghĩa
vụ của mình đối với Ngân hàng này.
Rủi ro lãi suất: thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến
động của lãi suất. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau, như rủi
ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi
suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Rủi ro thanh khoản: Phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng là huy

động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các
khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi
2
tiền, đặc biệt như chúng ta đã thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào thì người
gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một Ngân hàng có
thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất
động sản đến cổ phiếu và trái phiếu
Rủi ro ngoại hối: Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của
các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải gánh chịu
thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
Rủi ro hoạt động: Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức
mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt
động là rất nhiều như: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh
doanh nguồn vốn, quản trị tồi các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô,
thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa
Rủi ro pháp lý: Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách:
- Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý do
của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình
thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách
hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp có thể phát sinh từ các lý do tách biệt
khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách hàng
gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện cáo
- Khi các thu xếp pháp lý của một Ngân hàng, ví dụ, các hợp đồng cho vay và tài
sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng đó có vấn đề, hoặc Nhà nước thay đổi
đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên điều này có thể
dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng.
Rủi ro chiến lược: phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của
Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến
lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân Ngân hàng. Ví dụ, việc

xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các
nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng gặp phải
rủi ro thua lỗ.
Rủi ro uy tín: Là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó khăn
3
nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời
bỏ Ngân hàng.
2.2. Chương trình quản trị rủi ro
Một chương trình quản trị rủi ro toàn diện bao gồm 4 yếu tố: Xác định hạn
mức rủi ro (đưa ra mức rủi ro chấp nhận được), đánh giá rủi ro, theo dõi tổng thể
rủi ro và quá trình quản trị rủi ro.
2.2.1. Xác định hạn mức rủi ro
Các bộ phận nghiệp vụ quản trị rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho bộ
phận mình, là mức rủi ro nhất định mà TCTD có thể chấp nhận được trong nỗ
lực để có được lợi nhuận, trên cơ sở sự sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh
tài chính của TCTD. Hội đồng Quản trị (HĐQT) theo định kỳ có trách nhiệm
xem xét lại và thông qua các hạn mức đó. Các mức này sau đó được thông báo
tới toàn bộ nhân viên các bộ phận nghiệp vụ và ban điều hành, ban điều hành
chịu trách nhiệm đảm bảo các bộ phận nghiệp vụ tuân thủ các hạn mức này. Có
tỷ lệ thưởng và phạt tính trên tổng số thấp hơn và lớn hơn tổng số vượt hạn mức
đó.
2.2.2. Đánh giá rủi ro
Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro lớn liên quan
đến các sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động của TCTD, phải có các chốt kiểm tra
nằm trong các quy trình nghiệp vụ (hệ thống kiểm soát nội bộ - KSNB) để kiềm
chế rủi ro trong các hạn mức đã được đề ra cùng với các biện pháp để theo dõi
các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro có 4 yếu tố: nhận biết rủi ro, định lượng rủi ro, theo
dõi rủi ro và kiểm soát rủi ro.
- Nhận biết rủi ro: Bước đầu tiên để có một chương trình quản trị rủi ro hiệu

quả là phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà TCTD có thể gặp phải
thông qua phân tích đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và các quy trình hoạt
động
- Định lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban điều
hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Hiện nay trên
thực tế có 3 phương pháp định lượng cơ bản sau:
4
+ Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính
toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
+ Phương pháp kinh nghiệm: Phương pháp này được hình thành trên kinh
nghiệm của các chuyên gia. Và để chính xác hơn các nhà quản trị Ngân hàng có
thể kết hợp phương pháp thống kê và phương pháp kinh nghiệm với nhau.
+ Phương pháp tính toán - phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây
dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro Ngân hàng dựa trên động
thái biên thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.
- Theo dõi rủi ro: là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm
soát, nhờ đó ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro của từng lĩnh vực
kinh doanh.
- Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục
nằm trong hệ thống KSNB trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm
giảm thiểu rủi ro. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu rủi ro
tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát thấp
có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Ban điều hành phải
tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem
lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
2.3. Các nguyên tắc trong việc quản trị rủi ro Ngân hàng
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro;
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập;

- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính;
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế;
- Nguyên tắc hợp lý về thời gian;
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của Ngân hàng;
- Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép;
3. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam
Trong nội dung của trên 35 bài viết tham luận, hầu hết các tác giả đã đề cập
sâu rộng đến các mặt khác nhau trong vấn đề quản trị rủi ro tại các NHTM. Tuy
5
nhiên, để có tính tập trung định hướng, bài viết này xin được tóm tắt một số vấn
đề đã được bàn nhiều trong các bài viết như sau:
3.1. Thực trạng rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD, theo quy định tại
Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc NHNN, là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của
TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ của mình theo cam kết. Hiện nay, dịch vụ tín dụng cho vay của các NHTM
Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản có, do
đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống
Ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải
pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng, như: xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ, chính sách dự phòng rủi ro, xác định giới hạn tín dụng đối với
khách hàng, áp dụng khung sổ tay tín dụng, trong đó quy định chính sách tín
dụng của Ngân hàng, chiến lược tăng trưởng tín dụng phân theo đối tượng khách
hàng, khu vực, ngành và phát triển các chính sách khách hàng dựa vào việc đánh
giá và phân loại khách hàng, quản trị lãi suất và quản trị thanh khoản nhằm đảm
bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đạt được những
thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.

Các NHTM đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tập
trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực
hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng
của các NHTM tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay
các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh
tế phi nhà nước (tỷ trọng dư nợ tín dụng khu vực nhà nước chiếm khoảng
39%/tổng dư nợ vào 12/2002 và giảm xuống còn 34% vào 12/2004). Điều này
hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển kinh tế Việt Nam và thế giới vì khu vực
kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng
chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá
6
hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các NHTM Việt Nam vẫn còn ở mức cao hơn
so với nhiều Ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới. Công tác cung
cấp, khai thác và sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều NHTM vẫn còn yếu, còn
có tình trạng một khách hàng vay vốn tại nhiều NHTM nhưng không có sự kiểm
tra, đánh giá về mức độ rủi ro. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn
nhiều bất cập, chưa hỗ trợ hiệu quả cho việc ra quyết định cho vay và thu hồi nợ.
Nguyên nhân của tình trạng này là do công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa
được tiến hành một cách bài bản, nghiêm ngặt; Rủi ro tín dụng chưa được xác
định, đo lường, đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập.
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần
tăng trưởng kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Uỷ ban
Basel (Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, gần đây, NHNN
đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, như:
- Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các NHTM tuân thủ
đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao
thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả
năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra,

kiểm soát nội bộ;
- Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc NHNN
sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội dung
được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở
Pháp lý cho TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh – Ví dụ: việc cơ
cấu lại thời hạn trả nợ là do NHTM tự xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng
tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng;
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN
ban hành Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của NHTM;
- Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN
ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của NHTM.
7
Các NHTM hiện đang thực hiện xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ
phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế, đặc điểm kinh doanh của
NHTM theo tinh thần Quyết định 493 của Thống đốc NHNN. Đây là một bước
tiến ban đầu trong tiếp cận an toàn vốn, không chỉ nhằm mục đích phân loại nợ,
mà còn nhằm đánh giá rủi ro khoản vay, quản lý chất lượng tín dụng. Tuy nhiên,
bản thân QĐ 493 cũng cần được điều chỉnh và đổi mới theo hướng quản trị rủi
ro phải theo qui chuẩn của sổ tay tín dụng để phản ánh đúng các tiêu chí rủi ro
theo “493” thực tế chứ không phải “493” danh nghĩa theo hệ thống báo cáo và
còn nhiều khe hở như hiện nay. Nhiều ý kiến kiến nghị chương trình tái cơ cấu
nghiệp vụ các NHTMNN tới đây phải tập trung mạnh vào cấu phần này
3.2. Thực trạng rủi ro ngoại hối
- Trong hai năm 2003, 2004, 4 NHTM Nhà nước hàng đầu đều có trạng thái
ngoại hối mở tuy nhiên về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn quy định của NHNN
(không vượt quá 30% vốn tự có). Tuy nhiên, vị thế của các Ngân hàng không hề
giống nhau, một số Ngân hàng có vị thế trường về ngoại tệ và một số Ngân hàng
có vị thế đoản về ngoại tệ. Điều đó có nghĩa là dù tỷ giá có biến động theo chiều
hướng nào đều gây bất lợi cho các Ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng thì những Ngân

hàng có vị thế đoản ngoại tệ bị thiệt hại và ngược lại nếu tỷ giá giảm thì những
Ngân hàng có vị thế trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt hại.
- Thực tế Việt Nam cho thấy sự thay đổi mặt bằng lãi suất VND và USD có
ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá giữa VND và USD. Từ năm 2000 trở đi, đồng USD
liên tục tăng giá so với VND, điều này thúc đẩy tâm lý muốn găm giữ ngoại tệ,
các NHTM luôn có nhận định là duy trì trạng thái ngoại hối trường ròng sẽ có
lợi. Tuy nhiên do chênh lệch lãi suất VND và USD quá lớn dẫn đến người nắm
giữ USD lại có thu nhập thấp hơn người nắm giữ VND. Điều đó có nghĩa là nếu
Ngân hàng huy động USD với lãi suất thấp và bán ngoại tệ trên thị trường để
cho vay với lãi suất cao, duy trì vị thế đoản ngoại tệ thì số bị thiệt hại do vị thế
đoản ngoại tệ sẽ nhỏ hơn mức lợi mà Ngân hàng thu được nếu tốc độ tăng giá
USD vẫn thấp hơn mức chênh lệch lãi suất bình quân giữa lãi suất VND và lãi
suất cho vay USD. Các nguồn lợi cũng cần cảnh giác với nguồn lợi mang tính
bấp bênh này. Đặc biệt là trong tình trạng chỉ số giá tiêu dùng trong nước đã và
8
đang còn có xu hướng gia tăng từ 2 năm nay.
Nguyên nhân gây ra rủi ro:
+ Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường rủi
ro quá yếu kém, kĩ năng xử lí dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có những
bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường:
- Hiện nay dù có tham gia vào 1 số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các
NHTMVN vẫn chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán,
cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh tiền tệ,
NH đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường.
Cũng chính vì tư tưởng trên nên nhìn chung các NH rất yếu về phân tích tỷ giá
mà đặc biệt là yếu về phân tích kĩ thuật biến đổi cấu trúc dự trữ giữa các loại
ngoại tệ. Hầu như rất ít NH sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ
thêm cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít
NH ở Việt Nam mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các NH chỉ kinh doanh
không công cho khách hàng.

- Một điểm bất lợi khác của các NHTMVN so với NH ở những nước phát
triển như: Singapore, Hong Kong là tại VN chưa có hệ thống EBS (Electronic
Brokerage System) nên giá mà các NH được cung cấp bởi Reuters hay các hãng
tin khác cũng chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch thật sự
trên thị trường. Bởi trước hết chỉ có thông qua EBS các dealer mới có thể thấy
được các luồng tiền dịch chuyển trên thị trường thế giới; Thứ hai, thông qua
EBS các NHTMVN có thể thấy được lệnh trên thị trường bán/ mua ở mức giá
nào, từ đó có thể biết được đâu là vùng cản (resistance), đâu là vùng nâng đỡ
(support) và các lệnh ngăn lỗ (stop loss order –SL ODA) được đặt ở đâu.
+ Các qui định pháp lí về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa hoàn thiện
gây rủi ro tỷ giá:
Mặc dù NHNN đã thay đổi phương pháp xác định trạng thái ngoại tệ theo
QĐ 1081/2002/QĐ-NHNN cho phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam. Tuy
nhiên, việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được tính trên cơ sở số dư tại
thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến trạng thái ngoại tệ được hình
thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của Ngân hàng mà chưa tính đến thu và
9
chi phí trả lãi phát sinh từ các Tài sản Có và Tài sản Nợ sinh lời. Các NH chưa
tính đến các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng thế nào đến giá trị
giữa trạng thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo. Thực trạng này có
thể gây rủi ro lớn.
+ Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên thị
trường:
Mặc dù thời gian qua NHNN đã xoá bỏ sự áp đặt chủ quan trong việc thiết
lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường “chợ đen” dần
dần được thu hẹp. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá trong những năm qua còn nhiều
phức tạp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân
của thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng; nhưng trong thực tế, Ngân hàng Nhà
nước vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá còn
quy định biên độ mua, bán làm cho việc yết giá của các NHTM bị cứng nhắc.

Ngoài ra, cơ cấu và mức tỷ giá để đưa vào tính bình quân còn mang tính duy ý
chí.
3.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại Việt Nam
Có thể chia rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tạiViệt Nam thành 2 loại
chính: rủi ro do giả mạo thẻ và rủi ro kỹ thuật.
- Giả mạo thẻ trong lĩnh vực thanh toán
Về mặt thanh toán thẻ, đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang “được”
các tổ chức tội phạm thẻ trong khu vực nhắm tới như một “điểm đến màu mỡ”,
nơi thẻ giả mạo làm từ các nước khác được tội phạm đưa vào sử dụng tại thị
trường Việt Nam. 61.1% giá trị giả mạo trong hoạt động thanh toán thẻ là do thẻ
giả, thẻ bị mất cắp (19.1%), thẻ bị thất lạc (11,1%) sau đó là hoá đơn giao dịch
bị in nhiều lần, đơn phát hành thẻ giả mạo và tài khoản thẻ bị lợi dụng. Thẻ giả,
thẻ mất cắp và thẻ thất lạc chiếm đến 96.7% tổng giá trị giả mạo trong hoạt động
thanh toán thẻ tại VN. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chấp nhận thẻ
chưa thực hiện đầy đủ các quy định, quy trình trong quá trình chấp nhận thanh
toán thẻ (Theo ý kiến trong bài viết của Nhóm nghiên cứu KH Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam).
- Rủi ro kỹ thuật
10
Do tốc độ tăng trưởng khách hàng sử dụng thẻ cao nên hệ thống cũng đã bắt
đầu xuất hiện tình trạng quá tải, đặc biệt là VCB. Vào những dịp Lễ, Tết đã xuất
hiện tình trạng giao dịch sử dụng thẻ Connect 24 không thực hiện được do lỗi
đường truyền, do nghẽn mạch gây ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng của sản
phẩm và dịch vụ Ngân hàng cung cấp.
4. Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
4.1. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng
- Các NHTM phải kịp thời triển khai việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ nhằm hỗ trợ cho quản trị rủi ro; Nghiên cứu, đưa vào áp dụng các
mô hình quản trị rủi ro phù hợp với các quy định hiện hành, đặc điểm hoạt động
của từng NHTM và thông lệ quốc tế;

- NHTM phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khoá
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân
tích rủi ro tín dụng cho cán bộ. Theo lời khuyên của các chuyên gia về quản trị
rủi ro tín dụng thì không có phương pháp phân tích phức tạp nào có thể thay thế
được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn trong quản trị rủi ro. Do đó, để quản
trị rủi ro tín dụng hiệu quả, các NHTM cần trang bị cho mình, thông qua quá
trình tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, nuôi dưỡng một đội ngũ cán bộ chuyên môn
hoá và có kinh nghiệm về quản trị rủi ro tín dụng.
- Chú trọng hơn nữa đến đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho việc
phân tích, đánh giá, đo lường rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng trong toàn hệ thống.
- Toàn ngành cần đẩy nhanh tiến độ “nhất thể hóa” mạng thanh toán quốc gia
để giảm chi phí phát hành thẻ và giảm đầu mối bị lợi dụng làm giả.
4.2. Giải pháp hạn chế rủi ro ngoại hối
- Giải pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng:
+ Ngân hàng cần luôn duy trì một sự cân xứng tài sản nợ và tài sản có ngoại
tệ; duy trì trạng thái ngoại hối ròng ở mức hợp lý.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng phân tích và dự báo các nhân tố ảnh
hưởng đến sự biến động tỷ giá của các loại đồng tiền, trên cơ sở đó để có quyết
định đúng đắn về các hợp đồng mua, bán ngoại tệ.
11
- Giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng
Ngân hàng cần phát triển và sử dụng các loại công cụ tài chính có khả năng
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngoại hối, như hợp đồng forwards, hợp đồng
futures (cũng giống như Forwards nhưng được giao dịch trên thị trường chính
thức), thực hiện các giao dịch swap ngoại tệ, quyền lựa chọn (Option). Tuy
nhiên, thực hiện các nghiệp vụ này Ngân hàng cần thận trọng, đặc biệt đối với
nghiệp vụ Quyền lựa chọn rất dễ gây ra rủi ro cho NH, vì thị trường ngoại hối
của Việt Nam chưa phát triển, VNĐ chưa có khả năng chuyển đổi nên việc thực
hiện đồng thời 2 giao dịch ngược chiều với 2 khách hàng là rất khó khăn. Chính

vì vậy, trong qui định của NHNN cho phép NH thực hiện nghiệp vụ Quyền lựa
chọn đòi hỏi phải có những điều kiện rất chặt chẽ
4.3. Giải pháp phòng ngừa rủi ro thanh khoản
Để hạn chế rủi ro thanh khoản, NHTM cần:
- Tính toán chính xác nhu cầu thanh khoản của NH để thực hiện dự trữ hợp
lý, không nên để nguồn vốn quá dư thừa gây lãng phí vốn ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp.
- Xây dựng danh mục đầu tư hợp lý, có tỷ trọng hợp lý về đầu tư vào chứng
khoán, có khả năng chuyển đổi nhanh sang tiền mặt với chi phí chuyển đổi thấp
nhất hoặc bằng không.
- Quản lý tài sản có hiệu quả, tạo tính ổn định cao để không tạo ra những cú
sốc rút tiền ồ ạt. Đồng thời phải dự báo tốt nhu cầu rút tiền của khách hàng trong
từng thời kỳ để có thể chủ động chuẩn bị nguồn vốn chi trả kịp thời.
4.4. Giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Phải duy trì sự cân đối các khoản nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ với
tài sản có.
- Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt đối với những khoản vay
lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi
suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử
dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp vụ
kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân xứng tài
12
sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi
suất.
4.5. Giải pháp phòng ngừa rủi ro kỳ hạn:
Sự không ăn khớp về kỳ hạn giữa tài sản Nợ và tài sản Có là phổ biến trong
hệ thống Ngân hàng của các nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt đối với nền kinh tế
tiền mặt và mức độ đô la hoá còn khá cao như Việt Nam. Để hạn chế sự không
ăn khớp này, quan điểm của nhiều tác giả cho rằng, các nước chuyển đổi cần lựa

chọn cho mình một cơ chế tiền tệ thích hợp, đặc biệt là cơ chế điều hành tỷ giá.
Ngoài ra cần phải tạo lòng tin của dân chúng với đồng bản tệ, có chính sách
ngoại hối ổn định. Đối với từng Ngân hàng, để hạn chế rủi ro kỳ hạn, đặc biệt
đối với ngoại tệ cần:
- Xác định chính xác mức độ ổn định nguồn vốn ngắn hạn, để có thể sử dụng
một tỷ lệ nhất định, an toàn cho đầu tư trung và dài hạn,
- Xây dựng chính sách tạo lòng tin đối với người gửi tiền, khuyến khích
khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài.
5. Những đề xuất rút ra từ các bài tham luận
5.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
- Phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế
toán quốc tế (IAS). Xây dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương
pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các TCTD và tiến tới theo các chuẩn
mực quốc tế;
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra Ngân hàng theo ngành dọc từ
trung ương xuống cơ sở và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động
nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của NHNN; ứng dụng những nguyên tắc cơ bản
về giám sát hiệu quả họat động Ngân hàng của ủy ban Basel, tuân thủ những
quy tắc thận trọng trong công tác thanh tra;
- Đưa ra các biện pháp hoàn thiện hệ thống giám sát Ngân hàng theo các
hướng cơ bản sau:
+ Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống
cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD, bao gồm việc
thành lập Đoàn khảo sát trực tiếp theo nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, phân
13
tích báo cáo tài chính và xác định các “điểm” nhạy cảm;
+ Phát triển và thống nhất cách thức giám sát Ngân hàng trên cơ sở lý luận và
thực tiễn;
+ Xây dựng cách tiếp cận tới công việc đánh giá chất lượng quản trị rủi ro
trong nội bộ các TCTD;

+ Nâng cao đòi hỏi kỹ thuật trong việc trích lập dự phòng rủi ro.
- Xây dựng hệ thống và các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ
nước ngoài, trong đó tập trung vào cơ chế giám sát cho vay và vay bằng ngoại tệ
của các NHTM để tránh rủi ro về tỷ giá, ngoại hối kỳ hạn, qua đó có những cảnh
báo sớm cho các NHTM;
- Hoàn thiện và vận dụng vào thực tiễn công cụ khung sổ tay tín dụng theo
chuẩn quốc tế để quản trị thống nhất hệ thống chỉ tiêu báo cáo đồng bộ – Theo
đó, cần thay QĐ 493 danh nghĩa bằng cơ chế giám sát và quản trị rủi ro theo
khung sổ tay tín dụng ở tất cả các TCTD và nâng cao chất lượng thông tin;
- Nâng cao tiêu chí trong việc cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các
TCTD dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an
toàn trong hoạt động của các TCTD;
- Tiếp tục tiến hành sắp xếp lại hệ thống Ngân hàng, đẩy nhanh quá trình cổ
phần hoá các NHTMNN đồng thời gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán để phân tán rủi ro và đổi mới cơ cấu sản phẩm dịch vụ;
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh việc sử dụng các giấy tờ có giá
như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại hối phiếu, kỳ phiếu của các
NHTM. Triển khai mạnh hơn nữa trên thị trường tiền tệ các nghiệp vụ như repo
đảo ngược, furture, option…
5.2. Đối với các NHTM:
- Đẩy mạnh công tác kiểm soát nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được
hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiềm ẩn tiêu cực, bất ổn và thiếu sót trong
hoạt động của Ngân hàng để đưa ra biện pháp chấn chỉnh;
- Khi xây dựng chiến lược họat động cần phân tích, tính toán các điều kiện kinh
tế vĩ mô, xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ nói chung, thị trường vốn
nói riêng, trong đó có tính đến tình hình quốc tế;
14
- Chỉ chấp nhận các loại rủi ro cho phép đối với từng nghiệp vụ sau khi đã phân
tích chi tiết trên tất cả các khía cạnh Luật pháp và kinh tế;
- Tích cực áp dụng các khuyến nghị của ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng;

- Khi quyết định thực hiện các nghiệp vụ cần phân chia phù hợp nguồn vốn của
Ngân hàng với mức độ rủi ro cho phép;
- Nâng cao chất lượng chuyên nghiệp của cán bộ, nhân viên cũng như tập trung
xây dựng thương hiệu cho Ngân hàng với mục tiêu giảm thiểu rủi ro đạo đức và
rủi ro hoạt động;
- Nâng cao “độ mở” thông tin về họat động thông qua các báo cáo về tình hình
tài chính của Ngân hàng với các đối tác, khách hàng và các tổ chức thanh tra,
kiểm toán;
- Mở rộng hình thức đồng tài trợ với mục tiêu hợp lý hoá sử dụng nguồn vốn và
giảm thiểu rủi ro.
- Quản trị rủi ro thông qua giám sát và kiểm soát việc tuân thủ khung sổ tay tín
dụng trong thực tiễn thay cho quản lý rủi ro thông qua báo cáo tình hình.
- Chú trọng việc thường xuyên mời chuyên gia cấp chiến lược của ngành để
tranh thủ ý kiến, bài nói hoặc lời khuyên cho các cán bộ chủ chốt của Ngân hàng
theo từng chuyên đề, từng thời kỳ và bối cảnh của nền kinh tế thị trường.
15

×