Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326 KB, 36 trang )

1
MỞ ĐẦU
Hiện nay ở Việt Nam, loại hình du lịch sinh thái phát triển khá mạnh mẽ,
không chỉ thu hút các thị trường khách quốc tế mà còn nhận được sự quan tâm,
tham gia của thị trường khách du lịch nội địa. Muốn đầu tư vào du lịch sinh thái
có hiệu quả phải có cơ
sở
lý luận cơ bản về du lịch sinh thái, nghiên cứu mô hình
cơ cấu tổ chức quản lý du lịch sinh thái, nghiên cứu các đối tượng tác động và
các yêu cầu nguyên tắc để phát triển du lịch sinh thái bền vững
.
Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, thương mại mà cả trên lĩnh vực môi
trường, xã hội,
văn
hoá du lịch sinh thái cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài
những lợi ích về kinh tế, thẩm mỹ,
còn
phải chú ý đến vần đề giáo dục môi
trường, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và phát triển bền vững.
Để giải đáp một phần vấn đề trên, em xin chọn đề tài :“Du lịch sinh thái và
phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn”, với mong muốn được
tìm
hiểu
thêm nhiều kiến thức cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh
thái đồng thời đề xuất một số ý kiến nhằm bảo vệ và phát triển du lịch sinh thái tại
VQG Xuân Sơn. Với điều kiện có hạn,
em

xin
được giới hạn nội dung đề
tài:


Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch sinh
thái
Chương II: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn
2.1. Giới thiệu chung
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái
2.3. Thực trạng phát triển du lịch
Chương III: Một số biện pháp tiếp tục phát triển du lịch sinh thái
tại VQG Xuân Sơn
3.1 Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái
3.2 Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ:
2
Em xin cảm ơn ThS. Hoàng Thị Lan Hương, Khoa QTKD Du lịch và
Khách
sạn
, Trường đại học KTQD Hà Nội đã giúp đỡ để bài viết của
em
được thành
công.
Em xin chân thành cảm ơn
!
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH SINH
THÁI
3
1.2 Khái quát du lịch sinh
thái:
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới mẻ , đang là
mối quan tâm
của
nhiều người ở nhiều lĩnh vực khác nhau .Có nhiều cách đặt
vấn đề về du lịch sinh thái và sự

tìm

kiếm
đi dến sự thống nhất bản chất , nhận
thức của loại hình du lịch sinh thái vẫn đang được tiếp
tục
trên nhiều diễn đàn
quốc tế và trong nước.
Theo Luật Du lịch, Điều 4, khoản 19: Du lịch sinh thái là hình thức du lịch
dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng
đồng nhằm phát triển bền vững.
Loại hình du lịch sinh thái về thực chất là loại hình có quy mô không lớn,
nhưng có tác
dụng
hoà nhập môi trường tự nhiên với điểm du lịch, khu du lịch
và nền văn hoá đó. Chính loại hình
du

lịch
này cũng là loại hình du lịch bền
vững mà hiện nay Tổ chức Du lịch thế giới đã khẳng định đối
với
các hoạt động
du lịch nhằm vừa đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách cùng người dân ở
vùng

du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng v.v.. đồng thời chú trọng tới việc
tôn tạo nhằm bảo tồn các
nguồn
tài nguyên du lịch để có điều kiện phát triển

hoạt động của du lịch trong tương
lai.
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm
vụ:
-
Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự
nhiên.
- Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên
mà họ đang
chiêm

ngưỡng.
- Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản
địa trong việc
quản


và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực hiện
trong điểm du lịch, khu du lịch
v.v...
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa
4
đảm bảo sự
hài

lòng
đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối
với họ, đồng thời qua du khách
quảng
bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch.

Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao
hiệu
quả của hoạt động
du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du
lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du
lịch.
Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoàn hảo về loại hình du lịch sinh
thái. Loại hình
du
lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm
1997-1998
Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển
mạnh sang loại
hình

du
lịch sinh thái phù hợp với điều kiện của sự phát triển
du
lịch.
Một số nhà khoa học về du lịch cũng đã khẳng định các loại hình du lịch
sinh thái như
sau:
- Du lịch xanh, du lịch dã
ngoại.
- Du lịch nhạy cảm, du thuyền trên sông, hồ, trên
biển...
- Du lịch thiên nhiên, tham quan miệt vườn, làng
bản...
- Du lịch môi
trường.

- Du lịch thám hiểm, mạo hiểm,lặn biển, thăm hang
động...
Từ những năm 1985-1990, đặc biệt là sau năm 1990 khoa học sinh thái
được chấp nhận
khá
rộng rãi trên thế giới và cũng từ khoa học sinh thái trở
thành một lĩnh vực khoa học có giá trị
hơn
nhiều nên ngành kinh tế-xã hội có ý
thức vận dụng những lý thuyết cơ bản của sinh thái học. Ngành
du
lịch thế giới
từ sau cuộc Hội nghị về Trái đất ở Rio đe Janeiro năm 1992 đã thực sự vận dụng
sinh
thái
học dưới nhiều mục tiêu sự phát triển bền
vững.
Việc tổ chức và điều hành loại hình du lịch sinh thái như thế nào để có
thể:
- Bảo tồn môi trường tự nhiên mà du lịch đang sử
dụng.
- Nâng cao ý thức của du khách để họ nhận rõ đặc điểm của môi trường
tự
5
nhiên trong khi du lịch đang hoà mình vào
đó.
- Động viên trách nhiệm của dân cư địa phương tại khu du lịch, điểm du
lịch có trách
nhiệm
quản lý bảo vệ và phát triển du lịch nhằm bảo đảm sự phát

triển bền vững của môi trường du lịch

thiết thực tạo được lợi ích lâu
dài.
Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức
truyền thống sẵn
có,
nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên với văn hoá
bản địa, du khách có thêm những
nhận

thức
về đặc điểm của môi trường tự
nhiên, về những nét đặc thù vốn có của văn hoá từng điểm,
từng
vùng, khu du
lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối
với
môi
trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại. Còn về quy mô của loại hình du
lịch sinh thái thì tuỳ thuộc
vào
khả năng, điều kiện, biện pháp tổ chức của nhà
quản lý hoạt động du lịch, có thể dần dần từ quy

khiêm tốn để phát triển
rộng
rãi.
Với Việt nam , một nước mới phát triển về du lịch và loại hình du lịch sinh
thái hầu như còn

rất
mới,chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm .Vấn đà đạt ra
lúc này mang tính cấp bách là cần phải
quan
tâm đến cả hai phương
diện:
Một là: Thống nhất về bản chất và khái niệm của loại hình du lịch sinh
thái.

Hai là: Tiếp cận với xu thế và nhu cầu thị trường du lịch sinh thái trong
nước và quốc
tế,
tiến hành xây dựng những định hướng và hoạnh định chiến
lược phát triển cho loại hình du lịch
sinh
thái ở Việt
nam.
Với đặc trưng khác biệt về nguồn gốc của sản phẩm du lịch sinh thái và
tính chất bền
vững
của nó, trong những năm qua ở lĩnh vực hoạt động du lịch
sinh thái trên phạm vi toàn thế giới
người

ta
đã rút ra nhiều bài học rất có giá trị
đóng góp vào lý luận và hoạt động của loại hình du lịch sinh
thái.
Theo đó du lịch sinh thái là loại hình du lịch đặc biệt tổng hợp các mối
quan tâm cảm

giác
nhiều đến môi trường thiên nhiên và tìm đến những vùng
6
thiên nhiên nhiều tiềm năng về môi
trường
sinh thái để cải thiện kinh tế, phúc lợi
xã hội, sức khoẻ và hưởng thụ, khám phá những cái mới, cái
lạ,
cái đẹp và sự
trong lành của thế giới tự nhiên , tạo ra mối quan hệ hữu cơ, hoà đồng giữa con
người
với
thiên nhiên, môi trường đồng thời hành động có ý thức trách nhiệm
làm cho thiên nhiên
môi
trường bền vững, phong phú phục vụ trở lại lợi ích của
con người cả ở hiện tại và tương
lai.
1.2 Tất yếu về du lịch sinh thái tại Việt
Nam
Phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du lịch sinh thái phát triển
nhằm thoả mãn
nhu
cầu ngày một tăng của khách du lịch, của cộng đồng. Nhu
cầu này liên quan chặt chẽ đến sự
phát

triển
không ngừng của xã hội, đảm bảo
về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh

thái,
với tư cách là một
ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch sinh thái do nhu cậu khách
quan, xu thế này còn không nằm ngoài xu thế chung về phát triển xã hội của loài
người khi các giá trị
tài

nguyên
ngày càng bị suy thoái, khai thác cạn
kiệt.
Việt Nam là một đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm
hoàn toàn
trong

vòng
đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là
phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo nên
một
nền nhiệt độ cao, độ ẩm không khí cao,
mưa nhiều. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn
3000km,
lưng dựa vào dãy
Trường Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho Việt Nam một hệ động
thực vật vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có rất nhiều
nét văn hoá dân tộc đặc
sắc,
đậm đà. Những yếu tố đó đã tạo nên cho Việt Nam
một lợi thế to lớn trong việc phát triển loại hình
du
lịch sinh thái. Cùng với việc

nỗ lực bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên


văn
hoá
phục vụ phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với
tư cách là
một
ngành kinh tế mũi nhọn - Du lịch trong đó có Du lịch sinh
thái
ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
7
nước.
1.3 Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh
thái
1.3.1 Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh
thái:
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của
các hệ sinh thái
tự
nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự
nhiên được hiểu là sự cộng sinh của
các
điều kiện địa lý, khí hậu và động thực
vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh
thái
động vật (animal
ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (
agri-cultural
ecology), sinh thái khí hậu ( ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human

ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh
học, ngoài thứ
cấp
của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể
hiện ở sự khác nhau của các kiểu
cộng

sinh
tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ
giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh
hưởng
trực tiếp hay gián
tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái
(eco-
systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh
vật
(habitats)
(Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Rio
de Jannero
về
môi
trường).
Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên
nhiên (natural
-

based
tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại
và phát triển ở những nơi có các hệ

sinh
thái điển hình với tính đa dạng sinh thái
cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều
này
giải thích tại sao
hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên
(natural reserve), đặc biệt ở các vườn quốc gia (national park), nơi còn tồn tại
những khu rừng với tính đa
dạng
sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên
điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số
loại

hình
du lịch sinh thái phát
8
triển ở những vùng nông thôn (rural tourism) hoặc các trang trại
(
farm
tuorism) điển
hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch
sinh thái ở 2
điểm:
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch
sinh thái,
người
hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am
hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên


văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này
rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của
hoạt
động du lịch sinh
thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình
tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn
viên.
Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác vói người dân địa phương để có
được những hiểu
biết
tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là
một người phiên dịch
giỏi.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có
nguyên tắc. Các
nhà
điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi
nhuận và không có cam kết gì đối với
việc
bảo tồn hoặc quản lý các khu tự
nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết
được
những giá
trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất
đi.
Ngược

lại,
các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với
các nhà quản lý các khu bảo

tồn
thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục
đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các
giá
trị tự nhiên và văn hoá
khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân
địa
phương và du
khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt
động du lịch
sinh
thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần
được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ
các
quy định về “sức chứa”. Khái niệm
9
“sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý

xã hội. Tất cả
những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng
một
thời

điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, “sức chứa” ở đây được hiểu là số lượng tối đa
khách du lịch mà
khu
vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu
chuẩn về không gian đối với mỗi du

khách

cũng
như nhu cầu sinh hoạt của
họ.
Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó
bắt đầu xuất
hiện
những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời
sống văn hoá - xã hội, kinh tế - xã hội
của
khu vực. Cuộc sống bình thường
của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm
nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu
du lịch có khả
năng
phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng
lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình
độ


phương tiện quản lý...) của khu du
lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất
khả
năng quản lý và
kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và

hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có

thể xác định
một

con
số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu
vực
khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định
một cách tương
đối
bằng phương pháp thực
nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định “sức chứa” là quan niệm
về sự đông đúc
của
các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những
điều kiện phát triển xã hội khác nhau (

dụ giữa các nước châu Á và châu Âu,
giữa các nước phát triển và đang phát triển...). Rõ ràng để
đáp

ứng
yêu cầu này,
cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào
đó

có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các
10
nhóm đối tượng
khách hoặc thị

trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm
của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng
được

các
nhu cầu của tất cả cũng
như mọi loại
khách.
Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của
khách du lịch.
Việc
thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về
những kinh nghiêm, hiểu biết mới đối
với

tự
nhiên, văn hoá bản địa thường là
rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu
dài
của ngành du
lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan
trọng
chỉ
đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan
tâm.
1.3.2 Những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh
thái.
Thị trường du lịch sinh thái hiện nay đang phát triển mạnh so với các thi
trường khác.
Song


sự
phát triển nhanh chóng này đe doạ tính bền vững của du
lịch sinh thái và mở rộng ra những
cái


thể đóng góp cho sự phát triển bền
vững. Du lịch sinh thái bản thân nó bị giới hạn phạm vi,
mức
độ phát triển. Nó
không thể tiếp nhận một số lượng lớn du khách mà không phải là nguyên nhân
dần dần làm thay đổi dẫn đến sự phá huỷ lý do mà nó tồn tại. Vì vậy vấn đề
trọng tâm trong việc
phát
triển du lịch sinh thái bền vững là sự kiểm soát hạn
chế những nguyên tắc xử lý và thực
hiện.
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững.
Điều đó không

nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là
điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong
thời
điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về
tốc độ tăng trưởng của du lịch
.
Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác
về mức độ giáo
dục

cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn
viên có nghiệp vụ lành nghề. Du lịch
sinh
thái chứa đựng mối tác động qua lại
11
lớn giữa con người và thiên nhiên hoang dã cộng với ý thức
được
giáo dục
nhằm
làm cho những khách du lịch thành những người đi đầu trong việc bảo vệ môi
trường. Phát triển
du
lịch sinh thái làm giảm tối thiểu tác động của khách du lịch
đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho
địa
phương được hưởng nguồn lợi tài
chính do du lịch mang lại và cần trú trọng đến những đóng góp
tài
chính cho
việc bảo tồn thiên
nhiên.
Sau đây là những nguyên tắc cơ bản về du lịch sinh thái
:
- Du lịch sinh thái phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi
trường, tăng cường

khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự
nhiên
.
- Du lịch sinh thái là không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường,

những nguyên tắc
về
môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài
nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn
hoá)
nhằm thu hút khách mà còn bên trong
của
nó.
- Du lịch sinh thái phải tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá
trị
bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này
.
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đạt lên hàng đầu do
đó mỗi người
khách
du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa
của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó
hơn
là làm biến đổi môi trường cho sự
thuận tiện cá
nhân.
- Du lịch sinh thái phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với
địa phương và
đối
với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn
hoá, xã hội hay khoa học
).
- Du lịch sinh thái phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc
với môi trường tự
nhiên,


đó
là những kinh nghiêm được hoà đồng làm tăng sự hiểu
biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay
mục
đích tăng cường thể trạng cơ
thể.
12
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi
hỏi sự chuẩn bị
kỹ
càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia
.
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương,
chính quyền, tổ
chức
đoàn thể, các hãng lữ hành và các khách du lịch (trước,
trong và sau chuyến
đi).
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường
sự
hiểu biết và sự phối hợp với các ban nghành chức
năng.
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất
quan trọng. Nó
đòi
hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc
và các tiêu chuẩn được chấp nhận và
giám
sát toàn bộ các hoạt

động.
- Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn
khổ quốc tế
cho

ngành.
CHƯƠNG
2
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
TẠI VQG XUÂN SƠN
2.1 Giới thiệu chung:
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm về phía Tây Nam của huyện Tân Sơn, tỉnh
Phú Thọ, trên vùng tam giác ranh giới giữa 3 tỉnh: Phú Thọ, Hoà Bình, và Sơn La.
Đây là khu vực núi đá vôi có hệ sinh thái rừng điển hình của miền Bắc. Năm 2002,
theo QĐ số: 49/ QĐ – TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ,
khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn đã được chuyển hạng thành Vườn quốc gia
Xuân Sơn.
Vị trí địa lý:
• Tọa độ địa lý:
13
o 21003’ đến 21012’ vĩ độ Bắc.
o 104051’ đến 105001’ kinh độ Đông.
o Phía Bắc giáp xã Thu Cúc
o Phía Nam giáp với huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình
o Phía Tây giáp huyện Phù Yên tỉnh Sơn La
o Phía Đông giáp các xã: Tân Phú, Mỹ Thuận, Long Cốc và Vinh Tiền
o Phía Tây Nam giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Phu Canh và Hồ thuỷ
điện Hoà Bình
o Phía Tây Bắc giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa và Hồ Thuỷ điện
Sơn La

• Cách Khu di tích lịch sử Đền Hùng – TP Việt Trì : 90 Km
• Cánh TP Hà Nội: 120Km
Địa hình:
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến
1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá kết hợp với hệ thống hang động, sông
suối và rừng tự nhiên tạo cho VQG Xuân Sơn có cảnh quan đẹp, hùng vĩ và hấp
dẫn.
Diện tích
Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện
tích vùng lõi là 15.048 ha

khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục
hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân khu hành chính, dịch
vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng
14
nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa
dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo tạo nên
đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các
xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim
Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái:
2.2.1. Đa dạng sinh học:
VQG Xuân Sơn có hệ động thực vật phong phú bao, nhiều sinh cảnh quan
độc đáo bao gồm rừng nhiệt đới vẫn mang tính nguyên sinh, phân bố trên núi đất
và núi đá vôi vùng thấp; với 7 hệ sinh thái chính: rừng trên núi đá vôi; rừng trên
núi đất; trảng cỏ cây bụi, tre nứa; nông nghiệp; khu dân cư; rừng trồng và hệ sinh
thái các thủy vực. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi có nhiều nét độc đáo,
tuy có bị tác động nhưng vẫn giữ được dáng vẻ nguyên sinh, với diện tích khoảng
1.661ha.

Với độ cao tối đa so với mặt biển là 1.386m (đỉnh núi Voi), vùng núi đá vôi
Xuân Sơn ở độ cao dưới 700m được che phủ bởi kiểu thảm thực vật rừng kín
thường xanh cây lá rộng, ẩm, nhiệt đới, cấu trúc 5 tầng, trong đó tầng vượt tán gồm
những cây gỗ lớn, đường kính hàng mét, cao tới 30-35m như: sâng, trai, nghiến…
Nhiều cây quý hiếm có giá trị bảo tồn và có giá trị kinh tế cao như: lát, kim giao,
chò chỉ, nghiến, củ dòm... Ở độ cao từ 700m trở lên, là kiểu thảm thực vật rừng kín
thường xanh, cây lá rộng á nhiệt đới. Ngoài một số loại thường xanh hay rụng lá
thuộc các họ long não, dẻ, hồ đào v.v.. còn gặp một số loại thuộc ngành hạt trần
như dẻ tùng sọc trắng hẹp, kim giao núi đá, thông tre lá dài. Cấu trúc của kiểu rừng

×