Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khoa học quản lý - khoa học của hành động ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.58 KB, 8 trang )

Khoa học quản lý - khoa học của
hành động
Quản lý, một phạm trù rất rộng, dù theo nghĩa thông thường hay theo nghĩa
chuyên môn. Nhớ thời kháng chiến, các đơn vị đều có một cán bộ quản lý,
nếu quy mô lớn thì một tổ, thậm chí một phòng, một ban quản lý. Quản lý
"cơm áo, gạo, tiền”, quản lý doanh trại, quản lý chế độ chính sách - đủ loại
Tôi viết bài này từ góc độ một bộ môn khoa học được phân công chuyên sâu,
bố trí, tìm phương thức đưa chủ trương, chính sách ứng dụng vào thực tế.
Tôi đành bằng lòng với định nghĩa nôm na như vậy, bởi tôi thường băn
khoăn phần việc này. Đúng ra, quản lý có nhiều cấp số, từ vĩ mô đến vi mô, từ
bao quát, liên ngành, đến từng ngành, từ các hoạt động khoa học xã hội, tự
nhiên, kỹ thuật, đến vô số lĩnh vực khác.

Là một môn khoa học nên vận động là quy luật, quản lý chỉ có ý nghĩa sống khi
gắn chặt với mọi mặt xã hội và trong những trường hợp nhất định, khoa học quản
lý thêm, bớt bản thân chủ trương, đôi khi giúp cả lối thoát cho chủ trương, vào
những tình thế nhất định. Dĩ nhiên, cũng không loại trừ mặt ngược - quản lý sai
dẫn đến hậu quả xấu, đôi khi, cực xấu. Kinh nghiệm đau về "giá lương tiền" chưa
cách chúng ta xa lắm.

Như mọi môn khoa học - có trách nhiệm tìm ra các mẫu số chung, các "thuộc tính"
của loại hình công việc được phân công theo một tư duy đã xác lập, khoa học quản
lý luôn đứng trước vô số đối tượng cần quản lý rất khác nhau về kích cỡ, tính chất,
môi trường tồn tại, chức năng, nguồn gốc lịch sử, số phận, tương lai Chẳng hạn,
chính quyền một thôn. Chẳng thôn nào giống thôn nào trong hàng vạn thôn ở nước
ta. Mỗi thôn đòi hỏi phải được quản lý thích hợp: vùng đông dân, vùng nông thôn,
vùng núi hẻo lánh, vùng người dân tộc, vùng hải đảo Cái dở nhất của chúng ta từ
trước tới nay là đưa công việc quản lý vào khuôn khổ cứng nhắc, hễ là thôn thì y
nhau, mặc kệ thôn rộng hay hẹp, trồng lúa nước, cây ăn quả hay chăn nuôi cũng
không cần biết. Hẳn, tổ chức quản lý hành chính có những quy định thống nhất
trong một quốc gia thống nhất, song ngay quản lý hành chính địa bàn vốn khá cố


định mà thiếu sự phân biệt đối tượng quản lý thì khó mà đạt kết quả trong điều
hành, huống chi quản lý sản xuất, kinh doanh là những loại hình biến động từng
ngày, từng giờ - biến động tự thân và chịu tác động. Một thời chúng ta lấy mẫu
quản lý nông thôn, đặc biệt nông thôn miền Bắc, làm chuẩn cho quản lý xã hội nói
chung, kể cả sau đất nước hoàn toàn giải phóng. Cái hại đã rõ ràng.

Hôm nay, đất nước ta đang ở vào thời điểm chuyển động hết sức dồn dập. Mặc dù
tỷ lệ đất nông nghiệp và cư dân nông thôn vẫn còn cao trong sơ đồ kinh tế quốc
gia, song giá trị sản xuất không bì được với trận địa công nghiệp, dịch vụ, khai
thác tiềm năng lòng đất tuy địa bàn hẹp hơn lao động ít hơn nhiều. Thống kê
hàng năm đã cho thấy điều đó. Vậy thì, sự chuyển hóa này là từ một nền kinh tế
nông nghiệp thay đổi dần lên nền kinh tế mang tính chất công nghiệp và bản thân
nền kinh tế nông nghiệp nước ta chỉ tồn tại, phát triển khi nó tương tác với công
nghiệp ở những mức nhất định - nói là ở những mức nhất định, song là những mức
quyết đỉnh. Quản lý một nền kinh tế trong buổi "giao thời" quả khá phức tạp, đòi
hỏi những suy nghĩ, những phân tích thấu đáo. Bây giờ, chúng ta chưa quản lý một
xã hội công nghiệp chuyện của vài thập niên nữa - nhưng đang quản lý một xã hội
trong quá trình công nghiệp hóa mà một số địa bàn, ngành thực sự đã thuộc lĩnh
vực quản lý công nghiệp. Không thể quản lý thành phố, đô thị, nơi cư dân sinh
sống và sinh hoạt khác nông thôn theo kiểu cách quản lý nông thôn. Mà đô thị hóa
phản ánh bước đi của xã hội công nghiệp - bước đi không gì ngăn cản nổi.

Đó là tôi chưa nói một nền kinh tế mở phải hòa nhập với bên ngoài đòi hỏi cung
cách quản lý rất khác với quản lý nền kinh tế tự cấp tự túc. Quản lý cách nào thì
quản lý, vàn phải đạt các tiêu chí cơ bản: kinh tế phát triển, đời sống người dân
được cải thiện, chính trị ổn định, an ninh bảo đảm, tệ nạn xã hội thu hẹp, vị thế
quốc gia nâng cao, tiếp cận ngày càng sâu vào văn minh, dân chủ và công bằng,
thực hiện một nền pháp luật đúng quan điểm của Đảng ta Đi chệch những tiêu
chí trên thì quản lý dễ thành trở lực cản của phát triển, thậm chí mang tính phá
hoại.


Có lẽ cái mà chúng ta đang vấp là đặt vấn đề quản lý cũng như đặt các nhà quản lý
trong tầm "hàn lâm" hơn là trong tầm thực tiễn. Không ít bài nghiên cứu, sách viết
về quản lý đã công bố ở ta, nhất là từ khi một số Viện sĩ, Giáo sư Liên Xô sang mở
lớp bồi dưỡng lý luận quản lý, vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, rồi các tủ
sách nghiên cứu quản lý - sau Liên Xô sụp đổ - giới thiệu các bản dịch, bây giờ là
"model" của một số học giả Mỹ cùng một số tác giả Việt Nam - tác giả Việt Nam
dịch, phỏng dịch, hoặc "nói rộng", "nói thêm" các luận điểm nước ngoài. Nghĩa là,
cái mà khoa học và thực tiễn quản lý Việt Nam cần, rất cần thì rất thưa vắng.
Những nhà lý luận quản lý danh tiếng nước ngoài, mặt nào đó, là thầy của chúng
ta, song không ai dạy cho ngành quản lý Việt Nam tốt bằng chính bản thân thực tế
Việt Nam. Dễ thấy "cái lạ" trong trước tác của họ - kể cả những người được giải
Nobel, còn tìm giá trị ứng dụng của nó vào Việt Nam lại khó, bởi hoàn cảnh rất
khác nhau.

Đất nước chúng ta phát triển đến hôm nay, xét từ góc độ quản lý ngày càng bộc lộ
độ sâu của đặc thù Việt Nam. Một đất nước với tư cách quốc gia, với thiết chế
triều nghi, rút gọn đi, cũng từ thời Ngô - Đinh cách nay hơn nghìn năm. Quản lý
một quốc gia như thế, nhu cầu quản lý không thể không bận tâm các vua quan. Và,
khoa học quản lý chung lẫn cụ thể, toàn quốc lẫn địa phương đóng vai trò công
cụ phát triển đất nước, tạo thế phát triển liên tục - thời bình, thời chiến, khi làm
chủ kinh đô, khi tản vào núi rừng Bằng không, làm sao quản lý nổi một quốc gia
luôn biến động, làm sao quản lý nổi một lãnh thố dài hơn 2000 cây số nằm trên
nhiều vĩ tuyến khác nhau và tất cả đều dẫn đến một nước Việt Nam thống nhất,
giành được thắng lợi trong đấu tranh với đủ các phương thức. Một triều đình vua
chúa của Việt Nam vẫn có cách quản lý của triều đình đó và hiệu quả đã được
khẳng định. Đương nhiên, không thể so với quản lý theo mô hình công nghiệp
hiện đại, song mô hình công nghiệp hiện đại là sản phẩm của một thời đoạn lịch sử
nhất định, nó chỉ xuất hiện khi có điều kiện để xuất hiện.


Bây giờ, nhìn những hình dạng quản lý mà chúng ta đang thực hiện, chúng ta sẽ
thấy liền không biết bao nhiêu bất cập. Tôi cho đó là chủ đề hàng đầu, chủ đề số
một của Tạp chí Nhà Quản lý và của Viện Nghiên cứu và Đào tạo về quản lý. Lên
một sơ đồ phân loại các lĩnh vực cần quản lý và đề cho mỗi loại những yêu cầu
phải làm sáng tỏ, với một sơ đồ như thế, một sự phân loại như thế thì đường đi sắp
tới của chúng ta sẽ dễ dàng hơn nhiều. Hiện nay, chúng ta đang rất lúng túng giữa
quản lý ngành và quản lý địa phương. Trong quản lý ngành, ngành tổng hợp và
ngành kỹ thuật đâu có giống nhau. Trong quản lý địa phương, tính chất của từng
địa phương cũng không giống nhau. Chính cái mâu thuẫn này làm cho công việc
chung đụng không biết bao nhiêu trở ngại.

Xin nói vài chuyện thật đơn giản: ở TP.HCM, Công viên Tao Đàn do Công ty
công viên cy xanh quản lý, nhưng Thảo Cầm Viên lại do Sở Giao thông công
chính quản lý. Cắt nghĩa thế nào đây? Một cách phân công chuyên ngành nặng về
lý thuyết, còn về thực tế thì phân tán lực lượng. Bởi vậy, ông ống nước đào đường
vừa lấp xong, ông đặt dây điện thoại, dây điện ngầm đào lên rồi lấp lại, ông thoát
nước tiếp tục đào, trong khi chỉ có một con đường. Cung cách quản lý đó thật phản
khoa học. Phản khoa học "ấu trĩ" - tôi quả quyết - bởi quản lý ở đây xuất phát từ
sự "tự phong" của ngành quản lý chứ không từ đối tượng cần quản lý. Một con
kênh Nhiêu Lộc đào tới đào lui mãi, tốn bạc tỷ, vẫn không thông, nước đen ngòm,
đầy rác, bởi đào từng khúc xong thì bùn lấp kín, lại đi đào khúc khác và cứ thế kéo
dài mãi. Chúng ta tạm gác qua một bên ván đề đạo đức phẩm chất trong thi công,
song đường dẫn cầu vượt bé tí tẹo Nguyễn Hữu Cảnh, hầm chui ngắn ngủn cầu
Văn Thánh là cái gì ghê gớm đến nỗi cả Bộ Giao thông, Sở Giao thông hàng mấy
năm trời không cứu được chuyện lún của nó? Chắc có vấn đề trình độ chuyên
môn, nhưng theo tôi, đó là chuyện phân công quản lý. Chúng ta có hàng trăm ví dụ
về những trái khoáy như trên.

Ai sẽ xử lý? Ai sẽ cho đáp số về những khúc mắc này? Theo tôi, đó là khoa học
quản lý. Quản lý ngành Giáo dục, ngành Y tế, ngành Văn hóa, ngành Thể dục thể

thao… đang gây đau đầu chúng ta. Một bệnh viện là nơi chữa trị chăm lo sức khỏe
cho dân, lại ít được quan tâm hơn ai quản lý bệnh viện đó dù bệnh viện của trung
ương hay của thành phố, trong khi sức khỏe là của con người. Trường học cũng
vậy, Quản lý trường học bán công hay tư thục mà lấy khuôn mẫu quản lý trường
công Nhà nước, làm sao thỏa đáng? Nhà nước đầu tư xây trường và trường Nhà
nước phải là trường miễn phí nói chung. Còn trường dân lập hay tư thục là do một
nhóm người, do một hợp tác xã, hoặc do một người đầu tư và mướn cán bộ chuyên
môn phụ trách, lời ăn lỗ chịu, ngoài nguyên tắc phải tuân thủ chặt chẽ là Luật Giáo
dục, các quy định về nội dung, chương trình giảng dạy, về sách giáo khoa, về chế
độ thi tuyển, về phẩm chất, trình độ giảng viên ngoài ra, họ muốn mướn ai có uy
tín được phụ huynh và học sinh tín nhiệm thì họ cứ làm, mắc mớ chi mà quy định
tuổi bao nhiêu mới có thể làm hiệu trưởng một trường tư thục? Quản lý càng ôm
đồm, càng “bàn giấy", sẽ đưa quản lý vào ngõ cụt và tất yếu, phát sinh những cách
"chạy" khác nhau, bê tha hóa những nơi lẽ ra phải thật trong sáng. Giáo sư giỏi
như thầy Ngô Gia Hy - cháu gọi đồng chí Ngô Gia Tự là chú ruột - không được
tiếp tục làm hiệu trưởng Trường đại học Dân lập Hùng Vương vì lớn tuổi, trong
khi ở ngành quản lý giáo dục khá nhiều hiệu trưởng mặc áo sọc ra tòa.

Tôi có thể còn viết dài hơn qua quan sát của bản thân, song bấy nhiêu có lẽ cũng
quá đủ.

Công tác quản lý là một công tác khoa học, nhà quản lý là một nhà khoa học và
đây là một môn khoa học cực kỳ linh hoạt, cực kỳ sáng tạo.

Điều mà tôi khát khao là làm sao xây dựng dần hệ thống lý luận quản lý Việt Nam
trên tay ca những gì liên quan đến cuộc sống của đất nước và con người Việt Nam.
Tới nay, tôi cho là đã tương đối đủ điều kiện, tư liệu để làm tốt việc đó. Trung
Quốc tổng kết liên tục, các viện, các trường đại học Mỹ, Anh, Pháp, Úc tổng kết
liên tục - tích lũy cho những phát hiện riêng. Tại sao ta không xốc dậy cả một quá
trình quản lý - thực sự không ngắn lắm, nếu tính từ sau ngày đất nước hoàn toàn

giải phóng, đã ngấp nghé 30 năm rồi - cùng bao nhiêu bước ngoặt, có "bước ngoặt
kinh dị" và có bước ngoặt đổi mới đổi đời, từ đó rút ra cái đặc thù của quản lý theo
Việt Nam. Đến nay tôi cảm giác ta cứ tránh né chuyện "khoán" của đồng chí Kim
Ngọc, chuyện đồng loạt cải tạo công thương nghiệp, sang nông nghiệp ở miền
Nam liền sau giải phóng. Bài học về loại vấn đề này chắc chắn đủ sức dạy cho
chính chúng ta và con cháu chúng ta khôn hẳn lên.

Tôi có một cuộc trao đổi với một nhà nghiên cứu Pháp, bạn thân, rất cảm tình với
Việt Nam. Anh hỏi: ‘Tao không hiểu nổi tụi mày - anh hỏi vào đầu năm 2000 - là
tại sao tụi mày lại "cách mạng văn hóa" năm 1975?, xóa bỏ các yếu tố liên quan
đến sức sản xuất, chạy theo biến đổi quan hệ sản xuất bất cứ với giá nào? Rồi, 25
năm sau, tụi mày quay lại điểm xuất phát ban đầu. Tụi mày lẽ ra đâu có thua Thái
Lan, lẽ ra là một Hàn Quốc ở Đông Nam Á "

Tôi lý giải tương đối dài với anh - anh công nhận tư duy của các nhà lãnh đạo và
quản lý Việt Nam vào thời điểm đó đang mò mẫm tìm lối đi, đồng thời tiếc rẻ -
còn anh phản bác tôi các lập luận khác. Anh bảo: "Nếu Trung Quốc không "đại
nhảy vọt", không "công xã nhân dân", không "Hồng vệ binh", thứ hạng quốc tế về
phát triển của họ cao hơn hẳn bây giờ".

Tôi đồng ý với anh mặt này, mặc dù tôi hiểu "cấp quản lý" - trí thức hay thực hiện
- cũng thuộc "thê đội 2" trong quyết sách chiến lược. Song, không có nghĩa là nhẹ
trách nhiệm. Đồng bào ta có câu "Thầy dùi đáng sợ hơn vua".

Dân tộc nào cũng làm lịch sử cho chính dân tộc mình. Dấu ấn khoa học quản lý
nào cũng đóng lên quá trình diễn biến của một địa bàn, một thời gian, với địa chỉ
cụ thể.

Việt Nam sẽ "bay" xa. "Sẽ" không quá lâu đâu. Triệu chứng "cất cánh" đã lộ dần.
Rút kinh nghiệm nhanh. Nhìn trước, nhìn sau cặn kẽ để hành trình vững chắc, đặc

biệt để tỉnh táo "vào cuộc”, trong tình thế hiện nay -buổi chuyển tiếp của nhiều
mặt đối lập trong bối cảnh một thế giới mà sự ổn định và an bình tương đối khá
mong manh.

Viết tới đây, tôi chợt nhớ Henry Palmerston (1784 ,1865), nguyên Ngoại trưởng
rồi Thủ tướng Anh, kẻ phát động chiến tranh nha phiến ở Trung Quốc - một tên
thực dân. Song, ông ta không hoàn toàn vô lý khi nói: "Chúng ta không có bạn
đồng minh vĩnh hằng cũng không có địch thủ vĩnh cửu. Lợi ích của chúng ta mới
là vĩnh cứu, vĩnh hằng và trách nhiệm của chúng ta là đeo đuổi những lợi ích đó".
Đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, từng thời kỳ nói riêng, đã được từng
bước soi sáng. Còn khoa học quản lý, thực tiễn quản lý vẫn mờ mờ ảo ảo


×