Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cấu Trúc Vốn và Những Tác Động của nó ! pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.42 KB, 7 trang )

Cấu Trúc Vốn và Những Tác Động
của nó !

Nhìn vào bảng cân đối tài sản doanh nghiệp thì bên tay trái là tài
sản có, bên tay phải là nguồn gốc tạo ra tài sản có: gồm nợ (các
loại) và vốn chủ sỡ hữu cùng với lợi nhuận được giữ lại của chủ
sỡ hữu. Tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sỡ hữu gọi là cấu trúc vốn.

Phần đông doanh nghiệp chúng ta, nhất là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nhìn nhận về tỷ lệ này khá đơn giản. Thường thì chúng ta tự
nhẩm tính khi nào thì nên mượn nợ, khi nào thì kêu gọi thêm vốn
chủ sỡ hữu. Dĩ nhiên những tính tóan đó phần nào cũng có “lý”
của người quyết định. Tuy vậy, nếu chúng ta biết rằng, việc xác
định một cấu trúc vốn để đạt hiệu quả cao nhất cho một doanh
nghiệp là một vấn đề lớn, rất quan trọng trong tài chánh doanh
nghiệp, làm tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới học thuật
lẫn các nhà quản lý tài chánh kinh nghiệm, thì có lẽ chúng ta sẽ
bỏ nhiều thời gian nghiên cứu và sẽ thận trọng hơn trong quyết
định của mình.

1. Nợ: Ưu và khuyết điểm

Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn
chủ sỡ hữu đó là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên nợ được
miễn thuế. Tong khi đó thì cổ tức hay các hình thức thưởng khác
cho chủ sỡ hữu phải bị đánh thuế. Trên nguyên tắc mà nói, nếu
chúng ta thay vốn chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ giảm được thuế
doanh nghiệp phải trả, và vì thế tăng giá trị của doanh nghiệp lên.
Một điều cần lưu ý, với những nước mà nhà đầu tư phải trả thuế
thu nhập cá nhân với mức cao thì ưu điểm này của nợ sẽ bị giảm
hay trở thành yếu điểm.



Ưu điểm thứ hai của nợ, đó là thông thường nợ rẻ hơn vốn chủ
sỡ hữu. – nói đơn giản là lãi suất ngân hàng, hay lãi suất trái
phiếu thấp hơn nhiều soi với lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư. Do
đó khi tăng nợ tức là giảm chi phí chi ra trên một đồng tiền mặt và
vì thế tăng cao lợi nhuận, cũng như gía trị của công ty. Vì tính
chất này mà tỷ số nợ trên vốn chủ sỡ hữu còn được gọi là tỷ số
đòn bẩy.

Tuy vậy doanh nghiệp không thể tăng nợ lên mức quá cao so với
chủ sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình trạng tài chánh không
lành mạnh, và dẫn đến những rủi ro khác mà chúng ta sẽ bàn
trong những phần sau.

2.Vốn: Ưu và khuyết điểm

Một trong những điểm không thuận lợi của vốn chủ sỡ hữu đó là
giá thành (hay chi phí) của nó510902.jpg cao hơn chi phí của nợ.
Dĩ nhiên rồi, vì không người đầu tư nào bỏ tiền đầu tư vào công
ty gánh chịu những rủi ro về họat động và kết quả kinh doanh của
công ty mà lại chịu nhận tiền lãi bằng lãi suất cho vay nợ. Việc
này cùng với tính chất không được miễn trừ thuế làm cho chi phí
vốn càng cao hơn.

Việc này này dẫn tới một điểm không thuận lợi khác, là khi vốn
chủ sỡ hữu càng cao, số lượng người chủ sỡ hữu càng nhiều, thì
áp lực về kỳ vọng của nhà đầu tư cũng như sự quản lý, giám sát
của họ lên các nhà điều hành công ty càng lớn.

Tuy vậy vốn chủ sỡ hữu sẽ vẫn phải tăng khi công ty cần tiền.

Tăng để cân bằng với nợ và giữ cho công ty ở trong tình trạnh tài
chánh lành mạnh. Một lý do để các nhà đầu tư tăng vốn nữa là
khi thị trường định giá cổ phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại
(overprice). Phát hành vốn trong trường hợp đó sẽ tạo ra lợi
nhuận tài chánh cho công ty, và thực chất là tăng phần lãi nhuận
cho những nhà đầu tư hiện hữu.

Nợ giúp cho các nhà điều hành thận trọng hơn khi đầu tư:

Thực tế từ các thị trường cho thấy, đối với các công ty dồi dào
tiền mặt, và không có khả năng tăng trưởng nhanh, các nhà quản
lý hay có khuynh hướng đầu tư tiền vào những dự án “ồn ào”
nhưng không hiệu quả, hoặc dùng tiền, tăng chi phí để tạo ra
tăng trưởng. Dĩ nhiên những đồ án này không tạo ra giá trị cao
cho công ty. Thuật ngữ tài chánh gọi việc này là overinvestment –
đầu tư thái quá. Nếu công ty không có hội đồng quản trị giám sát
chặt chẽ thì hiệu ứng đầu tư thái quá này này sẽ xảy ra nhiều.
Nhưng nếu công ty mượn nợ để tài chánh cho những khoản đầu
tư, thì việc phải trả lãi định kỳ, cũng như trả vốn theo định kỳ sẽ
ngăn, hoặc giảm việc đầu tư thái quá này.

Nợ tạo ra chi phí “hao mòn’ doanh nghiệp và phá sản:

Tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản. Một công trình nghiên
cứu tại Mỹ cho thấy chi phí phá sản chiếm khỏan 3% thị giá của
tất cả các công ty niêm yết. Nghiên cứu còn cho thấy chi phí “hao
mòn” doanh nghiệp (cost of business erosion) còn cao và nghiêm
trọng hơn nhiều. Những công ty có tỷ lệ nợ cao, sẽ "nhát tay”
trong việc nắm bắt những cơ hội đầu tư. Chúng cũng có khuynh
hướng giảm bớt những chi phí tạo ra hiệu quả trong tương lai

như chi phí nghiên cứu và phát triển, huấn luyện, xây dựng
thương hiệu. Kết quả là những doanh nghiệp này đã bỏ qua
những cơ hội để tăng giá trị của doanh nghiệp. Mức nợ cao còn
dẫn đến những nguy cơ mất khách hàng, nhân viên và nhà cung
cấp. Nguy cơ càng cao hơn khi sản phẩm của công ty có vòng
đời phục vụ và bảo hành lâu dài. Một ví dụ rõ nhất là công ty xe
hơi Chrysler đã bị giảm 40% doanh số khi phải đối diện nguy cơ
phá sản vì nợ nần vào năm 1979.

Ngoài ra công ty có mức nợ cao còn tạo ra sự mâu thuẫn giữa
các chủ nợ và nhà đầu tư khi công ty sắp phải ngừng họat động
để trả nợ. Khi có nguy cơ đó xảy ra, các nhà đầu tư “khôn ngoan”
sẽ tìm cách đầu tư dưới mức – underinvestment. Tức là họ sẽ tập
trung đầu tư vào nhhững dự án, rủi ro cao, tạo ra giá trị thấp
trong tương lai, nhưng có thể đem lại tiền mặt để có thể chia dưới
dạng cổ tức ngay lúc này. Trong khi đó những chủ nợ lại muốn
công ty đầu tư vào những dự án ít rủi ro và tạo được giá trị cao
trong tương lai. Và mâu thuẫn vì thế phát sinh.

3.Lý thuyết thứ tự tăng vốn

Lý thuyết thứ tự tăng vốn – pecking order theory, cho rằng khi
công ty cần tiền mặt để đầu tư vào dự án mới, công ty sẽ lần lượt
thực hiện theo thứ tự sau. Đầu tiên là lợi nhuận giữ lại chưa chia
của chủ sỡ hữu. Kế tiếp là mượn nợ, sau cùng là phát hành cổ
phiếu. Cũng theo lý thuyết này, sự “sốt sắng” phát hành cổ phiếu
của doanh nghiệp chứng tỏ rằng cổ phiếu của công ty đó đang
được thị trường đánh giá cao hơn giá trị thật (overvalued).


×