Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA) và những tác động của nó đối với hoạt động thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.75 KB, 52 trang )

QTKDTM 40A
Lời mở đầu
Để nhanh chóng phát triển kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới,ngay từ
đầu năm 2002 tiến trình thực hiện các cam kết đa phơng và song phơng về hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các cam kết trong khuôn khổ hợp tác ASEAN,
Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và trong việc thi hành Hiệp định thơng
mại Việt Mỹ đã đến thời điểm khẩn trơng. Việc đàm phán gia nhập WTO
cũng đợc xúc tiến tích cực hơn. Chúng ta phải chủ động tranh thủ cơ hội, vợt
qua khó khăn và thách thức để phát triển và bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế,
hạn chế thua thiệt trong tiến trình hội nhập.
Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện và sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi
khủng hoảng và bớc đầu phát triển đi lên. Gắn liền với quá trình đổi mới là
tiến trình hội nhập chung vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp
hội các nớc Đông Nam á và hiện nay đang trong quá trình thực hiện các cam
kết của AFTA. Có thể nói, việc Việt Nam gia nhập vào ASEAN cũng nh thực
hiện AFTA là phù hợp với xu hớng chung của thời đại. Nó không những có lợi
cho Việt Nam mà còn cho cả các nớc ASEAN trên cả phơng diện chính trị lẫn
kinh tế. Việc tham gia này sẽ mang lại những cơ hội mới đồng thời cũng đặt ra
không ít khó khăn thử thách trong qúa trình phát triển nh hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp. Vì vậy, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX đã khẳng định: Nắm bắt cơ hội, vợt qua thách thức, phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và nhân dân ta. Nhiều thay đổi chắc chắn sẽ diễn ra trong hoạt động
kinh tế - xã hội, ảnh hởng trực tiếp đến công tác điều hành và nguồn thu của
Chính phủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngời tiêu dùng và các tầng lớp xã
hội Xuất phát từ tình hình và các vấn đề thực tế trên, tôi đã chọn đề tài
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những tác động của nó đối với
hoạt động thơng mại Việt Nam làm chuyên đề khoa học của mình.



1
QTKDTM 40A
Chuyên đê đợc trình bày trong 3 chơng, đi từ lý luận đến thực tiễn và từ
đó đa ra những phơng hớng và biện pháp phát triển thơng mại Việt Nam trong
điều kiện gia nhập AFTA.
Chơng I : Khái quát về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
ChơngII : Những ảnh hởng của việc tham gia AFTA đến thơng mại
Việt Nam.
Chơng III : Các biện pháp phát triển thơng mại Việt Nam khi tham gia
AFTA.


2
QTKDTM 40A
Chơng I
Khái quát về khu vực mậu
dịch tự do ASEAn (AFTA).
I. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế
quốc tế
1.1 Cơ sở của hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới đã có sự chuyển biến sâu sắc,
đang tạo ra những bối cảnh quốc tế thuận lợi cho các quốc gia thực thi chính
sách mở cửa. Thời đại ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học công nghệ, nền kinh tế thế giới đang đợc toàn cầu hoá, thì bất cứ nớc
nào, dù đã phát triển hay chậm phát triển đều không thể tách riêng, cô lập,
đứng ngoài các giao lu kinh tế quốc tế. Hội nhập, tham gia vào sân chơi
chung của nền kinh tế thế giới trở thành một trào lu, một xu hớng tất yếu
mà các quốc gia không thể cỡng lại đợc.
Nhận thức đợc điều đó, ngay từ đầu những năm 80, nớc ta cũng đã tham gia

hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, quan hệ thơng mại của nớc ta trong giai
đoạn này mới chỉ bó hẹp trong phạm vi những nớc XHCN nh Liên Xô, Trung
Quốc và các nớc Đông Âu Do đó, sự hội nhập này dù đã mang lại cho n ớc
ta một nguồn ủng hộ vật chất và tinh thần rất quan trọng trong những năm đầu
khôi phục và xây dựng kinh tế sau chiến tranh nhng nền kinh tế nớc ta vẫn lâm
vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ đặc biệt kể từ khi các n ớc Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ. Chính vì vậy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986),
Đảng ta đã khởi xớng công cuộc đổi mới mà một trong những hớng quan trọng
là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng là
bạn của tất cả các nớc trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một nội dung quan trọng
bậc nhất trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nớc ta trong giai đoạn mới.
Kể từ đó đến nay, nớc ta đã không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán và hợp
tác kinh tế với các nớc trên thế giới: ngày 17/7/1995, nớc ta và Liên minh


3
QTKDTM 40A
Châu Âu đã ký hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thơng mại và khoa học kỹ
thuật; ngày 28/7/1995 nớc ta trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
nớc Đông Nam á (ASEAN); năm 1998, nớc ta tham gia Diễn Đàn kinh tế các
nớc Châu á - Thái Bình Dơng (APEC), đặc biệt là ngày 13/10/2001 vừa qua,
Thợng viện Mỹ đã thông qua Hiệp định thơng mại Việt Mỹ Do đó, nếu
nh năm 1990 nớc ta mới chỉ có quan hệ với 50 nớc, vùng lãnh thổ trên thế giới
thì đến tháng 7/2000 con số này tăng lên đến 170, trong đó đã kí hiệp định th-
ơng mại với hơn 61 nớc. Đây chính là những điều kiện thuận lợi để nớc ta đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mở rộng hợp tác kinh tế thơng mại với các nớc
và các tổ chức kinh tế khu vực, thế giới.
Nh vậy, cũng nh tất cả các nớc trên thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế là một tất
yếu khách quan không thể tránh khỏi của nớc ta. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra

là nớc ta nên hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ nào, bằng hình thức nào với
những bớc đi nh thế nào để có thể mang lại những lợi ích tối đa và phải trả một
cái giá tối thiểu. Trả lời vấn đề này thật không dễ dàng và đơn giản, bởi vì quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở mọi quốc gia không chỉ mang lại lợi ích cho
toàn xã hội, mà về một số phơng diện nó có thể đi ngợc lại lợi ích của một số
nhóm dân c nhất định, có thể gây ra ảnh hởng tiêu cực cả về kinh tế, chính trị,
văn hoá và xã hội. Do vậy mà ở bất kỳ quốc gia nào cũng có những lực lợng
chống lại xu hớng này kể cả ở những nớc phát triển nh Mỹ. Trong khi đó, Việt
nam vẫn là một nớc nghèo và lạc hậu, lại đang trong thời kỳ chuyển đổi sang
kinh tế thị trờng, hội nhập kinh tế quốc tế, đơng nhiên sẽ có nhiều vấn đề đặt
ra nghiên cứu xem xét giải quyết.
1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền
kinh tế Việt Nam.
Xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá đã, đang và sẽ ảnh hởng một cách toàn diện,
sâu xa đến mọi lĩnh vực của nhiều dân tộc và khu vực trong đó có Việt Nam
một nớc mới đang trên đờng hội nhập khu vực và thế giới.
Năm 1992, Việt nam tham gia Hiệp định Bali và trở thành quan sát viên của
ASEAN. Tháng 7/1995, Việt nam trở thành thành viên ASEAN và ký tham gia
Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA)và hiệp định này sẽ có
hiệu lực đối với nớc ta vào năm 2006. Bên cạnh đó, năm 1998, nớc ta tham gia


4
QTKDTM 40A
diễn đàn kinh tế các nớc Châu á - Thái Bình Dơng (APEC) và tơng lai là thành
viên của tổ chức kinh tế thế giới (WTO).
Tham gia vào các tổ chức trên hay nói một cách khác là tham gia vào khu vực
hoá, quốc tế hoá, cũng nh bất cứ một nớc nào, Việt Nam sẽ có những thuận lợi
lớn nhng cũng không ít khó khăn, thử thách trên con đờng đi của mình.. Tuy
nhiên, chỉ ra một cách đầy đủ những tác động của xu thế này ngay một lúc

trên tất cả các mặt với những thuận lợi và khó khăn của nó đối với Việt Nam
lúc này là việc làm quá sớm vì một mặt Việt Nam mới bớc vào hội nhập, mặt
khác chúng ta đang sống trong một khu vực và thế giới đầy biến động với
những yếu tố khó lờng trớc.
Tuy nhiên, trên cơ sơ tham khảo kết quả nghiên cứu của một số nhà nghiên
cứu và nhận thức của mình, em xin trình bày sự tác động của qúa trình hội
nhập đối với nền kinh tế Việt Nam trên những nét khái quát sau:
Thứ nhất:Khắc phục đợc tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng đợc thế và
lực trong thơng mại quốc tế.
Nhìn chung tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chúng ta sẽ khắc
phục đợc tình trạng bị các cờng quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của
ta trên trờng quốc tế. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho các nớc nhỏ, n-
ớc chậm phát triển có cơ hội đối thoạI chính sách với các nớc phát triển hơn,
hoặc phối hợp quan đIểm với các nớc khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm
giảI toả các rào cản thơng mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng trong thơng
mại.
Thứ hai:Đợc hởng những u đãI thơng mại, mở đờng cho thơng mại phát
triển .
Hội nhập kinh tế quốc tế là đIều kiện cần để chúng ta tranh thủ những u đãI về
thơng mạI, đầu t và các lĩnh vực khác đợc áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức,
góp phần mở rộng thị trờng của hàng hoá Việt Nam, tạo đIều kiện thu hút đầu
t trong và ngoàI nớc, thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát huy
lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt
Nam. Đặc biệt trong WTO cũng nh đạI đa số các tổ chức khu vực khác đều có
các chính sách u đãI đối với các nớc đang phát triển và các nớc trong thời kỳ


5
QTKDTM 40A
chuyển đổi, cho phép các nớc này đợc hởng các miễn trừ, ân hạn trong việc

thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác.
Thứ ba:Tạo đIều kiện cơ cấu lạI sản xuất trong nớc theo hớng có hiệu quả
hơn.
Tham gia tiến trình tự do hoá thơng mại, thực hiện giảm thuế và mở cửa thị tr-
ờng sẽ tạo sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trờng nội địa, đòi hỏi các
ngành sản xuất phảI đợc cơ cấu lạI cho phù hợp với xu hớng thế giới, nâng cao
hiệu quả kinh doanh và sản xuất những sản phẩm đợc thị trờng thế giới chấp
nhận. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những nền kinh tế đang
trong quá trình công nghiệp hoá nh Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng
tạo đIều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội lựa chọn nguyên vật liệu và
yếu tố đầu vào cho phù hợp, mở rộng hợp tác khoa học kỹ thuật, thúc đẩy
chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đạI hoá đất nớc.
Thứ t:Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất.
Một trong những u điểm của việc tham gia hội nhập vào các tổ chức khu
vực và quốc tế đối với các nớc đang phát triển là các tổ chức này thờng có các
chơng trình hợp tác kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý và sản
xuất cho các nớc thành viên. Ví dụ ASEAN có các chơng trình hợp tác về phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển cơ sở hạ tầng, hợp tác phát triển xã
hội Những ch ơng trình này đã tạo đIều kiện cho các nớc tham gia phát triển
bồi dỡng nguồn nhân lực và tiếp cận với công nghệ mới trong các lĩnh vực sản
xuất, nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế.
Nh vậy, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế ta có thể rèn luyện và đào tạo đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nớc có bản lĩnh vững vàng và trình độ chuyên môn
thành thạo, xây dựng một đội ngũ các nhà doanh nghiệp năng động, có kỹ
năng quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt thị trờng và nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần chiến thắng trong cạnh tranh.
Tranh thủ các nớc trên thế giới đồng tình ủng hộ sự nghiệp đổi mới kinh tế,
xây dựng đất nớc của Đảng và Nhà nớc ta, đồng thời học hỏi kinh nghiệm
quốc tế, từng bớc đIều chỉnh hệ thống luật lệ, chính sách thơng mại phù hợp

với tập quán thơng mại quốc tế và các quy tắc chuẩn mực của WTO, bảo đảm


6
QTKDTM 40A
hình thành đồng bộ các yếu tố thị trờng, bình đẳng khuyến khích tự do kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh nhng vẫn giữ vững vai trò quản lý của Nhà nớc,
bảo đảm phát triển kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thứ năm: Hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam có điều kiện tham gia nhanh
vào hệ thống phân công lao động quốc tế hiện đại cũng nh là có cơ hội để tiếp
cận đến các nguồn vốn quốc tế hiện nay đang mở ra rất lớn cho tất cả các nớc.
Đặc biệt là khi nớc ta lại nằm trong khu vực có tiềm năng tăng trởng và biến
đổi cơ cấu rất lớn.
Tuy nhiên, khi nhìn nhận các cơ hội hay khía cạnh tác động tích cực (lợi thế)
của toàn cầu hóa, khu vực hoá thì cần chú ý hai điểm sau:
1). Đây chỉ là những lợi thế tiềm năng. Do đó, đối với một nớc càng nghèo,
càng chậm phát triển thì càng khó biến những tiềm năng đó trở thành hiện
thực. Một tiềm năng đã là sẵn có thì điều mấu chốt là ở chỗ chuẩn bị các điều
kiện bên trong để phát huy lợi thế đầy đủ đến mức nào.
2). Nếu xét từ những góc độ khác, những khuynh hớng tác động nêu trên lại có
thể hàm chứa những khía cạnh bất lợi, thậm chí tiêu cực (ví dụ: cơ hội tiếp
cận dễ dàng đến nguồn tài chính quốc tế bao hàm trong nó cả nguy cơ phải đ-
ơng đầu với những biến động bất thờng ngoài sự kiểm soát của mình trên thị
trờng này). Chính vì vậy, mỗi quốc gia trong qúa trình hội nhập cần phải tính
toán cân nhắc, lựa chọn để đa ra các quyết định thích hợp nhằm đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Mặt khác, nh đã trình bày ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế còn đặt nền kinh tế
Việt Nam trớc những thách thức sau:
Một là, do tiềm lực kinh tế của nớc ta còn qúa mỏng, nguồn nhân lực có trình

độ thấp, kỹ năng không cao nên đã làm cho việc gia nhập vào hệ thống phân
công lao động quốc tế có nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực
tiếp nhận công nghệ kỹ thuật yếu, khó phát huy cao nhất lợi thế của nớc đi
sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để cải tạo nhanh
chóng cơ cấu kinh tế và nâng cao trình độ cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Hai là, tự do hoá thơng mại sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, không những giữa
sản phẩm với sản phẩm mà còn giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp do phải


7
QTKDTM 40A
tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia. Mà trên thực tế, sức cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ và đội ngũ các doanh nghiệp của Việt nam còn yếu kém, sản xuất
trong nớc còn nhiều phân tán. Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo điều
kiện để hàng hóa và dịch vụ của Việt nam có thêm cơ hội để xâm nhập thị tr-
ờng quốc tế. Tuy nhiên do hạn chế nêu trên nên cơ hội xâm nhập thị trờng
quốc tế mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, trong khi đó hàng hóa và dịch vụ
nớc ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện thâm nhập thị trờng Việt
Nam.
Ba là, toàn cầu hoá dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nớc đang phát
triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới (luồng vốn đầu t, các chỉ số của
thị trờng tài chính và thị trờng chứng khoán quốc tế). Do đó, chỉ cần một thị tr-
ờng xuất khẩu hoặc một khu vực thị trờng xuất khẩu trọng yếu lâm vào tình
trạng mất ổn định là nền kinh tế lập tức có vấn đề.
Nh vậy, hội nhập kinh tế quốc tế mà đặc biệt là hội nhập vào khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) vừa là tất yều khách quan của xu thế thời đại, vừa
là yêu cầu nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Nó là bớc đi đầu tiên, là sự chuẩn
bị cho quá trình hội nhập kinh tế thơng mại Việt Nam vào khu vực và thế giới.
Vì vậy, Việt Nam tham gia AFTA có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự
phát triển kinh tế thơng mại của đất nớc. Những thành tựu cũng nh những thất

bại, những cơ hội cũng nh những thách thức trong lộ trình này sẽ là những bài
học kinh nghiệm quý báu cho quá trình tham gia APEC và sự chuẩn bị gia
nhập WTO có hiệu quả hơn.
II. Quá trình hình thành, phát triển khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA)
2.1 Quá trình hình thành và phát triển.
Giữa thập niên 60, để giải quyết những thách thức về kinh tế chính trị trong
khu vực đồng thời giải toả những khó khăn và sức ép chính trị từ bên ngoài,


8
QTKDTM 40A
ngày 8/8/1967 tại Thái Lan 5 nớc khu vực Đông Nam á gồm Thái Lan,
Indonexia, Philippine, Malaysia, Singapore đã cùng nhau ký tuyên bố Bankok-
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) chính thức đợc thành lập. Và
sau hơn 30 năm hoạt động, đến nay số thành viên Hiệp hội đã tăng lên
thành10 thành viên với hơn 604,9 triệu dân, với GDP đạt khoảng 632, 5 tỷ
USD và tổng kim ngạch xuất khẩu là 339, 2 tỷ USD (thêm Việt Nam, Brunei,
Lào, Campuchia,Myama).
Trong những năm đầu, hoạt động giữa các nớc ASEAN chỉ giới hạn trong lĩnh
vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ. Hợp tác kinh tế trong hiệp hội chỉ bắt
đầu vào năm 1987, và đặc biệt đến đầu những năm 90 mới bắt đầu tiến hành
các nỗ lực để thúc đẩy sự liên kết kinh tế với t cách nh một cộng đồng quốc tế.
Tuy vậy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế, nhng kết quả
của những nỗ lực đó đã không đạt đợc nh mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm
1992, khi các nớc thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu
dịch tự do AFTA, thì hợp tác kinh tế giữa các nớc ASEAN mới thực sự đợc đa
lên một tầm mức mới.
Trớc khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp
tác kinh tế khác nhau, đó là:

Thoả thuận thơng mại u đãi (Preferential Trade Agreement: PTA).
Các dự án công nghiệp ASEAN (Asean Industrial Project: AIP).
Kế hoạch kết hợp công nghiệp ASEAN và kế hoạch kết hợp từng lĩnh vực.
Liên doanh công nghiệp ASEAN ( Asean Industrial Joint Venture: AIJV).
Các kế hoạch kinh tế trên tuy đã thể hiện nỗ lực để thúc đẩy sự liên kết kinh tế
nhng tác động của nó chỉ ảnh hởng đến một phần nhỏ trong thơng mại nội bộ
khối ASEAN và không đủ khả năng ảnh hởng đến đầu t trong khối. Có nhiều
lý do khác nhau dẫn đến sự không thành công này. Đó là sự yếu kém trong
hoạch định kế hoạch, quản lý thiếu hiệu quả và trong nhiều trờng hợp, hoạt
động của chính tổ chức phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ chứ không phải
vào nhu cầu khách quan của thị trờng.
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hớng tiến
đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực t nhân đã đợc chú trọng hơn, quy
luật thị trờng dần đợc tuân thủ, các thủ tục liên quan đã đợc đơn giản hoá và


9
QTKDTM 40A
một số trờng hợp các thủ tục rờm rà đã đợc loại bỏ, mức u đãi đợc tăng cờng.
Do đó, tuy không đạt đợc kết quả mong đợi nhng các kế hoạch hợp tác kinh tế
này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác kinh tế giữa các nớc
đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những kế hoạch
hợp tác kinh tế trớc AFTA.
2.2 Sự ra đời và những mục tiêu chính của AFTA.
Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự do hoá
thơng mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong hợp tác thơng
mại khu vực. Vậy nguyên nhân nào đã dẫn tới sự hình thành AFTA vào đúng
thời điểm này?
Thứ nhất, xét trên giác độ tình hình quốc tế chung, vào đầu những năm 90, ở
thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế các nớc ASEAN đứng trớc những thách

thức lớn khiến cho các nớc ASEAN không dễ vợt qua nếu không có sự cố
gắng chung của toàn hiệp hội. Đó là sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác
khu vực nh EU, NAFTA mà ASEAN e ngại sẽ trở thành các khối thơng mại
khép kín, do đó sẽ xuất hiện nguy cơ khép lại dòng chảy vốn đầu t cũng nh là
làm cho hàng hóa của ASEAN vấp phải những trở ngại khi thâm nhập vào các
khu vực thị trờng này.
Thứ hai, xét trên giác độ các nớc ASEAN, mặc dù trong gần một thập niên
qua, kinh tế ASEAN tăng trởng với nhịp độ cao nhng nền kinh tế những nớc
này vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn bên ngoài. Đặc biệt là từ sau giai
đoạn chiến tranh lạnh, do mất lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và
nguồn nhân lực nên ASEAN không còn là địa bàn đầu t hấp dẫn nhất nữa mà
sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc, Nga và các nớc Đông Âu
Thêm vào đó, nền kinh tế của tất cả các nớc ASEAN, ở những mức độ khác
nhau đều chọn chiến lợc phát triển kinh tế hớng về xuất khẩu. Vì vậy, tự do
hoá thơng mại một động lực thúc đẩy xuất khẩu- là điều kiện tiên quyết
cho sự phát triển của những nớc này.
Từ những nguyên nhân cơ bản trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan,
Hội nghị thợng đỉnh các nớc ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành
lập AFTA với 3 mục tiêu cơ bản sau:


10
QTKDTM 40A
Tự do hoá thơng mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Thu hút các nhà đầu t nớc ngoài vào khu vực bằng việc đa ra một khối thị
trờng thống nhất.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thơng mại khu vực trên thế
giới.

Lúc mới thành lập, khu vực mậu dịch tự do dự kiến sẽ thành lập trong thời hạn
15 năm, bắt đầu từ năm 1993 và hoàn thành vào năm 2008. Tuy nhiên, kết quả
tích cực của vòng đàm phán Urugoay sau hơn 7 năm (từ tháng 9-1986) đã kết
thúc ngày 15-12-1993, với quyết định chuyển đổi cơ chế thơng mại quốc tế từ
GATT sang WTO, cùng với sự tiến triển nhanh của APEC, khiến cho các nớc
ASEAN e ngại việc kéo dài quá trình thực hiện sẽ làm cho AFTA trở nên kém
ý nghĩa hơn. Vì thế, Hội nghị Bộ trởng kinh tế các nớc ASEAN lần thứ 26
( tháng 9-1994) họp ở Chiềng Mai đã quyết định đẩy nhanh thời gian thực
hiện AFTA xuống còn 10 năm, tức là vào năm 2003.
Với AFTA, các nớc ASEAN hy vọng rằng sẽ nâng cao hơn nữa khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp, mở rộng thị trờng ngay trong nội bộ tổ chức
ASEAN bằng cách giảm thiểu hàng rào quan thuế và phi quan thuế trong quan
hệ mậu dịch giữa các nớc thành viên với nhau. Nhng quan trọng hơn hết là tạo
ra một môi trơng kinh doanh thuận lợi hơn để thu hút đợc nhiều hơn nữa vốn
đầu t nớc ngoài và làm cho kinh tế ASEAN có thể thích nghi đợc với điều kiện
kinh tế quốc tế đang thay đổi theo hớng gia tăng quá trình tự do hoá.
Tuy nhiên, AFTA mới chỉ là nấc thang đầu tiên trong tiến trình khu vực hóa.
Với sức ép của các hợp tác kinh tế khu vực và các tổ chức thơng mại quốc tế
khác nh APEC,WTO liệu AFTA có bị lu mờ hay không ? Đứng tr ớc tình
hình này, AFTA buộc phải đẩy nhanh tốc độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở
một liên minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do mà trong tơng lai sẽ
tiếp tục tiến tới những tầm cao mới nh thị trờng chung,liên minh kinh tế.
2.3 Những quy định chung về AFTA/CEPT.
Khu vực mậu dịch tự do sẽ trở thành hiện thực thông qua những cơ chế hoạt
động sau:


11
QTKDTM 40A
Chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung (Common effective

Preferential Tariff: CEPT).
Hoà hợp chuẩn mực giữa các nớc ASEAN.
Công nhận công tác kinh tế và cấp chứng nhận của nhau.
Xoá bỏ những quy định hạn chế đầu t nớc ngoài.
Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng
Khuyến khích vốn kinh doanh.
Tuy nhiên, công cụ quan trọng và chủ yếu để biến ASEAN thành khu vực
mậu dịch tự do và thực hiện các mục tiêu của AFTA là Hiệp định u đãi về thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT). Về thực chất, CEPT là một thoả thuận giữa
các nớc thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong thơng mại nội bộ
khu vực xuống còn 0-5% thông qua các kế hoạch giảm thuế khác nhau. Và
trong vòng 5 năm sau khi đã đạt mức thuế u đãi cuối cùng, các thành viên sẽ
tiến hành xoá bỏ những hạn ngạch nhập khẩu và các hàng rào phi quan thuế
khác. Nh vậy, bên cạnh vấn đề cắt giảm thuế quan, việc loại bỏ các rào cản th-
ơng mại và việc hợp tác trong lĩnh vực hải quan cũng đóng vai trò quan trọng
và không thể tách rời khi xây dựng một khu vực mậu dịch tự do.
Vấn đề thuế quan.
Ban đầu, CEPT đợc áp dụng chủ yếu đối với các sản phẩm công nghiệp chế
biến, bao gồm các hàng hóa có hàm lợng vốn cao và các nông sản đã qua chế
biến. Sau đó, Hội nghị các Bộ trởng kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 26 (tháng
9-1994) đã quyết định sẽ dần dần đa hết các sản phẩm nông nghiệp cha chế
biến vào chơng trình CEPT. Đến Hội nghị các Bộ trởng kinh tế ASEAN lần
thứ 27 (tháng 9-1995) các nớc đã chấp nhận về nguyên tắc một Hiệp định
khung về thơng mại dịch vụ. Đây là một bớc tiến đầu tiên nhằm tự do hóa th-
ơng mại dịch vụ trong phạm vi khu vực.
Các danh mục sản phẩm và tiến trình giảm thuế theo chơng trình CEPT.
* Danh mục các sản phẩm giảm thuế nhanh (FTP). Danh mục này gồm việc
giảm thuế đánh vào 15 loại hàng hóa của khối ASEAN, cụ thể là những mặt
hàng đợc ghi trong bảng 1. Việc giảm thuế xuống 0-5% sẽ có hiệulực vào năm



12
QTKDTM 40A
1998 đối với các mặt hàng hiện có mức thuế dới 20% và vào năm 2000 với
các mặt hàng có mức thuế trên 20%.
* Danh mục các sản phẩm giảm thuế bình thờng (NTP). Theo danh mục này,
các nớc ASEAN sẽ giảm mức thuế quan đánh vào sản phẩm do các nớc này
làm ra xuống còn 0-5% vào năm 2000 đối với những mặt hàng có mức thuế
suất từ 20% trở xuống; và vào năm 2003 đối với mặt hàng có mức thuế hiện
hành trên 20%.
* Danh mục tạm thời cha giảm thuế (Temporary Exclusion List: TEL). Danh
mục gồm những mặt hàng tạm thời cha phải giảm thuế vì lý do là để tạo thuận
lợi cho các nớc thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ
thể nhằm tiếp tục các chơng trình đầu t đã đợc đa ra trớc khi tham gia kế
hoạch CEPT cũng nh là có thời gian chuyển hớng đối với một số sản phẩm t-
ơng đối trọng yếu. Tuy nhiên, sau một thời gian nhất định, các quốc gia phải
đa toàn bộ các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế. Cụ thể là trong vòng 5
năm, từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh
mục loại trừ tạm thời.
* Danh mục loại trừ hoàn toàn (General Exclusion List: GEL). Danh mục
này bao gồm những sản phẩm không tham gia hiệp định vì lý do an ninh quốc
gia hay tinh thần, sức khoẻ và bảo hộ cộng đồng, đạo đức xã hội
* Đối với các hàng nông sản cha chế biến nhạy cảm(Sentitive List of
unprocessed Agrcultral Products: SL).
Theo hiệp định CEPT 1992, sản phẩm nông sản cha qua chế biến không đợc
đa vào kế hoạch thực hiện CEPT. Tuy nhiên, theo hiệp định CEPT sửa đổi, các
sản phẩm nông sản cha chế biến này sẽ đợc đa vào 3 loại danh mục khác nhau
là : danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục đặc biệt
là danh mục các sản phẩm nông sản cha chế biến nhạy cảm.
Cơ chế trao đổi nhợng bộ của kế hoạch CEPT

Những nhợng bộ khi thực hiện CEPT của các quốc gia đợc trao đổi trên
nguyên tắc có đi có lại. Một sản phẩm muốn đợc hởng u đãi về thuế quan phải
có ba điều kiện sau:


13
QTKDTM 40A
Thứ nhất: Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nớc
nhập khẩu và nớc xuất khẩu và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc
thấp hơn 20%
Thứ hai: Sản phẩm đó phải có chơng trình giảm thuế đợc Hội đồng AFTA
thông qua
Thứ ba: Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN và phải thoả
mãn yêu cầu hàm lợng xuất xứ từ các nớc thành viên ASEAN (hàm lợng nội
địa) ít nhất là 40%.
Công thức tính hàm lợng nội địa nh sau:
* 100% < 40%
Trong đó:
A: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ nớc
không phải là thành viên ASEAN (là giá CIF tại thời điểm nhập khẩu).
B: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định
xuất xứ (là giá xác định ban đầu trớc khi đa vào chế biến trên lãnh thổ của nớc
xuất khẩu là thành viên ASEAN).
Nếu một sản phẩm có đủ cả 3 điều kiện trên thì sẽ đợc hởng mọi u đãi mà
quốc gia nhập khẩu đa ra (sản phẩm đợc hởng u đãi hoàn toàn). Nếu sản phẩm
thoả mãn các yêu cầu nêu trên trừ việc có mức thuế quan nhập khẩu bằng hoặc
thấp hơn 20% ( tức là sản phẩm đó có thuế suất trên 20%) thì sản phẩm đó chỉ
đợc hởng thuế suất CEPT cao hơn 20% trớc đó hoặc thuế suất u đãi (MFN),
tuy thuộc suất nào thấp hơn.
Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hởng u đãi thuế quan theo chơng

trình CEPT hay không, mỗi nớc thành viên hàng năm xuất bản tài liệu trao đổi
u đãi của nớc mình, trong đó thể hiện các sản phẩm có mức thuế quan theo
CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện hởng u đãi thuế quan của các nớc
thành viên khác.
Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lợng và các rào cản phi thuế quan.
Bên cạnh việc tiến hành cắt giảm thuế quan, vấn đề loại bỏ các hạn chế số l-
ợng nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan khác là hết sức quan trọng để có
thể thiết lập đợc khu vực mậu dịch tự do. Các hạn chế về số lợng nhập khẩu có


14
QTKDTM 40A
thể đợc xác định dễ dàng, do đó đợc quy định loại bỏ ngay đối với các mặt
hàng trong Chơng trình CEPT đợc hởng các nhợng bộ từ các thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, vấn đề phức tạp hơn rất
nhiều và việc loại bỏ chúng sẽ có rất nhiều cách và ý nghĩa khác nhau. Chẳng
hạn đối với các phụ thu thì đơn giản chỉ cần phải loại bỏ, song đối với các tiêu
chuẩn chất lợng lại không thể loại bỏ một cách đơn giản nh vây, bởi vì có rất
nhiều lý do để duy trì chúng nh các lý do về an ninh xã hội, bảo vệ môi trờng,
sức khoẻ Trong các tr ờng hợp này, việc loại trừ NTBs sẽ có ý nghĩa là phải
thống nhất các tiêu chuẩn chất lợng hàng hóa, hay các nớc phải thoả thuận để
đi đến công nhận về tiêu chuẩn của nhau. Và trong trờng hợp về các biện pháp
độc quyền Nhà nớc, việc loại bỏ chúng sẽ có nghĩa là phải tạo điều kiện cho
các nớc thành viên khác có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trờng.
Vì vậy, Hiệp định CEPT đã quy định:
Các nớc thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lợng đối với các sản
phẩm trong CEPT trên cơ sở hởng u đãi áp dụng cho sản phẩm đó.
Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ đợc xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm
sau khi sản phẩm đợc hởng u đãi.
Các hạn chế ngoại hối mà các nớc đang áp dụng sẽ đợc u tiên đặc biệt đối

với các sản phẩm đợc hởng u đãi.
Các hạn chế ngoại hối mà các nớc đang áp dụng sẽ đợc u tiên đặc biệt đối
với các sản phẩm thuộc CEPT.
Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lợng, công khai chính sách và thừa
nhận các chứng nhận chất lợng của nhau.
Trong trờng hợp khẩn cấp (số lợng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phơng
hại đến sản xuất trong nớc hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nớc có
thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập
khẩu.
Nh vậy, mặc dù tinh thần chung của các nớc ASEAN là mong muốn thực hiện
sớm CEPT, giảm tối đa các hàng rào thuế quan và phi thuế quan song do thực
tiễn cơ cấu sản xuất của các nớc ASEAN tơng đối giống nhau, trình độ phát
triển còn kém, nên quá trình hợp tác mở cửa thị trờng vẫn còn nhiều khó khăn.
Tiến trình cắt giảm các hàng rào phi thuế quan theo quy định hiện nay có


15
QTKDTM 40A
nhiều khả quan song đối với các mặt hàng nhạy cảm thì vấn đề bảo hộ còn rất
tiềm ẩn và các hàng rào phi thuế quan sẽ là những công cụ hết sức quan trọng
của các nớc ASEAN để bảo hộ sản xuất trong thời gian tới.
Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Thống nhất biểu thuế quan
Các nớc thành viên hiện đang sử dụng biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà
của Hội đồng hợp tác Hải quan (HS) ở mức độ khác nhau, từ 6 đến 10 chữ số.
Hội nghị các Bộ trởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26 tháng 9/1994 đã quyết định
sẽ thống nhất biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số.
Thống nhất hệ thống tính giá hải quan.
Các nớc thành viên ASEAN đã cam kết trong vòng đàm phán Urugoay của
GATT vào năm 2000 sẽ thực hiện phơng pháp xác định giá hải quan theo

GATT- GTV ( GATT transaction value) đợc nêu trong Hiệp định thực hiện
điều khoản VII của Hiệp định chung về thơng mại và thuế quan 1994 để tính
giá hải quan.
Hội nghị Hội đồng AFTA lần th 7 đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện
hệ thống tính giá hải quan theo GATT vào năm 1997.
Xây dựng hệ thống Luồng hải quan xanh.
Để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Chơng trình CEPT, Hội nghị Hội đồng
AFTA lần thứ 8 đã thông qua khuyến nghị của Hội đồng Tổng cục trởng Hải
quan ASEAN xây dựng hệ thống Luồng hải quan xanh và thực hiện từ
1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hóa
thuộc diện đợc hởng u đãi theo Chơng trình CEPT.
Thống nhất thủ tục hải quan.
Do sự khác biệt giữa hàng hóa đợc hởng nhợng bộ theo Chơng trình CEPT và
các hàng hóa khác nh tiêu chuẩn về hàm lợng xuất xứ, mức thuế suất nên
cần thiết phải đơn giản hoá và thống nhất thủ tục hải quan giữa các nớc thành
viên. Hai vấn đề đã đợc các nớc thành viên u tiên trong việc thống nhất thủ tục
hải quan là :
* Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hóa thuộc diện CEPT: tất cả các hàng
hóa giao dịch theo Chơng trình CEPT trớc tiên bắt buộc phải có giấy chứng
nhận xuất xứ (C/O) để xác nhận mặt hàng đó có ít nhất 40% hàm lợng


16
QTKDTM 40A
ASEAN. Sau đó, hàng hóa này phải đợc hoàn thành thủ xuất nhập khẩu (Tờ
khai hải quan xuất khẩu và tờ khai Hải quan nhập khẩu). Do các tờ khai hải
quan của các nớc thành viên tơng tự nhau nên thủ tục có thể đơn giản hoá
bằng cách gộp 3 loại tờ khai trên thành một mẫu khai hải quan chung cho
hàng hóa CEPT.
Thủ tục xuất nhập khẩu chung: để xây dựng thủ tục xuất nhập khẩu

chung cho khối ASEAN, các nớc thành viên đang tập trung vào vấn đề:
1. Các thủ tục trớc khi nộp tờ hải quan hàng hóa xuất khẩu.
2. Các thủ tục trớc khi nộp tờ hải quan hàng hóa nhập khẩu.
3. Các vấn đề về giám định hàng hóa.
4. Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ đợc cấp sau và
có hiệu lực hồi tố.
5. Các vấn đề liên quan đến hoàn trả
Quy định về tổ chức.
Nhằm mục đích để theo dõi, phối hợp và đánh giá việc thực hiện Hiệp định
CEPT, Hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ 4 đã quyết định thành lập Hội
đồng AFTA (AFTA council). Hội đồng là một cơ quan bao gồm đại diện là
các Bộ trởng từ các nớc thành viên và Tổng th ký ASEAN. Hội đồng có trách
nhiệm báo cáo lên Hội nghị Các Bộ trởng kinh tế ASEAN ( AEM). Hội nghị
các quan chức cấp cao ASEAN ( SEOM) có nghĩa vụ giúp Hội đồng thực hiện
nhiệm vụ này. SEOM họp đều đặn hàng quý để phối hợp thực hiện Hiệp định
CEPT tại mỗi nớc thành viên. Dới SEOM là Uỷ ban điều phối CEPT để thực
hiện AFTA (CCCA). Thành viên của Uỷ ban này gồm đại diện từ các cơ quan
Chính phủ khác nhau liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Hiệp định CEPT.
Chức năng của Ban th ký ASEAN trong việc thực hiện CEPT là hỗ trợ Hội
động AFTA, SEOM và CCCA. Phòng Thơng mại và Công nghiệp ASEAN
(ASEAN- CCI) có vai trò khuyến khích Khu vực t nhân tham gia và thực hiện
CEPT.
Ngoài ra, để triển khai thực hiện AFTA, một bộ phận AFTA tại Ban th ký
ASEAN và các cơ quan AFTA Quốc gia tại các nớc thành viên đã đợc thành
lập, tạo ra một kênh liên lạc giữa Ban th ký ASEAN và các nớc thành viên,
đảm bảo Chơng trình CEPT thực hiện trôi chảy.


17
QTKDTM 40A

III. Những thuận lợi và khó khăn đối với kinh tế
Việt nam khi tham gia AFTA.
3.1 Những thuận lợi mở ra cho Việt nam khi tham gia
vào AFTA- ASEAN.
- Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, đây là sự
kiện đánh dấu bớc phát triển mới của Việt nam trong quan hệ quốc tế để hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời, đây cũng là sự kiện chính trị quan
trọng của Việt nam và các nớc trong khu vực. Có Việt nam trong ASEAN sẽ
góp phần quan trọng cho một viễn cảnh về một Đông Nam á thống nhất là có
thực hiện đợc. Việt nam đã đang và sẽ tích cực tham giavào mọi hoạt động của
tổ chức này trong đó hợp tác kinh tế là lĩnh vực vô cùng quan trọng. Trọng tâm
của hợp tác kinh tế những năm gần đây là hợp tác phát triển thơng mại trong
đó cốt lõi là việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Thực
hiện chơng trình thuế quan có hiệu lực chung CEPT hình thành một thị trờng
thống nhất cho mọi nớc thành viên. Việc tham gia vào chơng trình này là điều
kiện để tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thơng mại, thúc đẩy nhanh
chóng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nớc.
- Tham gia vào AFTA Việt Nam có điều kiện để thay đổi cơ cấu kinh tế.
Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nớc, việc
thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp theo hớng công nghiệp hóa hớng vào xuất
khẩu là rất cần thiết. Tham gia AFTA, Việt Nam có cơ hội để phát triển sản
xuất công nghiệp, thơng mại, dịch vụ và nông nghiệp tạo nên cơ cấu kinh tế
thích hợp.
- Tham gia AFTA Việt nam có cơ hội thu hút đầu t nớc ngoài. Đầu t vào nớc
nào, lĩnh vực nào để mang lại hiệu quả là sự cân nhắc của các nhà đầu t nớc
ngoài. Cơ sở để thu hút dự án đầu t phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh: sự ổn định
về chính trị, môi trờng thuận lợi, thủ tục đơn giản, rõ ràng là những chỉ tiêu rất
quan trọng. Việt Nam tham gia AFTA là sự biểu hiện cụ thể của sự hoà nhập
vào nền kinh tế thế giới và khu vực do đó chắc chắn sẽ thu hút đợc nhiều đầu
t vào Việt Nam.

- Tham gia vào AFTA, ASEAN sẽ cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam
nguồn đầu vào rẻ hơn và có chất lợng tốt hơn do đợc hởng mức thuế thấp và


18
QTKDTM 40A
những điều kiện thơng mại u đãi khác đối với loại đầu vào đó. Đây là điều
kiện rất quan trọng vì Việt nam nhập phần lớn nguồn nguyên liệu và hàng hóa
trung gian từ ASEAN. Do đó, đây sẽ là một nhân tố quan trọng nhằm giảm giá
thành và nâng cao chất lợng sản phẩm, từ đó hàng hóa của Việt Nam sẽ có
tính cạnh tranh cao hơn trên thị trờng thế giới.
- Khi hội nhập vào một thị trờng rộng lớn sẽ đẩy nhanh quá trình chuyên môn
hoá giữa các ngành, từ đó làm tăng các hoạt động thơng mại giữa các ngành.
Điều này đã đợc kiểm nghiệm qua thực tế hội nhập của Châu Âu. Giảm thuế
quan dẫn tới cạnh tranh trong nớc sẽ làm tăng năng suất lao động và đẩy mạnh
đổi mới về công nghệ, thông tin ở các xí nghiệp trong nớc. Tự do hóa mậu
dịch sẽ gây áp lực đối với các ngành xuất khẩu và buộc các nhà kinh doanh
phải giữ giá tơng đối thấp và áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất.
Đồng thời hoạt động xuất khẩu sẽ có xu hớng tập trung nguồn lực vào những
ngành có hiệu quả nhất của nền kinh tế và do đó, nâng cao đợc hiệu quả kinh
tế của mỗi doanh nghiệp cũng nh của toàn bộ nền kinh tế.
- Thị trờng trong nớc sẽ phong phú và đa dạng hơn với nhiều hàng hóa chất l-
ợng cao, gía rẻ. Điều này sẽ có lợi cho ngời tiêu dùng. Một thị trờng phong
phú sôi động sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của thơng mại trong nớc.
Mặt khác, chính do hàng xuất khẩu rẻ sẽ tạo áp lực cạnh tranh với các nhà sản
xuất trong nớc phải tăng cờng các hoạt động dịch vụ để củng cố thị trờng
truyền thống và thúc đẩy việc sản xuất hàng xuất khẩu và tăng lu lợng buôn
bán hàng hóa trong khu vực.
- Tham gia AFTA Việt Nam có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ
thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nớc đó đang cần chuyển

giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nớc trong khu vực để khai thác
khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Một trong những quy định về sản phẩm đợc hởng quy chế Hệ thống u đãi
thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ là trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản
xuất hàng hóa đó phải dới 65% toàn bộ gía trị của sản phẩm đó khi vào lãnh
thổ hải quan Mỹ và giá trị một sản phẩm đợc chế tạo ở hai nớc hoặc trên hai
nớc là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự
do thì đợc coi là sản phẩm của một nớc. Vì vậy, việc Việt nam tham gia


19
QTKDTM 40A
AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nớc
ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn đợc hởng GPS của Mỹ.
3.2 Những khó khăn đặt ra với Việt nam khi tham gia
AFTA.
Khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của qua trình phát triển kinh tế
thế giới. Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế của mình mà mỗi nớc tham gia
vào các lĩnh vực khác nhau, nớc ta gia nhập ASEAN tiến tới tham gia AFTA
bên cạnh những cơ hội (những thuận lợi nêu trên) còn gặp những khó khăn, trở
ngại chủ yếu nh sau:
Trớc hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ chế quản lý kinh tế. Hiện nay nớc
ta đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trờng, các yếu tố của kinh tế thị trờng còn cha đợc tạo lập đồng bộ,
còn nhiều khiếm khuyết. Thị trờng với nhiều loại hàng hóa còn là những thị tr-
ờng địa phơng cha thống nhất cả nớc, càng cha có thể vơn ra đợc thị trờng khu
vực và thị trờng thế giới. Thị trờng lao động, thị trờng vốn, thị trờng chứng
khoán mới chỉ hình thành sơ khai. Lãi suất và tỷ giá hối đoái cũng cha hoàn
toàn đợc hình thành theo cơ chế thị trờng. Hệ thống pháp luật, công cụ quan
trọng để quản lý nhà nớc trong kinh tế thị trờng vừa thiếu vừa cha đồng bộ lại

chồng chéo, cha tạo đợc môi trờng pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách xuất
nhập khẩu đều trong tình trạng tơng tự nh vậy Do đó đã dẫn đến hậu quả là
mức độ sẵn sàng tham gia tiến trình AFTA của Việt Nam cha cao xét về mặt
cơ chế quản lý.
Thứ hai: Gia nhập ASEAN, thực hiện CEPT, các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan từng bớc đợc xoá bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam, hàng hóa Việt
Nam phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp và hàng hóa các nớc khác trên
cả thị trờng trong nớc và quốc tế. Với nền kinh tế kém phát triển, công nghệ
lạc hậu, nếu không có chiến lợc phát triển đúng, phát huy đợc lợi thế so sánh
của đất nớc, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm của nền
kinh tế thì không thể đứng vững đợc trớc sức ép cạnh tranh gay gắt của các n-
ớc kinh tế phát triển. Từ đó, chẳng những chúng ta không khai thác đợc những
lợi thế, cơ hội của sự hội nhập quốc tế mà còn không làm chủ đợc thị trờng nội


20
QTKDTM 40A
địa trớc sự xâm nhập của hàng hóa nớc ngoài, của các công ty nớc ngoài, đất
nớc sẽ do các công ty nớc ngoài chi phối, ngời lao động sẽ trở thành những ng-
ời làm thuê cho nớc ngoài ngay trên đất nớc mình.
Thứ ba: Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, thiếu vốn
kinh doanh cũng nh trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm. Phần
lớn các doanh nghiệp đều mới bớc vào thơng trờng nên có nhiều hạn chế, thể
hiện ở các mặt nh: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhng thiếu chuyên
ngành; mạng lới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp còn cha quan tâm
và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng tin cậy và lâu bền;
thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trờng và khách hàng; thiếu các hoạt
động xúc tiến thơng mại dới nhiều hình thức nh thông tin thơng mại, hỗ trợ
triển lãm, quảng cáo, t vấn về thị trờng, môi trờng đầu t, tìm đối tác kinh

doanh Ngoài ra, tác động không thuận lợi đến các doanh nghiệp còn có
những vấn đề về một môi trờng vĩ mô thiếu ổn định với một hệ thống các thủ
tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ tục thành lập doanh nghiệp, lập
chi nhánh, đại diện, mạng lới kinh doanh trong tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nớc nói
chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến khích kinh doanh.
Tóm lại, có thể nhận thấy những lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu là
những nhân tố khách quan. Nhng những khó khăn lại chủ yếu là những yếu tố
bắt nguồn từ chính nội lực của nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng trong quá
trình hội nhập khu vực, nền kinh tế Việt Nam dễ bị tổn thơng nhất so với các
nớc thành viên và đó chính là thách thức lớn nhất, đòi hỏi chúng ta phải có
những bớc đi hợp lý để chiến thắng trong cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế
này.


21
QTKDTM 40A
Chơng II
Những ảnh hởng của việc
tham gia AFTA đến thơng
mại Việt Nam.
I. Quá trình thực hiện cam kết của Việt Nam với
AFTA cho đến nay.
Ngay từ khi trở thành viên chính thức của Hiệp hội các nớc Đông Nam á
(ASEAN), Việt Nam đã tích cực tham gia vào mọi hoạt động của tổ chức này,
đặc biệt là trong lĩnh vực thơng mại. Ngày 8/11/1995, Uỷ ban thờng vụ Quốc
hội đã có Nghị quyết số 292/NQ-UBTVQH9 về chơng trình giảm thuế nhập
khẩu của Việt Nam để thực hiện CEPT; và ngày 15/12/1995, tại Hội nghị th-
ợng đỉnh ASEAN lần thứ VI, Việt Nam đã ký Nghị định th về thực hiện CEPT
nhằm hoàn thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Theo Nghị định này, Việt
Nam cam kết sẽ cắt giảm thuế quan nhập khẩu hàng hóa trong nội bộ các nớc

ASEAN xuống còn 0-5% trong vòng 10 năm, kể từ 1/1/1996-1/1/2001, đồng
thời dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, thống nhất các yêu cầu về hải quan, về
hệ thống thuế quan và cách định giá tính thuế Chính vì vậy, sau 5 năm nỗ
lực thực hiện, nớc ta đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ trình CEPT/AFTA.
I.1 Về tổ chức
Nh nguyên thủ tớng Võ Văn Kiệt đã trình bày tại hội nghị cấp cao ASEAN lần
thứ 5, Việt Nam đã và sẽ cố gắng để không là gánh nặng của ASEAN , góp
phần cùng các nớc thành viên khác củng cố vai trò của ASEAN trên trờng
quốc tế. Để mau chóng hội nhập và tham gia một cách bình đẳng, hiệu quả
vào các chơng trình hoạt động của ASEAN, Việt Nam đã xác định đây không
chỉ là vấn đề đối ngoại mà thực sự là vấn đề chung, đòi hỏi sự tham gia, phối
họp của các bộ, các ngành, địa phơng cả nớc.
Ngày 6/10/1995, thủ tớng chính phủ ra quyết định 651/TTG thành lập Uỷ ban
quốc gia về ASEAN để chỉ đạo, điều phối bộ máy cơ chế trong nớc nhằm huy


22
QTKDTM 40A
động nguồn lực các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, đoàn thể thực hiện
nghĩa vụ và tham gia một cách toàn diện trong ASEAN.
1.2 Về lịch trình giảm thuế
Với quyết tâm đẩy nhanh tốc độ thực hiện AFTA, ngày 10/12/1996, tại phiên
họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA, Bộ trởng bộ tài chính Việt Nam đã công bố
với các nớc ASEAN danh mục giảm thuế đầu tiên của mình bao gồm 1633
mặt hàng cho cả thời kỳ 1996-2006 và bắt đầu từ 1/1/1996 đã tham gia ngay
vào lịch trình CEPT với 875 danh mục hàng hóa.Có thể nói đây là một dấu
hiệu tích cực chứng tỏ Việt Nam đang rất nỗ lực trong việc thực hiện cam kết
với AFTA. Tuy nhiên, so với các nớc khác thì mới chỉ có khoảng 50% các loại
thuế của Việt Nam đợc đa vào danh mục cắt giảm trong khi đó danh mục cắt
giảm trung bình của các nớc ASEAN khác là 85%. Mặt khác, việc đa ra danh

mục các hàng hóa cắt giảm thuế quan còn đợc thực hiện đồng thời với quan
điểm hạn chế đến mức tối đa các ảnh hởng tiêu cực của việc cắt giảm đối với
nền kinh tế Việt Nam, duy trìmức bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nớc,
tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ...
Vì vậy, hầu nh tất cả các hàng hóa đợc đa vào trong danh mục cắt giảm của
Việt Nam đều có mức thuế ban đầu thấp hơn 20%, một phần đáng kể các hàng
hóa có mức thuế suất ở trong khoảng 0-5% và chỉ có một số lợng rất nhỏ các
hàng hóa ở mức thuế suất nhập khẩu cao hơn 20%. Chính vì thế, danh mục cắt
giảm thuế quan lúc này của Việt Nam chỉ mang tính thủ tục mà không có tác
dụng cắt giảm thực tế đáng kể đối với quá trình cắt giảm thuế quan thực sự.
Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục đệ trình lên Ban th ký ASEAN danh
mục các hàng hóa giảm thuế của mình. Trong đó, số lợng danh mục các loại
hàng hóa đợc đa vào để thực hiện CEPT có xu hớng ngày càng tăng. Cụ thể là:
năm 1998, theo Nghị định số 15/ 1998/ NĐ-CP ngày 12/3/1998 của Chính phủ
Việt Nam đã đa 1633 mặt hàng vào thực hiện CEPT, trong đó có 1496 mặt
hàng đã đợc đa vào từ năm 1997 và 137 mặt hàng mới. Năm 1999, theo Nghị
định số 14/1999/NĐ- CP ngày 23/3/1999, Việt Nam đã đa 3582 mặt hàng vào
thực hiện CEPT, trong đó có 1633 mặt hàng đa vào từ năm 1998 và 1949 mặt
hàng mới. Số mặt hàng mới này gồm cả các mặt hàng đợc chuyển từ danh mục
loại trừ tạm thời (TEL) theo quy định và cả những mặt hàng tăng lên do việc


23
QTKDTM 40A
chi tiết hoá một số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu mới cuả Việt Nam
( theo biểu thuế HS). Năm 2000, theo Nghị định số 9/2000/NĐ-CP ngày
21/3/2000 của Chính phủ, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm đối với 4233 dòng
thuế, trong đó có 3582 mặt hàng đã cắt giảm từ năm 1999 và 651 mặt hàng
mới. Nh vậy, đến nay chúng ta đã thực hiện cắt giảm 4233 dòng thuế trong
tổng số gần 6800 dòng thuế phải cắt giảm theo biểu thuế quan nhập khẩu HS.

Đây là một tỷ lệ khá cao so với các thành viên ASEAN cùng thực hiện CEPT.
Đồng thời, theo đánh giá của Bộ thơng mại và Uỷ ban quốc gia về hợp tác
kinh tế, Danh mục hàng hóa giảm thuế của Việt Nam đợc các nớc đánh giá là
đạt mức cao nhất so với các thành viên mới của Hiệp hội. Nh vậy, trong những
năm đầu thực hiện, Việt nam đã thể hiện quyết tâm rất cao trong việc đẩy
nhanh tiến trình thực hiện AFTA.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đợc đó, việc thực hiện CEPT của ta còn
tồn tại nhiều khó khăn, bất cập cần phải giải quyết và điều chỉnh kịp thời.
Một là, theo quy định chung, sau 5 năm thực hiện CEPT, khi thuế suất đã
giảm dần để xoá bỏ vào năm 2006. Thế nhng, hiện tại Việt nam mới đang
hoàn thiện lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế. Do vậy, để có thể hoàn thành
vào năm 2006 thì phải có sự nỗ lực rất lớn cả từ Nhà nớc và từ các doanh
nghiệp.
Hai là, việc thực hiện AFTA đã đợc 5 năm vậy mà hiện tại vẫn còn nhiều
doanh nghiệp không có hoặc thiếu thông tin, hiểu biết về AFTA, và cha sẵn
sàng tham gia thực hiện, mà họ chính là đối tợng trực tiếp của AFTA.
Ba là, theo thống kê của Bộ thơng mại, tính đến hết năm 1999, trị gía hàng
hóa để hởng thuế nhập khẩu của Việt Nam sang ASEAN có dùng form D
(chứng nhận xuất xứ hàng hóa để đợc hởng thuế nhập khẩu theo CEPT) chỉ
chiếm 0,07-0,08% tổng kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này. Trong khi con
số này của các nớc ASEAN khác là 1%. Nh vậy, những u đãi mà các doanh
nghiệp Việt Nam còn bỏ quên trong buôn bán với ASEAN là không nhỏ.
Bốn là, trong tổng số 4233 dòng thuế cắt giảm hiện nay chỉ có 2954 dòng có
thuế suất CEPT từ 0-5% (cụ thể: thuế suất 0% có 1689 dòng, 1% có 155 dòng,
3% có 333 dòng, 5% có 777 dòng) còn tới 1279 dòng có thuế suất vẫn cao từ
7-50% (thuế suất 7% có10 dòng, 10% có 571 dòng, 15% có 129 dòng, 20% có


24
QTKDTM 40A

107 dòng, 25% có 13 dòng, 30% có 68 dòng, 35% có 295 dòng, 40% có 82
dòng, 45% có 1 dòng và 50% có 3 dòng) và nhiều dòng thuế cha đa vào cắt
giảm có mức thuế suất duy trì ở mức 25,30,40,45% tới tận 2005. Nếu nh vậy,
tới tận mốc1/1/2006 chúng ta phải cắt giảm đột ngột các dòng thuế trên xuống
mức mức còn từ 0-5%, sẽ gây những biến động bất lợi không nhỏ cho nguồn
thu ngân sách, cho việc phát triển thơng mại và khó khăn rất lớn cho doanh
nghiệp trong nớc cạnh tranh.
1.3 Các biện pháp phi thuế quan
Hiện tại Việt Nam vẫn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan nh quy định
về tiêu chuẩn vệ sinh, bao bì; trợ giá để bảo hộ thị tr ờng nội địa
1.4 Hệ thống hải quan
Để phù hợp với quy định chung của khu vực từ năm 1996 hải quan Việt Nam
cùng phối hợp với các nớc thành viên để cải tiến hệ thống hải quan nh: điều
chỉnh thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN, danh mục biểu thuế quan
của khu vực, hệ thống định giá hải quan để tính thuế, tờ khai hải quan chung,
hiệp định hải quan. Từ ngày 1/1/2002 Luật Hải Quan bắt đầu có hiệu lực và
cũng theo quyết định 1494/QĐ/TCHQ. thủ tục hải quan đợc thực hiện theo
quy trình mới cho phù hợp với quá trình hội nhập .
II. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai
đoạn 2001-2006 để thực hiện AFTA của Việt Nam.
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề thúc
đẩy nhanh tự do hoá thơng mại trong khu vực là một trong những chủ đề đã đ-
ợc thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nớc
thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế quan và bỏ
dần các biện pháp phi thuế. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức
vào tháng 9/1999 tại Singapore, thực hiện nghĩa vụ của một nớc thành viên,
Việt Nam cam kết sẽ công bố Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể đến năm
2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, Lịch trình cắt
giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001-2006 của Việt Nam
đã đợc Thủ tớng chính phủ phê chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/

VPCP_TCQT ngày11/12/2000 của Văn phòng Chính phủ. Đồng thời, căn cứ


25

×