Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đánh giá hồ sơ dự thầu ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.8 KB, 29 trang )

Giáo viên hướng dẫn: Th.sỹ: Trần Quang Trung
Nhóm thực hiện: 7
Trường: ĐH KT.TPHCM
(Tài liệu được dịch từ: Managing Risk In Large Project and Complex Procurements)
Chương 13: ĐÁNH GIÁ HỒ SƠ DỰ THẦU
Tổng quan của chương:
- Mục đích: Các quá trình được mô tả trong chương, hỗ trợ trong việc nhận
biết những khía cạnh có khả năng rủi ro cao của một quyết định đấu thầu.
Họ quy định một nguồn đầu vào trọng yếu để đánh giá hồ sơ dự thầu, đặc
biệt cho rủi ro và dự án công nghệ cao.
- Cơ sở lí luận: Các rủi ro liên quan tới phản ứng đấu thầu cụ thể được xác
định tại một giai đoạn sớm nhất, vì vậy họ có thể được dùng một cách rõ
ràng trong đánh giá hồ sơ dự thầu. Nên quan tâm nhiều đến những khu vực
có rủi ro cao và tập trung trong việc thẩm định hồ sơ dự thầu được xác định.
- Đầu vào: Thông tin ban đầu được dùng trong giai đoạn 1 của việc đánh giá
quá trình dựa trên những tài liệu của dự án và theo yêu cầu tự đấu thầu.
Thông tin cho giai đoạn 2 được xuất phát từ những phản ứng cá nhân của
nhà thầu.
- Phương pháp: Trong giai đoạn 1, phát triển một hệ thống phù hợp hoặc cấu
thành các yếu tố cho việc kiểm tra hồ sơ dự thầu, sử dụng phương pháp bán
định lượng để đánh giá khả năng rủi ro phát sinh trong mỗi yếu tố, và tầm
quan trọng của nó và xác định được vạch ranh giới ưu tiên cho mỗi phần tử
và dự án.
Trong giai đoạn 2, sửa đổi sự ước lượng theo phương pháp tiếp cận cụ thể
của từng nhà thầu có ý định áp dụng, và những năng lực tiềm ẩn của nhà đầu
tư.
- Đầu ra:
+ Một danh sách những yếu tố được ưu tiên bởi “tính mạo hiểm” của mỗi
nhà đầu tư, với tầm quan trọng và đánh giá khả năng, và (xác định các yếu tố
ưu tiên)đồng ý ưu tiên cho các yếu tố.
+ Sự chệch hướng của mỗi nhà đầu tư từ những giả định ranh giới.


- Tài liệu: việc mô tả chi tiết những danh giới giả định ước lượng ban đầu và
sự định giá của mỗi nhà đầu tư, để bào chữa cho những hành động và quy
trình đi theo sau.
GIỚI THIỆU:
Chương này mô tả một quy trình đánh giá rủi ro ban đầu có thể được thực
hiện cho hồ sơ dự thầu.Trọng tâm là suy nghĩ làm như thế nào để dự án có
thể được thực hiện bởi các nhà thầu cạnh tranh, và tác động đến việc đánh
giá hồ sơ dự thầu và lựa chọn thủ tục. Nó mở rộng những hoạt động trước
khi đấu giá của nhóm chủ dự án, nơi mà hỗ trợ trong việc phát triển nhận
biết về những rủi ro tiềm năng,và chúng có thể xảy ra như thế nào, và sau
những hoạt động đấu thầu, nơi mà chúng góp phần đánh giá hồ sơ dự thầu
khắt khe hơn. Các mô tả ở đây có được cơ sở chặt chẽ trên đánh giá đã tiến
hành cho dự án công nghệ cao mà yêu cầu hồ sơ mời thầu đã được cấp. Qúa
trình này đã được áp dụng thành công trong việc thu được những hệ thống
và thiết bị công nghệ cao, và nó có tính ứng dụng rộng rãi trong các hình
thức đánh giá hồ sơ dự thầu, như một phần của quá trình đấu thầu.
Mục tiêu của đánh giá rủi ro trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu là:
- Cung cấp dấu hiệu ban đầu của những rủi ro chính có thể phát sinh trong dự
án, trước khi tiếp nhận, kiểm tra chi tiết những phản ứng của nhà thầu, dựa
trên một tập hợp các giả định đáng tin cậy về cách thức thực hiện dự án.
- Phát triển đường giới hạn đề phòng rủi ro để mà mỗi nhà thầu cá nhân có thể
so sánh.
- Tham gia nhóm dự án tập trung vào những vùng có tiềm năng về rủi ro trong
những đánh giá về việc cung cấp và thẩm định các trang web của nhà thầu.
- Cung cấp hồ sơ rủi ro cho từng nhà cung ứng, được phát triển trên cơ sở phù
hợp và thỏa đáng.
- Cung cấp một số các tài liệu các giả định của nhóm dự án về những khu vực
có rủi ro cao và lý do để điều chỉnh những đánh giá của mỗi chủ dự thầu
hoặc những phản ứng được thăm dò trên mạng.
Qúa trình này được sử dụng một số kỹ thuật và công cụ quản lý rủi ro trong

chương trước. Đặc biệt, nó chỉ ra như thế nào là bán định lụơng ưu tiên, thiết
lập phương pháp tiếp cận, các chỉ số đo lường hậu quả và khả năng xãy ra
được mô tả trong chương 5 có thể được kéo dài trong ứng dụng để đánh giá
hồ sơ dự thầu.
Cấu trúc căn bản của quy trình đánh gía và hành động
Hình số 13.1 thể hiện 2 giai đoạn của quá trình đánh giá rủi ro và hồ sơ dự
thầu đối với nhà đâú thầu. Giai đoạn 1 liên quan đến việc thiết lập một
đường giới hạn để dựa vào đó có thể đánh giá hồ sơ dự thầu trước khi được
chấp nhận. Giai đoạn 2 so sánh mỗi hồ sơ dự thầu cung cấp với đường giới
hạn, nhằm phát triển việc đánh giá rủi ro tương đối cho mỗi hồ sơ. Qúa trình
này không cố gắng để có được một cách tuyệt đối về thước đo giá trị rủi ro.
Trọng tâm là điều kiện của một phép so sánh giữa các phản ứng của nhà thầu
và phương pháp đề xuất cho việc hoàn thành các bản hợp đồng, như một
phần của quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu.
Cấu trúc và tài liệu đánh giá rủi ro sản xuất trong giai đoạn 1 và các điều
chỉnh trong giai đoạn 2 đưa ra khả năng kiểm soát và thống nhất trong suốt
quá trình đánh giá. Những đánh giá này được tạo ra bởi các chuyên gia có
trình độ từ đội dự án, hình thức đầu vào cho một mô hình rủi ro đơn giãn.
Phương pháp cấu trúc để đánh giá rủi ro v à định lượng, hỗ trợ rất nhiều
trong việc so sánh những rủi ro giữa những nhà thầu cá nhân trong quá trình
lựa chọn quy trình.
Bảng 13.1: Tổng quan tiến trình
Giai đoạn 1: Thành lập các đường giới hạn rủi ro
Giai đoạn một liên quan đến việc thiết lập và dẫn chứng đường giới hạn rủi
ro dựa vào những so sánh các phản hồi của mỗi nhà thầu.
Cấu trúc của giai đoạn 1 được minh họa trong hình 13.2. Ba phần đầu liên
quan đến việc đánh giá chi tiết của dự án bởi đội dự án từ góc độ rủi ro, sử
dụng tài liệu dự án và kiến thức chuyên môn của họ. Phần cuối sử dụng tiến
trình đánh giá để tính các yếu tố rủi ro và chênh lệch với đường cơ sở.


Bảng 13.2 Các bước thành lập đường giới hạn cơ bản
Tiến trình đánh giá
Các đánh giá ban đầu của từng mục rủi ro WBS ( Work Breakdown Structure: cấu
trúc phân việc) thường thực hiện bởi đội dự án trong buổi làm việc tương tác.Tiến
trình bao gồm các bước:
1. Các nhà quản lí dự án và các nhân viên chủ chốt xem xét lại cơ cấu kế
hoạch, họ đồng ý rủi ro WBS là tổng quát. Đó có thể là nền tảng cơ bản của
hợp đồng WBS bao gồm những yêu cầu về tài liệu đấu thầu,hoặc WBS có
thể thay đổi mục đích đánh giá rủi ro đã thảo luận ở chương 2.
2. Các buổi huấn luyện để thực hiện cho các đội dự án. Nội dung của buổi huấn
luyện là giới thiệu các khái niệm then chốt về rủi ro , quản lí rủi ro và thực
hiện cho đội dự án được sử dụng trong tiến trình đánh giá hội thảo.
3. Nếu như không có đầy đủ trong từ điển WBS, thành viên của nhóm kế
hoạch tạo ra bản phác thảo mô tả bao gồm từng mục rủi ro WBS.
4. Buổi hội thảo đánh giá là hướng dẫn, liên quan đến tất cả thành viên trong
đội đề xuất kế hoạch. Phần đầu tiên của hội thảo là xem xét lại mục tiêu
đánh giá rủi ro nghiên cứu, cách này để đánh giá tổng thể (toàn bộ) quá
trình, các nhiệm vụ được hoàn thành trong buổi hội thảo.
5. Nhóm xem lại lần lượt mỗi rủi ro WBS. Định nghĩa được đọc lớn,bất cứ sự
rõ ràng cần thiết được cung cấp bởi thành viên trong đội với từng phần một.
Giả định chủ chốt thì được thảo luận và chứng minh từng phần một, sau đó
cho từng khả năng xảy ra và chỉ số tác động.Rủi ro có khả năng xảy ra và
các yếu tổ ảnh hưởng được đánh giá như mô tả dưới đây.
Số thứ tự WBS Yếu tố Trang 1
Từ điển WBS
Những giả định của đội dự án:
Giả thiết trang tiếp theo:Có/không
Tổng kết đánh giá
Thang đo khả năng Thang đo ảnh hưởng
Hạn thanh toán cố

định
Độ phức tạp không
thay đổi
Chất lượng
Chi phí
Kế hoạch
Hạn thanh toán linh
hoạt
Độ phức tạp thay đổi
Sự phụ thuộc
Hội nhập và liên kết
Tiến trình quản lí
Yếu tố rủi ro
Người biên tập Ngày Người
đánh giá
Ngày
Bảng 13.3 : Bảng tổng quát ghi lại buổi đánh giá
Số WBS Yếu tố Trang
Giả thiết của đội kế hoạch Tỉ suất
Khả năng, hạn thanh toán cố định
Khả năng, độ phức tạp không thay đổi
Khả năng, hạn thanh toán linh hoạt
Khả năng, độ phức tạp thay đổi
Khả năng, sự phụ thuộc
Người biên tập Ngày Người đánh
giá
Ngày
Bảng 13.4: Chi tiết giả định và tỉ suất, bảng 1
Số WBS Yếu tố Trang
Giả thiết của Tỉ suất

đội kế hoạch
Khả năng. hội nhập và liên kết
Khả năng , tiến trình quản lí
Ảnh hưởng, chất lượng
Ảnh hưởng, chi phí
Ảnh hưởng, kế hoạch
Người biên tập Ngày Người đánh
giá
Ngày
Bảng 13.5: Chi tiết giả định và tỉ suất, bảng 2
Mỗi yếu tố WBS là kiểm tra chi tiết do đội dự án. Giả định của đội dự án về cách
thức yếu tố WBS sẽ được thực hiện bằng cách thảo luận trong buổi hội thảo có sự
tham gia của các thành viên chủ chốt trong đội. Thông tin chi tiết được ghi nhận
trong bảng tóm tắt. Bảng từ 13.3 đến 13.5 chỉ ra các ví dụ được sử dụng trong
đánh giá hiện tại.Hội thảo sử dụng tiến trình tấn công não(tiến trình động não)
tương tự như mô tả ở chương 3.
Sau buổi thảo luận, đánh giá được kết hợp trong bảng tính và chuyển đổi đẻ xếp
hạng số. Những thang đo được sử dụng là những thảo luận ở chương 5. Yếu tố rủi
ro được tính toán và mô tả dưới đây.
Khả năng rủi ro:
Rủi ro được đánh giá cho mỗi yếu tố của dự án(như bảng 13.6), sử dụng tiến trình
như mô tả ở chương 5. Các chỉ số về khả năng của vấn đề thường được sử dụng, ví
dụ như:
• Hạn thanh toán cố định
• Độ phức tạp không thay đổi
• Hạn thanh toán linh hoạt
• Độ phức tạp thay đổi
• Sự phụ thuộc
• Hội nhập và liên kết
• Tiến trình quản lí

Mỗi chỉ số được thể hiện như mô tả 6 điểm trong thang đo, sắp xếp từ thấp đến rất
cao.
Bảng 13.6: Khả năng đánh giá
Như mô tả ở chương 5, Sở nghiên cứu quốc phòng Mỹ đã tìm thấy 5 yếu tố đầu
tiên được chỉ số tốt về khả năng của vấn đề trong kế hoạch công nghệ cao. Nói
cách khác, vấn đề có nhiều khả năng xảy ra khi yếu tố dự án có liên quan đến phần
cứng mới hay phần cứng phức tạp hoặc phần mềm hoặc sự phụ thuộc cao vào hệ
thống khác hoặc nhà thầu. Sự mua sắm mới đây của chúng tôi có liên quan đến hai
nhân tố cuối cùng bổ sung để phản ánh các khía cạnh cụ thể của khách hàng quan
tâm đến tổ chức khác. Những chỉ số khác cũng được sử dụng như đã thảo luận
trong chương 5.
Trong buổi hội thảo đánh giá, mỗi phần được đánh giá lại các nhân tố liên quan, và
bất kỳ các giả định đặc biệt được ghi trong bảng đánh giá tóm tắt (bảng 13.4 và
13.5).Kết quả đánh giá được ghi nhận trong bảng tóm tắt 13.3 . Không phải các
yếu tố đều liên quan đến tất cả các phần. Ví dụ, hạn thanh toán cố định và tính
phức tạp không ứng dụng phi kỹ thuật rủi ro WBS như quản lí dự án.
Mức độ ảnh hưởng
Những ảnh hưởng tiềm ẩn của rủi ro của toàn bộ kế hoạch được đánh giá cho từng
nhân tố dự án (bảng 13.7) .Ba biện pháp ảnh hưởng thường được sử dụng:
• Giảm người dùng chấp nhận, thường đo lường trong việc giảm hiệu suất
• Tăng chi phí
• Chậm tiến độ
Xem xét thái độ hành vi như tính toàn vện, công bằng kinh doanh,hành vi đạo đức
và thẩm quyền có thể bao gồm biện pháp thứ tư trong tiến trình đánh giá ảnh
hưởng.
Bảng 13.7 Đánh giá nhân tố tiềm ẩn
Qui mô mô tả đánh giá được sử dụng, tương tự như các khái niệm được sử dụng
các chỉ số khả năng rủi ro, mô tả trong chương 4 và 5. Chúng tỉ lệ với mức độ ảnh
hưởng của rủi ro trong toàn dự án,không phải chỉ các yếu tố đang được xem xét.
Trong buổi hội thảo đánh giá, mỗi mục được đánh giá lại mỗi thang đo tác động.

Giả thiết chủ yếu về các thước đo tác động (ảnh hưởng) cho từng phần, nếu rủi ro
phát sinh, được ghi trong bảng chi tiết đánh giá (bảng 13.4 và 13.5 ) và kết quả
đánh giá được ghi nhân trong bảng tóm tắt (bảng 13.3).
Nhân tố rủi ro:
Đánh giá môt tả khả năng xảy ra cuả rủi ro và mức độ ảnh hưởng được chuyển đổi
thành các giá trị số và được sử dụng để tìm thấy nhân tố rủi ro cho từng yếu tố
một( hình 13.8).Phương pháp tính được mô tả ở chương 5.
Bảng 13.8: Nguồn gốc cuả nhân tố rủi ro
Đối với từng yếu tố thì các giá trị rủi ro có liên quan được tính trung bình để tạo ra
một thang đo lường khả năng đơn P , trong khoảng từ 0-1. Đối với những yếu tố
mà không phải tất cả những chỉ số có liên quan thì giá trị trung bình là lớn hơn
những giá trị số có liên quan.
Tương tự vậy, các thang đo lường mức độ ảnh hưởng được tính trung bình cho mỗi
yếu tố để taọ nên một thang đo ảnh hưởng đơn và đo hậu quả C, cũng nằm trong
khoảng từ 0-1.
Một nhân tố rủi ro hoặc kết hợp đo lường rủi ro thì được tính cho từng yếu tố:
RF= P+C-(P*C)
Các yếu tố rủi ro RF thay đổi từ 0( thấp) đến 1 (cao). Nó phản ánh khả năng phát
sinh của rủi ro và mức độ ảnh hưởng của nó.Rủi ro sẽ cao nếu nó có thể xuất hiện,
nếu tác động lớn, hoặc cả 2.
Kết quả giai đoạn 1:
Các yếu tố rủi ro được mô tả trong hình 13.9 và hình 13.10. Hình 13.9 cho thấy
các khả năng phân tán cuả các biện pháp tác động. Hình 13.9 cũng cho thấy đường
viền nguy cơ là ngang nhau, để phân vùng chính của rủi ro cao, trung bình và các
khu vực rủi ro thấp.
Hình 13.10 cho thấy rủi ro trong việc mua sắm trong đó yếu tố WBS xếp hạng mức
độ giảm dần các yếu tố rủi ro của chúng. Các hồ sơ rủi ro cung cấp những cái nhìn
khác nhau cao, trung bình , rủi ro thấp cho việc sắp xếp thứ tự ưu tiên của rủi ro.
Xem xét hồ sơ rủi ro cho hành vi mua sắm cắt ngang điểm giữa cao và trung bình
của rủi ro.Trong ví dụ này , nó nằm trong khoảng RF = 0,65 và cắt giữa trung bình

và thấp của rủi ro RF = 0,40
Bảng 13.9: Khả năng rủi ro và mức độ ảnh hưởng
Bảng 13.10: Hồ sơ rủi ro dự án
Giai đoạn 2: xem xét hồ sơ dự thầu
Quá trình xem xét hồ sơ dự thầu xây dựng trên cơ sở hình thành vào giai đoạn 1 và
tài liệu giả định liên kết với nó. Mục tiêu của nó là cung cấp hướng dẫn để so sánh
đánh giá hồ sơ dự thầu về tác động tiềm tàng của các rủi ro trong dự án và cách tiếp cận của nhà thầu. Tuyệt đối các
biện pháp rủi ro có tầm quan trọng thứ cấp.
Chìa khóa để đánh giá chính xác là rủi ro phù hợp và được kiểm chứng đánh giá bởi các nhóm dự án, chất lượng
chức năng để đưa ra quyết định.
Bảng tương tự được sử dụng trong đánh giá rủi ro trong giai đoạn 1 làm cho quá trình và lặp lại nhiệm vụ và cung
cấp một dấu vết kiểm toán của các giả định.
Hình 13,11 cho thấy cơ cấu cho giai đoạn 2. Các bước được mô tả chi tiết dưới đây,
đặt ra là thủ tục để được theo dõi từng hồ sơ dự thầu.
Bảng 13.11 Cơ cấu giai đoạn 2
Yếu tố dự án, khả năng và mức độ ảnh hưởng của rủi ro.
Việc đánh giá ở giai đoạn 1 tạo ra một số giả định về dự án thành phần riêng biệt.
Đây là những tài liệu có liên quan trong việc đánh giá ở giai đoạn 1.
Bước đầu tiên của việc đánh giá hồ sơ dự thầu là so sánh các phương pháp của nhà
thầu với các giả định thực hiện trong đánh giá ban đầu đối với mỗi thành phần
trong WBS. Bất kì sự khác biệt nào mà trong cách tiếp cận mà có thể ảnh hưởng
đến khả năng hay tác động của rủi ro cần được ghi nhận, những cái này có thể bao
gồm, ví dụ như :
• Không còn phù hợp với công việc kinh doanh này nữa phải không? Nó đòi
hỏi sự phát triển lớn hơn hay là nó có liên quan đến sự phức hợp của sự mới
mẻ và sự phát triển của hệ thống phụ?
• Các nhà thầu đã chứng minh đựợc sự hiểu biết về các yêu cầu chưa?
• Có bất kì điều gì được bỏ xót từ lời đề nghị này không?
• Các nhà thầu có hồ sơ nào chứng minh có kinh nghiệm trong lĩnh vực này
không?

• Là nhà thầu quản lý dự án tốt với hệ thống phù hợp phải không?
• Được sản xuất phân phối và lịch trình thi công khả quan hay thực tế.?
• Có những bất trắc xung quanh cái việc mời thầu này không?
Những chỉ số rủi ro riêng biệt cần được kiểm định từng yếu tố một.Bất kì sự khác
biệt nào giữa cách thực hiện của nhà thầu và những giả định cơ bản cần được lưu
dữ lại và bất kì sự khác biệt nào trong việc đánh giá khả năng cuả rủi ro phải được
lưu ý ngay.Những nhân tố mà làm thay đổi các chỉ số có thể được đánh giá bằng
nhiều phương pháp khác nhau,việc sử dụng các nhà thầu phụ với trình độ và kĩ
năng , kinh nghiệm tương tự.Thang đo mức độ rủi ro được kiểm nghiệm cho từng
yếu tố một,bất kì sự sửa đổi nào so với đánh giá ban đầu cần đươc văn bản
hoá.Những nhân tố mà có thể làm thay đổi cách đanh giá bao gôm cách tiếp cận ít
rủi ro để yêu cầu các công việc liên quan cung cấp các yêu tố , phương pháp và thủ
tục để sơm phát hiện các vấn đề có kế hoạch quản lý rủi ro tốt hơn.
Xem xét laị khả năng rủi ro và biện pháp đánh giá cần được chuyển đổi thành số
liệu và các nhân tố rủi ro được tính toán lại.Bất kì sự chênh lệch nào từ đường đánh
giá cơ bản phải được xem xét cụ thể đảm bảo rằng nhưng nguyên nhân đó đuợc
hiểu và ghi chép làm tài liệu.
Kết luận
Phương pháp mô tả trong chương này được sử dụng thành công trong việc thẩm
định hồ sơ đăng kí dự thầu với số lượng máy móc công nghệ cao.Theo kinh
nghiệm của chúng tôi lợi ích của tổ chức từ việc này là đáng kể.
• Nhóm dự án phát triển một lý luận, định lượng xem về bản chất của những
rủi ro
trong suốt mua sắm, căn cứ vào tài liệu đáng tin cậy và giả định. Một phòng
thủ đường cơ sở được phát triển.
• Đánh giá được tiến hành trước khi nhận phản ứng thầu, do vậy nó độc lấp
chủ yếu với bất kỳ phương pháp tiếp cận kỹ thuật và coi như độc lập cụ thể
với phương pháp và phản ứng của nhà thầu.
• Rủi ro tiềm ẩn và mối đe dọa được xác định cho đội đánh giá hồ sơ dự thầu
tại giai đoạn đầu, để cung cấp tài liệu hướng dẫn kiểm tra chi tiết và yêu cầu

thông tin.
• Tài liệu hướng dẫn giúp cho đội và những người khác trong chuỗi phê duyệt
hiểu về các giả định rủi ro chính và cơ chế. Đặc biệt, nó làm cơ sở cho xây
dựng chiến lược quản lý hợp đồng và thực hiện dự án có rủi ro mất vào tài
khoản, sự lựa chọn nhà thầu ưa thích từ quan điểm quả lí rủi ro và phát triển
và thương lượng các điều kiện hợp đồng chi tiết liên quan đến quản lí rủi ro.
• Toàn bộ quá trình được ghi chép lại, do vậy có thể được kiểm tra lại và kiểm
toán.
CHAPTER 14: CONTRACTS AND RISK ALLOCATION
Giới thiệu chung:
Mục đích: rủi ro có thể phân bổ hoặc chuyển đến phần khác của hợp đồng thông
qua những từ đặc biệt trong hợp đồng hay thông qua cách hành động. Hợp đồng là
một công cụ phân bổ và chuyển rủi ro bằng cách quản lý riêng lẻ từng rủi ro.
Cơ sở lý luận: trong bất kỳ mối quan hệ được xây dựng dựa trên hợp đồng, trách
nhiệm quản lý quản lý những rủi ro đặc biệt phải được sắp xếp tốt nhất để quản lý
chúng.
Đầu vào: danh sách rủi ro và sản phẩm của hoạt động đánh giá rủi ro hình thành
nên cơ sở dữ liệu cho hợp đồng và thương thảo hợp đồng.
Phương pháp: chọn loại hợp đồng và soan thảo các điều khoản hợp đồng để giảm
tối thiểu rủi ro bằng cách phân bổ chúng cho các bên có thể quản lý chúng tốt nhất.
Đầu ra: một hợp đồng phân bổ rủi ro một cách đúng đắn, cách mỗi bên quản lý rủi
ro được dẫn chứng trong hợp đồng.
Tài liệu: danh sách bủi ro, kế hoạch hành động khi rủi ro, bảng phân bổ rủi ro và
tài liệu hợp đồng.
SỰ PHÂN PHỐI RỦI RO CHO HỢP ĐỒNG
Hợp đồng là sự giao kèo giữa hai bên về việc quản lý các việc làm riêng biệt hay
thực hiện chức năng riêng biệt, để đổi lại lợi ích. Tất cả các quy mô hợp đồng và
các mục đích của hợp đồng đều là để chuyển giao rủi ro, phân bổ chúng cho 1 cá
nhân hay tổ chức quản lý trong một khoản thời gian được thỏa thuận.
Điều đó giải thích cho việc khi tìm kiếm một hợp đồng xây dựng đơn giản đối với

nhà ở nội địa. Khi người chủ cho rằng điều đó là quá rủi ro khi xây dựng hay mở
rộng căn nhà của chính họ, khi đó anh ta sẽ hợp đồng với chủ thầu.
Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, chủ sở hữu chuyển giao các rủi ro dự án
kỹ thuật và việc xây dựng nhà ở cho các nhà xây dựng, những người sẽ quản lý tốt
hơn những rủi ro của họ.Chủ sở hữu chính là nguồn quỹ cho việc xây dựng, và các
nhà xây dựng thì có một yếu tố rủi ro tín dụng liên quan đến các khoản thanh toán
của chủ sở hữu đối với công việc.
Đó chính là ví dụ cơ bản của việc phân phối rủi ro trong suốt hợp đồng. Trong một
số trường hợp, việc phân phối rủi ro là một quá trình phức tạp. Nhưng các nguyên
tắc thì vẫn như cũ, phân phối rủi ro vào những nơi có thể quản lý nó tốt hơn, thông
qua các từ ngữ cụ thể trong các tài liệu hợp đồng.
Một sự phân bổ không hợp lý hoặc không cân bằng có thể xảy ra do việc thiếu kinh
nghiệm của các bên hoặc do có một bên có vị thế cao hơn. Việc này có thể gây ra
những rủi ro mới cho dự án, đặc biệt là những nơi mà các nhà tổ chức không hiểu
về những nguy cơ hoặc không có các khả năng để quản lý hoặc kiểm soát chúng.
Với việc hiểu rõ bản chất của rủi ro và cách phân bổ chúng một cách thích hợp
trong bản hợp đồng, nhà quản lý có thể chọn loại hợp đồng thích hợp, khai triển và
tiến hành thực hiện hợp đồng để quản lý rủi ro hiệu quả.
Đó chính là những lưu ý đối với việc chuyển giao rủi ro, hoặc phân phối chúng cho
bên khác, có thể được thực hiện hoặc thông qua dự thảo và thống nhất từ ngữ trong
hợp đồng, hoặc chủ thể chịu trách nhiệm về rủi ro có một mức độ năng lực hoặc kỹ
năng chuyên nghiệp về lãnh vực đó. Chuyển giao các rủi ro tiềm ẩn là một cách
tiếp cận nhiều nguy hiểm vì chỉ dựa vào các điều kiện bất thành văn hay những
ngụ ý ngầm.
CÁC LOẠI HỢP ĐỒNG VÀ GIÁ CƠ BẢN
Thế giới kinh doanh đã đi từ việc phát triển các thỏa thuận hợp đồng đơn giản bằng
cách bắt tay cuả hai bên , đều là những bên tham gia tích cực. Các văn bản phức
tạp liên quan đến nhiều bên, cơ sở cơ bản của tài liệu đó vẫn giữ nguyên việc phân
bổ rủi ro. Ngày nay chúng ta có thể lựa chọn từ một số lượng lớn các loại hợp đồng
có sự trợ giúp bởi sự phát triển của kinh nghiệm ngày càng cao để phân bổ và quản

lý một loạt các loại rủi ro ở nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Khi xem xét loại hợp đồng cụ thể , chúng ta có thể giả sử là nơi hợp đồng giao rất
nhiều rủi ro cho một bên, bên kia thì không.
Một ví dụ của việc này là một hợp đồng cộng thêm chi phí, nhà thầu là cung cấp
một dịch vụ với chi phí việc cung cấp các dịch vụ cộng với một biên độ nhất định
của lợi nhuận. Trong trường hợp này, rủi ro của việc vượt quá chi phí đã được
phân phối cho các khách hàng trong tổng số, làm cho các nhà thầu có nguy cơ tài
chính ngoài các rủi ro tín dụng về việc khách hàng không trả tiền như đã hứa.
Việc gia tăng tài chính cho khách hàng
Hợp đồng giá cơ bản
Giá bền vững giá cố định Phí khích lệ Giá trị hợp đồng phụ
việc gia tăng rủi ro tài chính cho nhà thầu
14.1.Loại hợp đồng và phân bổ rủi ro tài chính.

Hợp đồng firm-price giúp khách hàng thoát khỏi nhửng rủi ro liên quan đến
bội chi, với nhũng rủi ro phân bố cho người kí hợp đồng ( bên thực hiện dịch
vụ với một giá cố định, lợi nhuận bị đe dọa nếu bất ngờ xảy ra việc tăng chi
phí.
Có nhiều giá cơ bản cho hợp đồng, như hình 14.1 minh họa cách rủi ro tài chính
được phân bổ cho khách hàng hoặc nhà thầu trong bốn hình thức chủ yếu của hợp
đồng được đề cập như sau:
• giá gốc
• giá cố định
• lệ phí khuyến khích
• giá sản xuất cộng với tiền lãi vừa phải
Mỗi hình thức hợp đồng giải quyết vấn đề rủi ro tài chính khác nhau và phân bố rủi
ro cho các bên theo nhiều cách khác nhau. Ở phần sau thì bốn hình thức hợp đồng
được chi tiết hơn. Phần sau cùng của chương này, chúng ta sẽ cung cấp thêm các
hình thức khác của hợp đòng và làm thế nào để rủi ro đối với dịch vụ giao hàng có
thể phân phối được.

HỢP ĐỒNG GIÁ XÁC ĐỊNH
Hợp đồng với một cơ sở giá xác định tất cả các công ty phân bổ rủi ro tài chính
cho nhà thầu hoặc nhà cung cấp dịch vụ. Trong loại hợp đồng này các bên đồng ý
với giá hợp đồng mà vẫn không thay đổi một phạm vi của công việc và dịch vụ.
Các nhà thầu chấp nhận nguy cơ vượt chi phí nhưng nhiều người cũng làm cho lợi
nhuận bổ sung cho chi phí thấp hơn dự kiến.
Hợp đồng giá xác định rất phổ biến và được sử dụng tốt nhất với rủi ro thấp,
không phát triển, ngoài yêu cầu bảo quản trong một thời gian ngắn, thường là ít
hơn hai năm. Khách hàng sẽ thích kiểu hợp đồng này ngay cả khi gặp những nguy
cơ về dịch vụ đối với việc cung cấp không phù hợp với kiểu hợp đồng, khách hàng
thông thường nhận được lợi ích lớn hơn.
HỢP ĐỒNG GIÁ CỐ ĐỊNH:
Hợp đồng với một mức giá cố định phân bổ rủi ro tài chính cơ bản nhất của nhà
thầu, nhưng cho phép một số trợ giúp trong khu vực biến động kinh tế. Trong loại
hợp đồng này, các bên thỏa thuận giá hợp đồng cố định và không thay đổi cho một
phạm vi công việc hoặc dịch vụ nào, ngoại trừ cho phép thay đổi tỷ giá hối đoái do
lạm phát.
Nhà thầu chấp nhận nguy cơ là vượt chi phí và cũng có thể đạt được lợi nhuận bổ
sung thông qua việc tiết kiệm chi phí, nhưng sẽ được cứu trợ từ việc tăng chi phí
đó là do lạm phát hay biến thể tỷ giá hối đoái. Khách hàng chịu trách nhiệm về rủi
ro tỷ giá hối đoái có thể khác nhau hoặc bằng lạm phát sẽ gây ra của nhà thầu như
lao động, thiết bị, chi phí vật liệu tăng. Trong trường hợp này khách hàng hài lòng
với hợp đồng này bởi bất kỳ thay đổi đối với giá hợp đồng gây ra bởi các biến thể
kinh tế vì khách hàng có thể nhận được lợi nhuận lớn hơn.
Các hợp đồng giá cố định cho rủi ro thấp, không phát triển thêm, thường có thời
hạn ngắn, thường ít hơn 2 năm. Khách hàng thường thích laoij hợp đôg này vì nhận
được lợi nhuận lớn hơn.
HỢP ĐỒNG PHÍ KHÍCH LỆ:
Hợp đồng với một khoản phí chia sẻ rủi ro tài chính giữa nhà thầu và khách hàng
đồng đều hơn. Trong loại hợp đồng này, các bên đồng ý một mức giá mục tiêu của

hợp đồng cố định trong một phạm vi cho phép của công việc hoặc dịch vụ. Nhà
thầu và khách hàng đồng ý chấp nhận chia sẻ nguy cơ vượt chi phí và cũng đồng ý
chấp nhận một phần trong lợi ích của việc tiết kiệm chi phí.
Trong một số trường hợp, một hợp đồng lệ phí ưu đãi cũng sẽ thiết lập tối đa giá
trần cho khách hàng, nhà thầu sẽ loại bỏ được các rủi ro tài chính.
Những cơ sở để thiết lập giá mục tiêu và giá trần, tỷ lệ chia sẻ giữa khách hàng và
nhà thầu về việc phân bổ rủi ro trong hợp đồng đó, và hợp đồng cũng là công cụ
thích hợp nhất để quản lý các rủi ro và đi đến kết quả của cuộc đàm phán.
Ví dụ, nếu khuyến khích hợp đồng giao phần lớn lệ phí rủi ro cho nhà thầu, có thể
thích hợp cho các mục tiêu và giá trần được đặt khá cao hoặc tỷ lệ chia sẻ cho lợi
nhuận và mất mát để có lợi cho các nhà thầu như là một hình thức xem xét cho
tham gia vào rủi ro đó. Ngược lại, có thể là trường hợp hợp đồng phân phối rủi ro
đáng kể cho khách hàng. Một ví dụ về chia sẻ rủi ro trong một hợp đồng khuyến
khích được thảo luận trong Chương 22.
Hợp đồng thích hợp sử dụng trong việc giảm nhẹ các rủi ro có nguy cơ phát triển
cao, nơi mà các phạm vi công việc rất khó để xác định chính xác và do đó các chi
phí không dễ ước lượng chính xác. Thông thường, nhà thầu thích loại hợp đồng
này, mặc dù rủi ro liên quan đến các dịch vụ được cung cấp có thể không phù hợp
với loại hợp đồng, nhưng nói chung với hợp đồng này các nhà thầu sẽ có nguồn
gốc lợi ích lớn hơn.
HỢP ĐỒNG COST-PLUS
Hợp đồng trong đó có cộng chi phí cho việc phân bổ tất cả các rủi ro tài chính cho
khách hàng. Trong loại hình hợp đồng này, các bên đồng ý với một phạm vi công
việc mà nhà thầu sẽ được thanh toán tất cả chi phí phát sinh trong việc cung cấp
hàng hoá, dịch vụ, cộng với lợi nhuận thoả thuận như một giá cả cố định hoặc một
tỷ lệ phần trăm của chi phí thực tế phát sinh.
Khách hàng chấp nhận rủi ro tài chính của nhà thầu và khoản lợi nhuận đã thoả
thuận. Trừ khi có quy định hợp đồng khác được bao gồm, có rất ít ưu đãi cho nhà
thầu để giảm thiểu chi phí phát sinh, không phân biệt những rủi ro gặp phải trong
việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ.

Loại hợp đồng phụ này rất hiếm được sử dụng và chỉ sử dụng khi khả năng phát
sinh rủi ro cao. Thường các nhà thầu thích loại hợp đồng này hơn, mặc dù những
rủi ro liên quan đến dịch vụ được cung cấp có thể không phù hợp với loại hợp
đồng, nhưng với hợp đồng này nhà thầu có được lợi ích lớn hơn.
CÁC RỦI RO THÔNG QUA CHU KỲ VÒNG ĐỜI
Sự hiện diện rủi ro trong môi trường kinh doanh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc
phát triển tài liệu cho các văn bản hợp đồng. Xác định tổng số trường hợp không
có rủi ro trong kinh doanh và các dự án là rất khó. Nếu không có những rủi ro để
phân bổ, sự cần thiết cho một hợp đồng sẽ giảm đi rõ rệt.
Trong thực tế, hợp đồng được yêu cầu phải chính thức chỉ định rủi ro cho các bên
hợp đồng và mô tả cụ thể những rủi ro này để xác định cách giải quyết như thế
nào. Việc xác định và đánh giá rủi ro, nên bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất của xây
dựng và soạn thảo hợp đồng và tiếp tục thông qua hợp đồng để kết thúc.
Giám đốc dự án nên lưu ý đến các rủi ro thông qua vòng tìm kiếm bao gồm các rủi
ro cố hữu trong quá trình của nó, việc phân chia máy móc và dự án có thể giao
được. Một ví dụ về 'thực hiện dự án và hợp đồng' quá trình “tiêu chuẩn đã được sử
dụng để đánh giá những hậu quả của rủi ro được quy định tại Chương 24
SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG
Khi soạn một hợp đồng, bắt đầu từ những nguyên tắc đầu tiên, người soạn thảo
phải tính đến những rủi ro có thể nảy sinh và tác động của những rủi ro đó. Cần
thảo ra những điều khoản làm giảm bớt rủi ro, ghi rõ việc giao trách nhiệm quản lý
chúng thuộc bên nào của bản hợp đồng. Các loại rủi ro dự án có thể trong hợp
đồng gồm:
+Quyền sở hữu và yêu cầu.
+Thiết kế, xây dựng và sự chấp thuận.
+Giá cả và sự chi trả.
+Trách nhiệm pháp lý và việc bồi thường.
Người soạn thảo hợp đồng có thể sử dụng bảng danh sách rủi ro hiện hành
hoặc từ nguồn thông tin về rủi ro khác để hỗ trợ việc xây dựng cấu trúc của hợp
đồng và soạn thảo những điều khoản quan trọng. Bản hợp đồng phải bao gồm tất

cả các rủi ro đã nhận định được và xác định rõ ràng trách nhiệm quản lý những rủi
ro này. Đôi khi nhà quản lý dự án sử dụng bảng phân phối rủi ro để nghi các rủi ro
thành nhóm và chỉ ra những rủi ro sẽ phân bố ở bên nào của bản hợp đồng.
Những bản hợp đồng đươnc xây dựng dựa trên khuôn mẫu thì cần soạn thảo
theo những quy tắc giống nhau. Các mẫu sẽ bao gồm những điều khoản đã được
phát triển và chon lọc để giảm bớt rủi ro. Người soạn thảo cần xem lại mẫu hoạp
đồng dể đảm bảo:
+Các điều khoản nhắm vào những rủi ro tương thích trong phạm vi công
việc.
+Các điều khoản xác định việc quản lý rủi ro cho bên (bên A, bên B…)
thích hợp.
+Các rủi ro khác phải được kể đến bởi các điều khoản thêm vào, các điều
khoản sửa đổi hay xóa bỏ.
Thông tin rủi ro dự án hiện hành, là một danh sách rủi ro, liệt kê rủi ro và
những lời khuyên, nó cung cấp cho người soạn thảo hợp đồng nguồn thông tin
đáng giá. Người soạn thảo hợp đồng cần đảm bảo rằng, bất cứ ở đâu, những rủi ro
và sụ phân bố của nó đều được nhắm đến thông qua những kỳ hạn và điều kiện
trong hợp đồng. Các quyết định điều phối nên dựa vào năng lực mỗi bên, sự sẵn
sàng nhận trách nhiệm quản lý rủi ro.
Một vài rủi ro dự án không thể xác định rõ thông qua các điều khoản hợp
đồng. VD: lợi ích của nhân viên quản lý để quản lý hợp đồng post-signature.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA TƯ LIỆU THẦU VÀ ĐÁNH GIÁ THẦU.
Trong nhiều trường hợp, người soạn hợp đồng cung cấp một phần những
yêu cầu cho gói thầu để giúp nhà thầu phát triển những để xuất của họ. Người soạn
thảo đưa cho nhà thầu chỉ dẫn đến sự chấp thuận của các bên và thái độ của khách
hàng đối với rủi ro và sự phân bố rủi ro.
Người soạn thảo cần giúp nhà thầu hiểu rõ những rủi ro được nhân định bởi
khách hàng, giúp đỡ phát triển chiến lược chi tiết để phân bổ yêu cầu công việc. Sự
phân bố rủi ro được mô tả trong bản soạn thảo hợp đồng cũng giúp nhà thầu phát
triển kế hoạch thương thuyết, trách nhiệm quản lý rủi ro và các chiến lược.

Kế hoạch đánh giá thầu cần mô tả rõ cách quản lý đối với mỗi rủi ro
mà nhà thầu sắp gặp phải. Không có quá trình đánh giá đầu tư nào không thực hiện
việc này.
SỰ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC QUẢN LÝ RỦI RO CỦA NHÀ THẦU
Quyết định thầu cần được đánh giá dựa trên khả năng quản lý rủi ro của nhà
thầu. Nhà thầu không chỉ đơn giản xác định khả năng, năng lực quản lý rủi ro.
Những khách hàng sắc sảo đảm bảo an toàn cho họ bằng cách các công ty họ chọn
phải chính thức hóa phân phối hàng hóa và dịch vụ, có tiến trình quản lý rủi ro một
cách hệ thống và giải quyết rủi ro trước khi vấn đề trở nên nghiêm trọng. Nhà thầu
cần biểu hiện rằng họ:
+Có tiến trình quản lý rủi ro bao gồm các tiêu chuẩn phù hợp.
+Có kế hoạch quản lý hệ thống hợp nhất với quá trình quản lý rủi ro.
+Có mối liên hệ tốt với khách hàng, tham khảo phương pháp của họ để giải
quyết rủi ro.
Việc quản lý hợp đồng
Một hợp đồng được soạn thảo và thương lượng có thể bị thất bại thông qua việc quản lý
kém. Ngược lại, một hợp đồng được xây dựng yếu kém, không hoàn thiện lại có thể
thành công nhờ vào công việc quản lý tốt. Tuy nhiên, mục tiêu ở đây là nên thương thảo
với một hợp đồng hoàn hảo và làm cho nó trở nên thành công hơn nhờ vào công tác quản
lý trong suốt thời hạn hợp đồng.
Phải mất nhiều hơn một hợp đồng để có được một kết quả dự án thành công. Hầu hết các
hợp đồng đều có vấn đề và đó là trách nhiệm của nhà quản lý của cả hai bên tham gia
phải cùng nhau chủ động giải quyết. Nghĩa là trong những vấn đề khác nữa, nhà quản lý
phải tiên phong xác định và giảm thiểu các rủi ro có tiềm năng làm cho hợp đồng không
đáp ứng mục tiêu của nó.

×