Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Thành phần loài chim ở Vườn quốc gia Bạch Mã ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.62 KB, 11 trang )

Thành phần loài
chim ở Vườn quốc
gia Bạch Mã


Cho đến nay đã có nhiều công
trình nghiên cứu về chim ở
Vườn quốc gia Bạch Mã.
Những tác giả đầu tiên chủ
yếu là người nước ngoài như:
Jean Delacour, Pierre
Jobouille, Bertil Bjorkegren
và sau đó là các tác giả Việt
Nam nghiên cứu theo các
chương trình và dự án về lâm
nghiệp.

Cho đến nay đã ghi nhận được
330 loài chim có ở Vườn quốc
gia Bạch Mã và các vùng
đệm, chiếm 34% trên tổng số
840 loài chim được thống kê ở
Việt Nam. Mặc dù con số
thống kê các loài chim ở đây
chưa đầy đủ, nhưng cũng thấy
rõ tính phong phú về số lượng
và sự đa dạng về thành phần
loài trên một vùng không lớn.
Các chủng quần chim đa dạng
còn thể hiện ở tính đặc trưng
cho từng sinh cảnh khác nhau.


Một số loài và phân loài trong
chúng có tính chất đặc hữu
của vùng Đông Dương. Đó là
các loài gà so Trung Bộ
(arbrophilla merlinii), trĩ sao
(Rheinatia ocellata), thầy chùa
đít đỏ (Megalaima
lagrandieri), đuôi cụt bụng
vàng (Pitta ellioti), chim mào
đen (Melanochlora sultanea),
chim chạch má xám
(Macronous gularis),

Sự phong phú về chim ở khu
vực Vườn quốc gia Bạch Mã
được thể hiện rõ nét trong các
chủng quần của bộ gà
(Gallifomes). Có thể nói đây
là vùng phong phú về thành
phần loài và số lượng cá thể
của các loài thuộc họ trĩ
(Phasianidae). Trong 13 loài
thuộc họ trĩ đã phát hiện có
nhiều loài đặc hữu, quí hiếm ở
khu vực và Việt Nam (trong
tổng số 12 loài trĩ hiện có ở
Việt Nam, Bạch Mã đã có 7
loài).

Trong các loài thuộc bộ gà có

4 loài đặc hữu: Gà lôi trắng
(Lophura nycthemera), gà lôi
lam màu trắng (Lophura
edwardsi), gà so gútta
(Aborophilla rufoguralis
guttata), gà so Trung Bộ
(Aborophilla merlini). Đáng
tiếc, loài gà lôi lam màu trắng
hiện nay không còn tìm thấy ở
đây nữa!

Vườn quốc gia Bạch Mã là
vùng rừng nhiệt đới phong
phú về sinh cảnh kéo theo tính
đa dạng sinh học cao. Trong
thành phần các nhóm loài sinh
vật có nhiều loài kinh tế,
nhiều loài đặc hữu và quí
hiếm. Tuy nhiên với tổng diện
tích được bảo vệ của Vườn là
22500 ha như hiện nay thì mới
chỉ chiếm một phần rất nhỏ so
với tổng diện tích toàn khu
vực. Các cánh rừng ngoài khu
vực bảo vệ của Vườn đang
chịu một sức ép khai thác khá
lớn của người dân và các tổ
chức quốc doanh. Do vậy cần
phải có kế hoạch và các dự án
cụ thể để mở rộng diện tích

của Vườn nhằm tăng khả năng
bảo tồn nội vi các loài quý
hiếm, các loài đặc hữu. Khả
năng mở rộng có thể gấp ba
lần diện tích huện có.

Nhìn trên bản đồ của thảm
thực vật rừng Thừa Thiên-Huế
thấy một thảm rừng xanh nối
liền từ Trường Sơn ra Biển
Đông và thông với các cánh
rừng của Quảng Nam và nước
bạn Lào. Đây là những thuận
lợi cho việc khôi phục, chuyển
lưu nguồn gien trong tính đa
dạng sinh học mà ở các vườn
quốc gia khác không có được.
Tuy nhiên các dải rừng này có
nhiều mảng bị chia cắt do khai
thác hoặc chiến tranh nên
không có tính thuần nhất. Để
bảo tồn và phát huy tính đa
dạng sinh học vốn có trong
khu vực, cần phải quản lý tốt,
tạo điều kiện cho rừng được
tái sinh tự nhiên, đi đôi với
tăng cường các cây bản địa
làm nguồn giống cho các dự
án trồng rừng. Đồng thời có
kế hoạch khai thác một cách

bền vững khu rừng tự nhiên
có kiểm soát. Nghĩa là chỉ
khai thác trong phạm vi năng
suất sinh học hàng năm của
rừng chứ không tàn phá vốn
tài nguyên hiện có.

Bạch mã là vùng tiểu khí hậu
á nhiệt đới của miền Trung
với những đặc trưng về lượng
mưa, về nhiệt độ, về độ ẩm
và nhiều loài sinh vật đặc hữu.
Đây cũng là vùng nằm giữa
hai trung tâm du lịch lớn Huế
và Hội An. Nếu chúng ta biết
kết hợp giữa việc bảo tồn đa
dạng sinh học với việc khai
thác tiềm năng du lịch sinh
thái của Vườn và khu vực thì
không những làm tăng giá trị
xuất khẩu tại chỗ, mà còn có
điều kiện tái tạo lại Vườn
ngày một phát triển hơn.
Muốn được như vậy, theo
chúng tôi cần phải nghiên cứu
đồng bộ về các mặt sinh học-
xã hội-kinh tế, làm cơ sở cho
việc xây dựng luận chứng và
dự án khả thi cho các hoạt
động tiếp theo.


Nhà nước cần có những
phương án giao đất giao rừng
phòng hộ cho nhân dân của 8
xã vùng đệm để họ có ý thức
và trách nhiệm trong phát
triển, trồng, quản lý và bảo vệ
rừng. Đồng thời nhờ đó mà
giảm được sức ép khai thác,
nhanh chóng phục hồi các hệ
sinh thái tự nhiên và nhân tạo
trong vành đai bảo vệ của
Vườn.

×