Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.45 KB, 5 trang )
Cổ trướng xơ gan
(Kỳ 3)
1.4. Tạo shunt: Trong những năm thập kỷ 80, tạo shunt tĩnh mạch màng
bụng (peritoneovenous shunt) trở nên rất phổ biến để điều trị cổ trướng. Biến
chứng và mất chức năng của shunt đã làm giảm sút nhiệt tình trong các ý kiến
thăm dò. Nghiên cứu của hội cựu chiến binh liên bang 1989 theo dõi 3860 người
bệnh điều trị cổ trướng cho thấy người bệnh dùng shunt không kéo dài cuộc sống
hơn những người chỉ dùng thuốc. Mặc dù kéo dài cuộc sống không lâu nhưng tạo
shunt có thể làm cho người bệnh dễ chịu hơn do giảm dịch cổ trướng.
Kaufman cho rằng ngoại khoa giữ một vai trò quan trọng trong việc điều trị
cổ trướng người ta có thể dùng kỹ thuật nối tận - bên cửa chủ làm giảm áp lực tĩnh
mạch cửa, hay dùng miếng ghép chữ H ngăn tạm Shunt bên - bên cửa chủ. Mới
đây kỹ thuật tạo shunt chuyển cửa chủ qua gan (Transfugula intrahepatic
Protosystemic Shunt: TIPS) Dưới sự quan sát của X quang. “Nhưng đáng tiếc tỷ lệ
người có hội chứng não cửa chủ quá cao sau phẫu thuật”. Vẫn là lý do chính để
người bệnh từ chối dùng shunt ngay cả với người bệnh xơ gan cổ trướng khó chữa.
1.5. Siêu lọc dịch cổ trướng ngoài cơ thể và tái truyền: tĩnh mạch anbumin
mang lại lợi ích bảo tồn protein hạ được giá thành so với truyền anbumin. Hai
kiểm nghiệm gần đây thông báo hiệu quả tương tự và khả năng kéo dài cuộc sống
của người bệnh điều trị vừa chọc hút dịch vừa truyền anbumin. Sốt và thay đổi
tính đông máu là trở ngại với người bệnh để giải quyết nên truyền lại dịch vào
màng bụng hơn vào tĩnh mạch.
1.6. Ghép gan: Có thể điều trị cổ trướng nhờ thay đổi gan đã xơ bằng một
gan bình thương. Chỉ 25% người bệnh kéo dài cuộc sống thêm một năm khi sử
dụng lợi tiểu đơn thuần, trong khi đó ghép gan có 75% người bệnh. Những người
bệnh điều trị bằng phương pháp khác không kết quả nên nghiên cứu đặt vấn đề
ghép gan cho họ.
B. XÉT NGHIỆM TẾ BÀO HỌC DỊCH CỔ TRƯỚNG
Nếu số lượng trên 500 cái/lmm
3
: có hiện tượng viêm