Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

quy trình kinh doanh và hợp đồng trong thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.08 MB, 23 trang )

Class:Kế Toán – Kiểm toán
Design:Ngô Huỳnh Trúc Linh
Team(group):
Teacher:
School:ĐH Công Nghiệp TPHCM,wed: />Lick hình bên bắt
đầu thuyết trình
Quy trình mua bán
qua mạng
Tổ chức giao hàng
và thanh toán trên
mạng
Quy trình giao
dịch trực tuyến
Lick vào
để báo cáo
Lick vào
để báo cáo
Lick vào
để báo cáo
Thông tin sau đây được sưu tầm từ trang
www.ticsoft.com
Qua từ khóa:Quy trình Giao dịch trực tuyến
Công cụ:
Qui trình thanh toán trực tuyến
bằng thẻ tín dụng
Khi bạn bán sản phẩm hoặc dịch vụ trên mạng Internet, bạn cần
cung cấp cho người mua một phương án thanh toán trực tuyến
trên mạng bên cạnh các phương án thanh toán khác.
Cách phổ biến nhất trong thanh toán trực tuyến hiện nay là sử dụng
thẻ tín dụng Credit card của các hãng Visa, Master, American
Express, JBC được các ngân hàng phát hành (Issuer). Trước hết,


nếu bạn là người bán (merchant), bạn phải tạo lập một tài khoản
bán hàng trên mạng (Internet merchant account). Tài khoản bán
hàng này bạn có thể đăng ký với Ngân hàng của bạn nếu ngân
hàng có dịch vụ này hoặc với các dịch vụ cung cấp phần mềm xử
lý quá trình thanh toán trực tuyến như Cybercash, Paymentnet,
Merchantwarehouse…Các ngân hàng hoặc nhà cung cấp dịch vụ
khi cấp cho bạn Merchant account sẽ được gọi là Acquirer, chịu
trách nhiệm xử lý thông tin thẻ trong quá trình thanh toán.
Trên website bán hàng, người bán
phải trang bị những tính năng sau:
- Shopping cart (giỏ mua hàng): có thể do nhà cung cấp dịch vụ thiết kế
website xây dựng hoặc phần mềm có sẵn bán trên mạng. Người mua hàng
khi đang xem hàng trên website có thể chọn mua sản phẩm bằng cách nhấn
nút “Buy”, mặt hàng sẽ được lưu lại trong giỏ hàng, người mua có thể chọn
nhiều mặt hàng, khi quyết định mua hàng có thể xem giỏ hàng để xem lại
các mặt hàng, thay đổi số lượng hàng, tính tiền. Để kết nối được với dịch
vụ thanh toán qua mạng, shopping cart cần được xây dựng để đạt một số
tiêu chuẩn tích hợp.
- Payment gateway: là một phần mềm dùng để xử lý việc thanh toán của thẻ tín
dụng bao gồm việc xác nhận thông tin của thẻ tín dụng là có thật và hợp lệ,
thực hiện các lệnh chuyển tiền. (công nghệ tốt sẽ hạn chế rủi ro của thẻ tín
dụng giả mạo). Hai tính năng trên của website phải được thực hiện trên
máy chủ an toàn (secure server) để đảm bảo tính bảo mật của các thông tin
về thẻ tín dụng khi nhập trên website và trong quá trình thực hiện giao dịch.
Qui trình thanh toán được thực hiện
như sau:
Người mua có thẻ tín dụng (Cardholder) khi quyết định mua hàng sẽ
nhập các thông tin về thẻ tín dụng của mình như: số thẻ, mã số an
toàn, thời hạn của thẻ, họ và tên chủ sở hữu, địa chỉ thanh toán trên
website, những thông tin này sẽ được chuyển đến cho ngân hàng hay

nhà dịch vụ cung cấp payment gateway là các Acquirer. Acquirer sẽ
gửi thông tin về thẻ tới dịch vụ cung cấp thẻ và ngân hàng phát hành
thẻ để kiểm tra tính hợp lệ của thẻ và kiểm tra khả năng thanh toán
của thẻ. Nếu mọi điều kiện đều phù hợp, ngân hàng phát hành thẻ sẽ
gửi thông tin ngược trở về cho Acquirer, thông tin được giải mã gửi
về cho người bán và việc thanh toán được thực hiện. Tiền sẽ được
chuyển từ thẻ tín dụng của người mua tới tài khoản bán hàng
merchant account trên Acquirer, sau đó sẽ được chuyển vào tài
khoản ngân hàng của người bán.
Phí cho việc thanh toán trực tuyến:
Thông thường việc mở Internet merchant account không tốn phí
- Việc sử dụng phần mềm ứng dụng payment gateway thường có phí cài đặt
ban đầu từ vài chục đến vài trăm đô la và phí duy trì hàng tháng khoảng vài
chục đô la.
- Trong mỗi giao dịch thanh toán qua mạng, các acquirer sẽ thu phí khoảng từ
1.5% đến 4% giá trị giao dịch và khoảng từ 0.3$ cho tới 0.5$ phí xác nhận
thông tin thẻ/lần giao dịch.
- Ngoài ra, nếu có sai sót trong quá trình thanh toán hoặc bị thẻ tín dụng giả,
người bán phải chịu thêm chi phí chargeback khoảng vài chục đô la.
-Việc tiến hành thanh toán qua mạng có thể tiến hành đơn giản hơn bằng cách
sử dụng dịch vụ của bên thứ ba (Third Party) chịu trách nhiệm mọi khâu
thanh toán, người bán chỉ cần liên kết phần shopping cart của mình vào
website của nhà cung cấp dịch vụ, mọi khâu từ việc nhập thông số thẻ, xử
lý thanh toán đều thực hiện tại website của nhà cung cấp dịch vụ, người
bán không cần mở merchant account, không cần sử dụng paymentgateway,
giảm được các chi phí này nhưng chi phí trên mỗi giao dịch sẽ cao hơn.
Sau đây là 1 số hình ảnh
Quy trình GD = thẻ Tín Dụng
Kết thúc thuyết

trình
Thông tin sau đây được sưu tầm từ trang
/>gia-nhap-WTO/40176866/217/
Qua từ khóa:Quy trình Bán Hàng Qua Mạng
Công cụ:
Bài viết này xin phân tích một hình thức kinh doanh theo phương thức
thương mại điện tử khá phổ biến hiện nay trên thế giới, nhưng chỉ đang
trong giai đoạn hình thành ở VN: mua bán qua mạng
Một hệ thống bán hàng trực tuyến hoàn chỉnh phải đảm bảo yêu cầu sau:
thay vì đến cơ sở của người bán, người mua có thể thực hiện tất cả các
công đoạn của việc mua hàng chỉ thông qua Internet. Nghĩa là người mua
có thể thực hiện việc xem hàng, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng, thụ
hưởng các dịch vụ sau bán hàng thông qua mạng Internet.
Xem hàng và đặt hàng
•Có thể nói thương mại điện tử VN hiện nay chỉ gồm việc thiết lập
một “showroom trên mạng” để giới thiệu về doanh nghiệp và trưng
bày các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa, dịch vụ.
•Trong một số trường hợp, các website còn thiết lập cơ chế để người
tiêu dùng có thể đặt hàng thông qua email hoặc gọi điện thoại đến
nhà cung cấp. Sau đó nhà cung cấp sẽ vận chuyển hàng hóa đến tận
tay người mua và sẽ tiến hành thanh toán. Trong qui trình giao dịch
này, việc mua bán qua mạng chỉ thể hiện ở giai đoạn xem hàng và
đặt hàng, các công đoạn khác vẫn được tiến hành theo cách thức
truyền thống.
•Trong khi các showroom trên mạng được hình thành rất rầm rộ,
thậm chí có cả những showroom để cho thuê (người lập website
không dùng nó để trưng bày các sản phẩm của mình, mà của các
doanh nghiệp khác); thì việc mua bán qua mạng lại chưa được phát
triển ở VN. Lý do của vấn đề này nằm ở chính khâu thanh toán. Có
thể nói thanh toán như là một “nút cổ chai” cản trở sự phát triển của

việc mua bán trực tuyến nói riêng và của thương mại điện tử nói
chung ở VN.
• Nhược điểm chung của các hình thức thanh toán này là không nhanh gọn, kéo dài thời
gian mua hàng và không đảm bảo mục đích mà người mua mong muốn khi mua hàng
qua mạng: tiến hành tất cả các thủ tục mua hàng tại chỗ, trên máy vi tính, nhanh gọn.
Riêng việc thanh toán qua thẻ mua hàng trả trước thì đáp ứng được các yêu cầu trên
nhưng chỉ đối với khách hàng thân thiết (những người đã mua thẻ), chưa đáp ứng được
các giao dịch của các khách hàng vãng lai, nghĩa là vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thanh toán “mọi lúc mọi nơi” của giao dịch B2C(Business to Customer - giữa doanh
nghiệp và người tiêu dùng).
• Trong khi đó, phương thức thanh toán đặc trưng nhất của thương mại điện tử là thanh
toán qua mạng thông qua mã số thẻ ngân hàng thì chưa được áp dụng tại VN. Các doanh
nghiệp bán hàng trực tuyến chưa thể mở tài khoản thu tiền thanh toán từ thẻ (merchant
account) tại các ngân hàng thương mại tại VN. Người tiêu dùng chưa thể sử dụng thẻ tín
dụng để thanh toán cho các sản phẩm mua tại những website bán hàng trong nước.
• Như vậy, việc giải tỏa những trở ngại về thanh toán qua mạng hiện nay là điều kiện thiết
yếu giúp thương mại điện tử nói chung và việc mua bán qua mạng nói riêng ở VN phát
triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này dần quen với phương thức
kinh doanh mới để có đủ sức cạnh tranh khi các hàng rào hoàn toàn bị xóa bỏ theo qui
định của WTO.
• Nếu như các ngân hàng không triển khai phương thức thanh toán mới ngay từ bây giờ,
thì đến lúc các hàng rào pháp lý đối với ngân hàng nước ngoài được dỡ bỏ hoàn toàn,
chính các ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn để cạnh tranh trong việc kinh doanh
các dịch vụ thanh toán.
Thanh toán
• Một trong những ưu thế của mua bán trực tuyến là giúp người tiêu dùng có thể dễ
dàng và nhanh chóng mua một món hàng không có ở địa phương mình với chi phí
rẻ. Tuy nhiên, lợi thế này chỉ đạt được khi hệ thống vận chuyển có chất lượng phục
vụ tốt và có mức phí cạnh tranh.
• Hiện nay, hầu như chỉ có Tổng công ty Bưu chính viễn thông (VNPT) mới có thể

đảm nhận việc vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng (giao dịch B2C hay
C2C) và là nhà vận chuyển duy nhất có mạng lưới rộng khắp cả nước. Ngoài ra,
Tổng công ty Đường sắt VN cũng có thể đảm nhận điều này nhưng chất lượng dịch
vụ trong lĩnh vực này có vẻ như chưa được quan tâm, và hơn nữa do tính đặc thù
nên khó có thể đảm nhận các yêu cầu của giao dịch B2C hay C2C.
• Ngoài phí vận chuyển chưa được cạnh tranh, chất lượng vận chuyển cũng chưa
được đảm bảo. Cả VNPT và Tổng công ty Đường sắt VN đều yêu cầu người gửi
phải cam kết là “hàng vỡ không khiếu nại” trước khi chấp nhận vận chuyển một
mặt hàng dễ vỡ.
• Tuy nhiên, với việc gia nhập thị trường của DHL mới đây (việc thực thi đầu tiên
các cam kết WTO của VN), ngành mua bán qua mạng đang hi vọng một sự cải
thiện trong lĩnh vực này trong tương lai gần. Trong tương lai xa, trong vòng năm
năm sau khi gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập liên doanh
nhưng với vốn góp hạn chế ở mức 51%; năm năm sau khi gia nhập cho phép thành
lập công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, đã đến lúc VNPT nên nhìn lại
chất lượng phục vụ của mình nếu không muốn mình đứng ngoài cuộc chơi mua bán
hàng qua mạng.
Vận chuyển
• Phương thức thanh toán và mua hàng qua
mạng có ưu thế là khách hàng có thể mua món
hàng không có ở địa phương mình nhanh
chóng.
• Nhưng bên cạnh đó cũng có mặt nhược điểm
thời gian nhận hàng phụ thuộc vào hệ thống
vận chuyển của nhà cung cấp dịch vụ.
Kết Luận
Sau đây là 1 số hình ảnh trang wed
buôn bán qua mạng
Kết thúc thuyết
trình

Thông tin sau đây được sưu tầm từ trang
/>Qua từ khóa:Quy trình Bán Hàng Qua Mạng
Công cụ:
• Trong thanh toán B2C qua mạng, đại đa số người mua dùng thẻ tín dụng để
thanh toán. Thẻ tín dụng là loại thẻ Visa, MasterCard có tính quốc tế, chủ
thẻ có thể dùng được trên toàn cầu. Tên gọi là tín dụng vì chủ thẻ dùng
trước tiền của ngân hàng để chi trả, đến cuối tháng chủ thẻ mới phải thanh
toán lại cho ngân hàng.
• Ở Việt Nam, cá nhân hay tổ chức có thể đăng ký làm thẻ tín dụng với các
ngân hàng như ACB, Vietcombank Trên thẻ có các thông số sau: hình chủ
sở hữu thẻ, họ và tên chủ sở hữu thẻ, số thẻ (Visa Electron và MasterCard
đều có 16 chữ số), thời hạn của thẻ, mặt sau thẻ có dòng số an toàn
(security code) tối thiểu là ba chữ số, và một số thông số khác cùng với các
chip điện tử hoặc vạch từ (magnetic stripe). Chủ thẻ cũng được cung cấp
PIN Code (Personal Information Number – Mã số cá nhân) để khi rút tiền
từ máy, chủ thẻ phải nhập đúng PIN Code này thì máy mới xử lý yêu cầu
rút tiền.
Thanh toán Hàng Qua mạng
Thanh toán Hàng Qua mạng
Trong thanh toán trực tuyến, chủ sở hữu thẻ không cần quét thẻ cũng như không cần cung
cấp thông tin về PIN Code. Vậy làm sao để đảm bảo an toàn cho chủ thẻ không bị người
khác sử dụng trái phép thẻ của mình? Một thông số khác có thể được sử dụng bổ sung: thông
tin về địa chỉ nhận hóa đơn thanh toán việc sử dụng thẻ do ngân hàng gửi cho chủ thẻ.
Những thông tin về thẻ tín dụng người mua phải khai báo khi thực hiện việc mua qua mạng
gồm:
Số thẻ (16 chữ số được in trên mặt trước thẻ)
Họ tên chủ sở hữu in trên thẻ
Thời hạn hết hạn của thẻ, cũng in trên mặt trước thẻ
Mã số an toàn (security code) là ba chữ số cuối cùng in trên mặt sau của thẻ.
Thông số này không bắt buộc phải cung cấp, tùy website có yêu cầu hay không.

Địa chỉ nhận hóa đơn thanh toán việc sử dụng thẻ do ngân hàng gửi cho chủ thẻ.
Thông số này cũng không bắt buộc phải cung cấp, tùy website có yêu cầu hay không.
Hiện giao thức thanh toán qua mạng được sử dụng là SET (Secure Electronic Transaction –
Giao dịch điện tử an toàn) do Visa và Master Card phát triển năm 1996.
Người mua đặt lệnh mua trên website của người bán sau khi đã chọn hàng hóa. Sau đó người mua khai
báo thông tin thẻ tín dụng của mình.
Thông tin thẻ tín dụng của người mua được chuyển thẳng đến ngân hàng của người bán (trong trường
hợp người bán có Merchant Account – xem giải thích bên dưới) hoặc chuyển thẳng đến nhà cung
cấp dịch vụ xử lý thanh toán qua mạng (gọi là Third Party – Bên thứ ba, xem giải thích bên dưới)
mà người bán đã chọn. Thông tin thẻ tín dụng không được lưu trên server của người bán, do đó,
hạn chế khả năng bị hacker đánh cắp thông tin.
Ngân hàng của người bán hoặc Bên thứ ba này sẽ kiểm tra tính hợp lệ của thẻ với ngân hàng nơi phát
hành thẻ, thông qua giao thức SET. Việc kiểm tra này được thực hiện tự động rất nhanh, trong
vòng vài giây.
Ngân hàng phát hành thẻ sẽ phản hồi (được mã hóa theo quy định) cho ngân hàng của người bán hoặc
bên thứ ba về tính hợp lệ của thẻ.
Sau đó thông tin này được giải mã và gửi về cho người bán.
Người bán dựa trên thông tin phản hồi này quyết định bán hay không bán. Nếu bán thì sẽ gửi email xác
nhận cũng như hóa đơn và các văn bản cần thiết khác cho người mua, đồng thời xử lý đơn hàng.
Nếu không bán thì giao dịch coi như kết thúc, người bán cũng gửi thông điệp cho người mua, nêu
rõ lý do không bán.
Giải thích quy trình
Sự khác biệt giữa người bán có
Merchant Account và không có
•Người bán có Merchant Account: việc xin được Merchant Account
không phải dễ dàng, đòi hỏi người bán phải đa phần phải là ở Mỹ,
phải có ký quỹ cho ngân hàng, phải có bằng chứng đảm bảo uy tín
kinh doanh trên mạng vì trường hợp này họ được truy cập trực
tiếp vào cơ sở dữ liệu của các ngân hàng để kiểm tra tính hợp lệ
của thẻ.

•Người bán không có Merchant Account: không phải người bán
nào cũng có thể xin được Merchant Account, nhưng nhu cầu bán
hàng qua mạng thì rất cao, từ đó có nhiều công ty xin Merchant
Account để cung cấp dịch vụ xử lý thanh toán qua mạng cho các
doanh nghiệp khác. Những công ty này được gọi là Third Party
(Bên thứ ba) hoặc Online Payment Processor (Nhà xử lý thanh
toán qua mạng).
Rủi ro trong thanh toán qua mạng
Nếu người mua dùng thẻ tín dụng của người khác trái
phép để mua hàng qua mạng, khi chủ thẻ phát hiện và khởi
kiện với ngân hàng phát hành thẻ và đưa ra bằng chứng mình
không hề thực hiện giao dịch đó, thì thiệt hại cuối cùng thuộc
về người bán. Người bán không những không được thu tiền
mà còn bị mất từ 10 – 30 dollar Mỹ cho chi phí “điều tra”, chi
phí này được gọi là phí charge-back, thường được nêu rõ
trong mục điều khoản khi người bán xin Merchant Account
hoặc mua dịch vụ của Third Party.
Tỷ lệ gian lận thẻ tín dụng ngày càng giảm vì công
nghệ xử lý thanh toán qua mạng ngày càng tiến bộ hơn. Đây
là điều rất tốt củng cố lòng tin của người mua hàng qua mạng
trong TMĐT B2C.
Kết Luận
Việc mua bán qua mạng cần tiến hành theo các bước sau:
1. Khách hàng vào trang web bán hàng trên mạng đặt mua và khai
báo thông tin trên thẻ tín dụng.
2. Thông tin của khách hàng được chuyển thẳng đến ngân hàng của
người bán nếu người bán có TKBH (Merchant Account), nếu không thì
thông tin này được chuyển đến bên thứ 3 (Third Party) là nhà cung cấp
dịch vụ xử lý thanh toán qua mạng mà người bán đã đăng ký dùng dịch
vụ. Thông tin của khách hàng không lưu trên máy chủ của người bán.

Như vậy sẽ hạn chế tin tặc (hacker) đánh cắp thông tin thẻ tín dụng.
3. Ngân hàng của người bán hoặc của bên thứ 3 sẽ kiểm tra tính hợp
lệ thông tin thẻ tín dụng của khách hàng thông qua Giao dịch điện tử An
Toàn (Secure Electronic Transaction). Quá trình này diễn ra chỉ mất vài
giây.
4. Ngân hàng phát hành thẻ sẽ phản hồi cho ngân hàng yêu cầu kiểm
tra tính hợp lệ của thẻ (thông tin đã được mã hóa).
5. Sau đó thông tin này được giải mã để gửi về cho người bán.
6. Người bán dựa trên thông tin này quyết định bán hoặc không và gởi
email thông báo cho khách hàng biết rõ đơn hàng của họ có được chấp
nhận và xử lý hay không.
7. Doanh nghiệp bán hàng gửi hoá đơn thanh toán đến cho người
mua và giao hàng.

×