Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Quản trị công ty - yêu cầu của doanh nghiệp đương đại! pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.78 KB, 31 trang )

Quản trị công ty - yêu cầu của doanh
nghiệp đương đại!

Bài viết giới thiệu về Quản trị công ty (QTCT) cũng như quan
điểm tiếp cận vấn đề này, từ đó phân tích ý nghĩa và tầm
quan trọng của QTCT đối với doanh nghiệp và nền kinh tế.
Phân tích cho thấy việc xây dựng và phát triển hệ thống
QTCT tại Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập là cần thiết và
cấp bách. Dựa trên những tiền đề hiện có và đặc thù của nền
kinh tế, chúng ta có thể triển khai các nghiên cứu cụ thể ở
từng khía cạnh của QTCT tại Việt Nam. Những nghiên cứu
này cũng góp phần hoàn thiện các định chế quản trị trong
nước cũng như đóng góp vào kho tri thức của thế giới.

1. Giới thiệu

Trong 10 năm qua, kinh tế Việt Nam duy trì tăng trưởng với tốc
độ cao. Với vai trò là thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế
Giới (WTO) từ đầu năm 2007, chúng ta càng phải thúc đẩy việc
cải tổ và phát triển kinh tế theo hướng thị trường. Sự phát triển
này đòi hỏi sự tập trung nhiều hơn vào hiệu quả hoạt động của
khối doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp sản xuất ra những sản
phẩm và dịch vụ khác nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
và ngoài nước và tăng cường chất lượng cuộc sống. Hơn thế
nữa, kinh tế tăng trưởng cũng thay đổi cách phân bổ quyền kiểm
soát nguồn lực của nền kinh tế. Đặc biệt là quá trình cổ phần hoá
và cải tổ hệ thống đã làm biến đổi cách các doanh nghiệp kiểm
soát tài nguyên kinh tế và vận hành. Những thay đổi này thể hiện
ở hình thức sở hữu, cơ cấu đầu tư, chính sách quản trị hành
chính và nhân sự.


Quá trình cổ phần hóa và sự phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian vừa qua bộc lộ nhiều vấn đề liên
quan đến QTCT. Báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank,
2006) về QTCT tại Việt Nam cho thấy chúng ta chưa tuân thủ các
nguyên tắc QTCT của thế giới, còn nhiều lỗ hổng từ khuôn khổ
pháp lý cho đến cách vận hành của doanh nghiệp. Báo cáo của
Chương Trình Phát Triển Mê Kông về tình hình QTCT tại các
doanh nghiệp Việt Nam (MPDF, 2006) cho thấy có nhiều vấn đề
nghiêm trọng trong QTCT tại Việt Nam. Sự khác biệt giữa tuân
thủ luật pháp và thực thi trong thực tế, hệ thống kiểm soát nội bộ
yếu, các chính sách bảo vệ cổ đông nhỏ chưa rõ ràng, thiếu cơ
chế công bố thông tin minh bạch. Đặc biệt là thiếu nhiều khuôn
khổ luật pháp để hướng dẫn và kiểm soát cũng như vấn đề cơ
chế thực thi luật pháp và quyền sở hữu (những nghiên cứu này
thực hiện trước khi Luật Doanh Nghiệp và Luật Chứng Khoán có
hiệu lực). Ngoài ra, các dịch vụ quan trọng như kế toán, kiểm
toán, ngân hàng và hệ thống luật pháp vẫn còn nhiều hạn chế để
có thể hoà nhập với môi trường mới (ADB, 2007).

Báo chí gần đây đăng nhiều vấn đề của thị trường chứng khoán
với những tiêu đề lớn như giao dịch nội gián, công ty niêm yết
chưa hiểu rõ về công bố thông tin, phương án phát hành cổ phần
của các công ty niêm yết, hạn chế tín dụng đầu tư chứng khoán
v.v. Những thông tin này khiến nhiều nhà đầu tư phân vân và đã
gây ra tranh cãi. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, các nhà
đầu tư bên ngoài khó có thể thẩm định cơ hội đầu tư của mình
cũng như những hành động của người bên trong. Cần có những
công cụ mà xã hội có thể sử dụng để đảm bảo rằng các doanh
nghiệp vận hành hiệu quả qua đó các nhà đầu tư và nhà tài trợ
có thể hoàn toàn yên tâm đầu nguồn lực và nỗ lực của mình vào

doanh nghiệp. Với một hệ thống công bình và minh bạch, QTCT
có thể tạo ra những lá chắn cho những hành vi gian lận, đồng
thời thu hút niềm tin và nguồn vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài.

Mục tiêu của bài viết là tổng hợp và phân tích vai trò của QTCT
đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như nền kinh
tế nói chung. Đặc biệt là vai trò QTCT trong nền kinh tế hội nhập
của Việt Nam hiện nay. Các phần 2,3, và 4 sẽ giới thiệu về
QTCT, các quan điểm tiếp cận và những thành tựu nghiên cứu từ
đó phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của QTCT đối với doanh
nghiệp và nền kinh tế hội nhập. Phần 5 và 6 tập trung phân tích
khả năng thực hiện cũng như nhu cầu cấp bách cần phải xây
dựng hệ thống QTCT tại Việt Nam. Baì viết kết thúc với những
câu hỏi đặt ra cho các nhà nghiên cứ có thể tiếp tục triển khai để
xây dựng và hoàn thiện QTCT tại Việt Nam.

2. Các quan điểm tiếp cận và định nghĩa

Trước hết, cần phân biệt rõ khái niệm quản trị công ty (Corporate
governance) và Quản trị kinh doanh (Business Management).

Quản trị kinh doanh là công tác điều hành quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện.
Còn QTCT là quá trình tác động của cổ đông tới hoạt động của
toàn công ty nhằm đảm bảo quyền lợi của của mình và xã hội.
Rộng hơn, QTCT phát triển đến quyền lợi của những người liên
quan (stakeholders) không chỉ là cổ đông mà còn là nhân viên,
khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước.
Vì thế, theo quy chế QTCT của Bộ Tài Chính mới ban hành vào
tháng 3 năm 2007, QTCT được định nghĩa là "hệ thống các quy

tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng điều hành và được
kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và
những người liên quan đến công ty"

Về mặt lịch sử, từ thế kỷ 18, vấn đề tách rời sở hữu và quản lý
doanh nghiệp đã được Adam Smith ghi nhận trong tác phẩm của
mình "các quản trị gia, với vai trò là người quản lý tiền của người
khác, không thể kỳ vọng rằng họ sẽ quan tâm đến số tiền này
như người chủ thực sự của nó". Doanh nghiệp còn được xem là
"nỗ lực nhóm" của những người sở hữu các nguồn lực mà doanh
nghiệp cần (Alchian, Demsetz, 1972), nguồn lực có thể là vốn, lao
động và tri thức. Vì vậy việc phân bổ sự gánh chịu các chi phí và
hưởng thành quả của doanh nghiệp phải công bằng. Hơn nữa,
mô hình doanh nghiệp hiện đại là những công ty cổ phần trong đó
có rất nhiều cổ đông nhỏ và phân tán, cấu trúc này càng dễ dàng
nảy sinh mâu thuẫn giữa người sở hữu và quản lý các nguồn lực
(Berle 1933). Những vấn đế này phát sinh chi phí mà Jensen gọi
là "chi phí đại diện" và đòi hỏi cần có các hợp đồng giữa người
chủ và người đại diện để giải quyết (Jensen 1976,1983). Lý
thuyết người đại diện ra đời từ đó. Trong điều kiện thông tin bất
cân xứng mối quan hệ này lại càng trở nên phức tạp và khó kiểm
soát hơn.

Theo quan điểm về phát triển kinh tế quốc gia, QTCT được định
nghĩa là "cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và xã hội cũng như giữa
mục tiêu cá nhân và cộng đồng" (Cadbury report, 1992). Bởi vậy,
khuôn khổ QTCT khuyến khích sử dụng hiệu quả tài nguyên đồng
thời đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội khi sử dụng tài
nguyên. Theo quan điểm tài chính, Shleifer xem QTCT liên quan
đến "cách các nhà cung cấp tài chính đảm bảo có thể thu lợi từ

đầu tư của mình" (Shleifer 1997, trang 737). Quan điểm này liên
quan đến vấn đề người đại diện giữa những người bên trong và
những nhà tài trợ bên ngoài. Mối quan hệ này chịu ảnh hưởng
của các yếu tố luật pháp và kinh tế, đặc biệt là tác động của cổ
đông lớn (các tổ chức hoặc Nhà nước) đến hiệu quả doanh
nghiệp.

Theo quan điểm đạo đức, QTCT được xem là những quy tắc tự
nguyện trong hành xử của người quản lý doanh nghiệp cần phải
tuân thủ. Những quy tắc này bao gồm kỳ vọng và quy định cụ thể
hơn những yêu cầu của pháp luật, của nghề nghiệp và thị trường
vốn đã có.

Các quan điểm khác lại xem xét ở đặc tính và cấu trúc của
QTCT. QTCT được xem là cơ chế thúc đẩy công bằng, minh
bạch và tín nhiệm. Cấu trúc QTCT cụ thể hoá việc phân phối
quyền và trách nhiệm của hội đồng quản trị (HĐQT), người quản
lý, cổ đông và những người liên quan, trong đó chỉ rõ quy định và
quy trình ra quyết định về các vấn đề của doanh nghiệp. (OECD,
2004). Những đặc tính này thể hiện qua các văn bản luật và điều
lệ doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với cấu trúc sở hữu ngày càng đa
dạng nảy sinh thêm vấn đề quan hệ giữa hội đồng quản trị và các
cổ đông nhỏ. Những cổ đông có quyền kiểm soát có thể thao
túng doanh nghiệp để đạt mục tiêu của mình và gây thiệt hại đến
các cổ đông khác. QTCT cũng được xem là phản ứng chiến lược
của tổ chức với rủi ro. Cụ thể hơn, QTCT tạo ra cấu trúc để
doanh nghiệp xây dựng mục tiêu và cách thức đạt những mục
tiêu này, kiểm soát thành quả đồng thời khuyến khích sử dụng tài
nguyên một cách hiệu quả.


Nhiều định nghĩa khác nhau là do quan điểm và hoàn cảnh từng
định chế và quốc gia đối diện với vấn đề này. Tuy nhiên, nếu nhìn
ở các định nghĩa này, chúng ta thấy có những điểm chung nhất
đó là những mối quan hệ quản lý trung thực để tạo ra thành quả
bền vững cho doanh nghiệp và xã hội.

3. Những thành tựu nghiên cứu

Có 2 vấn đề lớn trong các công ty đại chúng hiện đại là các cổ
đông nhỏ thường quá nhỏ bé và thiếu kiến thức để kiểm soát
hoạt động hằng ngày doanh nghiệp. Mặt khác kiểm soát là hàng
hoá công cộng, kiểm soát tốn kém chi phí nhưng người hưởng lợi
là tất cả vì thế cổ đông nhỏ không có động lực kiểm soát doanh
nghiệp (Oliver Hart, 1995). Hart cũng khẳng định kết luận của
Jensen (1976) là mặc dù chi phí đại diện có tồn tại trong các
doanh nghiệp hiện đại nhưng cổ đông vẫn chấp nhận chi phí này.
Do sự tách rời sở hữu và quản lý cũng như thiếu các cơ chế kiểm
soát, người quản lý của các công ty đại chúng có thể theo đuổi
mục tiêu của mình mà người phải trả giá lại là các cổ đông.
Người quản lý đầu tư vào những dự án an toàn cho mình, hưởng
thụ cuộc sống bằng chi phí của doanh nghiệp, và tạo ra những
rào cản để bảo vệ mình. Tất cả những hành động này không
mang lại lợi ích tối ưu cho người chủ thực sự của doanh nghiệp.

Thông qua khảo sát và so sánh các mô hình QTCT của nhiều
quốc gia, Shleifer và cộng cự (1997) đặt ra nhiều vấn đề cho các
nghiên cứu về QTCT bao gồm vai trò và động lực của người
quản lý cấp cao với giá trị của doanh nghiệp, tác động của thể
chế và luật pháp, cơ chế sở hữu tập trung và tác động của cổ
đông tổ chức. Nghiên cứu về lịch sử QTCT cũng như các đặc

tính và những khác biệt giữa các mô hình, Morck (2005) tìm ra
những yếu tố tác động đến sự khác biệt của QTCT đó là:

* hệ tư tưởng,
* mô hình gia đình trị,
* vai trò của tập đoàn,
* các vấn đề pháp luật,
* sự phát triển của thị trường tài chính, và chính trị.

Về khía cạnh tài chính và khuôn khổ pháp lý, báo cáo Cadbury
(1992) là bản phân tích tổng hợp về QTCT đồng thời nêu lên các
khuôn khổ và quy định trong hệ thống báo cáo kế toán, tài chính,
kiểm toán, vai trò của HĐQT, và đặc biệt là các "quy tắc hành xử"
về QTCT để các doanh nghiệp sử dụng hoàn thiện mình. Ngân
Hàng Thế Giới, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD)
và các Ngân hàng khu vực đã thành lập các trung tâm và tiến
hành nhiều chương trình nghiên cứu về QTCT trong nhiều năm
qua. Từ năm 1999, OECD đã đưa ra các nguyên tắc QTCT và
dùng để làm chuẩn đánh giá mức độ tuân thủ các tiêu chí này
của các quốc gia trong tổ chức. Những nguyên tắc này đã được
sửa đổi và bổ sung trong phiên bản mới năm 2004. Ngân Hàng
Thế Giới đã dùng những nguyên tắc này để thực hiện các đánh
giá tình hình tuân thủ nguyên tắc của các nước để cung cấp
thông tin cho nhà đầu tư, năm 2006 đã có một nghiên cứu về
QTCT ở Việt Nam.

Khủng hoảng kinh tế Châu Á vào cuối thế kỷ 20 đã đẩy quá trình
nghiên cứu về QTCT đi xa hơn. Một trong những bài học từ
khủng hoảng là QTCT yếu kém và không hiệu quả có thể tạo ra
những khoản nợ lớn cho từng doanh nghiệp nói chung và cho cả

xã hội nói riêng. Các nhà kinh tế Thái Lan cho rằng, những sai
lầm trong QTCT cũng nguy hiểm giống như những cú sốc kinh tế
vĩ mô khác. Họ cũng kết luận rằng khủng hoảng kinh tế Châu Á
vừa qua chỉ có thể được giải quyết một cách triệt để và bền vững
nếu chính phủ và khối doanh nghiệp cùng bắt tay hợp tác. Cho
dù một nền kinh tế mạnh nhưng thiếu các cơ chế kiểm soát minh
bạch, quyền lợi của cổ đông cũng như trách nhiệm của các thành
viên quản trị không rõ ràng thì có thể dễ dàng sụp đổ nhanh
chóng nếu lòng tin của nhà đầu tư mất đi (Charles, 2001, 2003).
Những vụ bê bối tài chính ở Hoa Kỳ vào năm 2001 (trường hợp
Enron) là đỉnh điểm cho những mối quan ngại của giới nghiên
cứu về QTCT.

Tại các nước, các vấn đề liên quan đến QTCT cũng phát sinh từ
quá trình cổ phần hoá (tư nhân hoá). Việc tạo ra một cấu trúc
quản trị tốt sẽ là cơ sở để quá trình cổ phần hoá thành công.
Những quy định không rõ ràng và thiếu minh bạch đã dẫn đến
những hành vi cải tổ thiếu nghiêm túc. Không những thế, ngay cả
tại các công ty toàn cầu hiện nay, chủ để QTCT được đặt ra như
là cơ chế đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Tại Nga, Trung Quốc và các nước Đông Âu, chủ đề cải tổ doanh
nghiệp và QTCT được nghiên cứu rất nhiều. Đặc biệt là các
nghiên cứu tại Trung Quốc về vai trò của Doanh nghiệp nhà nước
và quá trình cổ phần hoá. Nghiên cứu cho thấy thành công của
cải tổ doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng để tạo ra
tương lai thịnh vượng tại Trung Quốc (Hovey, 2007). Tuy nhiên
quá trình này cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề cần giải quyết liên quan
đến thất nghiệp và công bằng xã hội. Nghiên cứu này cũng đề
nghị quá trình cải tổ DNNN nên đa dạng hoá sở hữu thông qua

đấu giá cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược cả trong nước và
ngoài nước, các quỹ tương trợ, quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm xã hội
(quỹ lương hưu) và các cổ đông nhỏ khác. Khi cổ phần hoá vì,
những ưu đãi về nguồn lực đầu vào không còn nữa thì doanh
nghiệp mất đi lợi thế quan trọng nhất của mình, liệu là các doanh
nghiệp này có thể tiếp tục dựa trên tiền đề này không.

Hiện nay, các nghiên cứu về QTCT tập trung vào các chủ đề như
vấn đề người đại diện và vấn đề thao túng của HĐQT, cấu trúc
sở hữu, cải tổ doanh nghiệp nhà nước, lương bổng người quản
lý, vai trò của HĐQT và quản trị viên độc lập, cơ chế bảo vệ nhà
đầu tư, tương quan QTCT và hiệu quả doanh nghiệp, khuôn khổ
pháp lý QTCT, những đặc thù về QTCT tại các nước có nền kinh
tế chuyển đổi v.v.

Chúng ta đã có những động thái mới về vấn đề này, mới đây Bộ
tài chính đã ra quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 về
việc ban hành Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết
trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán. Gần đây nhất là Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày
18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán. Điều này cho thấy các vấn đề đã phát sinh và
khẳng định sự thừa nhận và cam kết giải quyết các vướng mắc
QTCT của Chính phủ. Hiện nay, Luật Doanh Nghiệp và Luật
Chứng Khoán là hai cơ sở pháp lý cơ bản nhất, ngoài ra còn có
các văn bản dưới luật do các Bộ ngành ban hành.

Ở khía cạnh doanh nghiệp, Điều Lệ và quy chế hoạt động là cơ
sở của việc xử lý các vấn đề liên quan. Về hình thức, chúng ta đã
có những khuôn khổ cho vấn đề này, tuy nhiên về mặt nội dung

và thực thi chưa được rõ ràng. Chính vì thế, trong bản báo cáo
đánh giá của Ngân Hàng Thế Giới, chúng ta đều chưa được tuân
thủ nguyện tắc của OECD. Hơn nữa, hiện tại, rất ít có các nghiên
cứu thực chứng về các chủ đề của QTCT được thực hiện và
công bố ở Việt Nam. Các vấn đề chỉ được báo chí nêu và phân
tích dưới khía cạnh chủ quan của người làm báo và thiếu các
bằng chứng nghiên cứu.

4. Ý nghĩa và tầm quan trọng của quản trị công ty trong nền
kinh tế toàn cầu.

Trong thế giới toàn cầu, các doanh nghiệp và các quốc gia có hệ
thống QTCT yếu thường sẽ gánh chịu những hậu quả những vụ
bê bối tài chính và khủng hoảng (Sullivan, 2003). Các nghiên cứu
cho thấy cách mà doanh nghiệp quản lý, thể hiện qua QTCT,
quyết định rất lớn đến số phận của từng công ty và cả nền kinh tế
trong thời đại toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá và tự do hoá thị trường
tài chính mở ra những thị trường mới báo hiệu những cơ hội lợi
nhuận đáng kể. Nhưng nó cũng đưa doanh nghiệp đến những
cuộc cạnh tranh khốc liệt và những biến động khôn lường trong
thị trường tài chính.

Các doanh nghiệp đều biết rằng để có thể mở rộng hoạt động và
cạnh tranh quốc tế, chúng ta cần những nguồn lực khác với cách
truyền thống chúng ta tiếp cận. Không thu hút được những nguồn
lực phù hợp sẽ đe doạ sự tồn vong của doanh nghiệp và có thể
gây hậu quả lan truyền cho cả nền kinh tế. Thiếu vốn (vốn tài
chính, vốn nhân lực, vốn tri thức) làm giảm khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, không tạo ra việc làm và khó có thể đạt được
các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác từ đó dẫn đến đói nghèo. Nếu

doanh nghiệp không thu hút được nguồn lực này sẽ chịu rủi ro trở
thành tài sản của tập đoàn đa quốc gia, nguy hiểm hơn là không
thể tồn tại trong thị trường cạnh tranh toàn cầu, và toàn bộ nền
kinh tế không thể hưởng lợi từ toàn cầu hoá.

Tham nhũng và quản lý yếu kém đã kích hoạt cho các cuộc
khủng hoảng tài chính và nó đã tiêu tốn hàng tỷ Dollar của nhà
đầu tư cũng như phá hoại năng lực tài chính của doanh nghiệp
và nền kinh tế. Các nhà đầu tư trước khi cam kết đầu tư họ yêu
cầu những bằng chứng tuân thủ các nguyên tắc kinh doanh minh
bạch và giảm thiểu khả năng gây ra tham nhũng hoặc lũng đoạn.
Hơn thế nữa, các nhà đầu tư mong muốn có thể phân tích và so
sánh các cơ hội đầu tư tiềm năng từ những chuẩn mực chung.
Thực vậy, một doanh nghiệp uy tín không chỉ có thể tự tin trước
những yêu cầu ngặt nghèo của các nhà đầu tư quốc tế mà còn là
điều kiện để tiếp thị quốc tế, đó là nền tảng cho sự phát triển
phồn vinh của doanh nghiệp và đất nước.

Nói tóm lại, các nhà đầu tư dù là trong nước hay bên ngoài luôn
tìm kiếm các doanh nghiệp có cấu trúc QTCT tốt. QTCT là cơ sở
của "luật chơi" trong đó các doanh nghiệp được quản lý nội bộ và
được giám sát bởi HĐQT nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể
tài trợ nguồn lực cho doanh nghiệp. Điều đó thể hiện qua những
biểu hiện công khai và minh bạch. Chính phủ cần phải minh bạch
và dân chủ để người dân có thể đánh giá liệu là quyền lợi có thực
sự được tôn trọng và phục vụ. Doanh nghiệp cũng cần có những
cách thức minh bạch và dân chủ để người chủ sở hữu nguồn lực
doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định sáng suốt về cơ
hội đầu tư của mình.


5. QTCT có thể giúp doanh nghiệp và nền kinh tế không?

Yếu tố quyết định người ta tham gia vào tổ chức thông qua đầu
tư nguồn lực và niềm tin là sẽ họ sẽ nhận được những phần
thưởng công bằng từ doanh nghiệp. Nếu có sự bất công bằng
trong việc phân chia chi phí và lợi ích thì họ sẽ mất niềm tin và
không tiếp tục tham gia vào doanh nghiệp. Khi niềm tin mất đi,
doanh nghiệp có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Tại châu Á, các nghiên cứu cho thấy có nhiều điều chưa rõ ràng
về công khai minh bạch liên quan đến quan hệ giữa chính phủ và
doanh nghiệp, giữa chủ nợ và chủ doanh nghiệp, và các chế tài
luật pháp liên quan đến phá sản doanh nghiệp và chủ nghĩa tư
bản thân hữu (Sullivan, 2003). Các vấn đề định giá tài sản doanh
nghiệp cổ phần hoá, giao dịch nội gián, và những gian lận tại thị
trường chứng khoán vừa qua thể hiện những khiếm khuyết trong
cơ chế kiểm soát. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, nhóm
người nội bộ dễ dàng có được những lợi thế cho mình nhưng
người trả giá lại là các cổ đông nhỏ và xã hội. Các vấn đề này có
một điểm chung đó là nó liên quan đến những nguyên tắc cơ bản
của nền kinh tế và mối tương quan giữa những nguyên tắc này
và cách các doanh nghiệp tổ chức quản lý.

Thực vậy, QTCT giúp doanh nghiệp và nền kinh tế thu hút vốn
đầu tư và tăng cường nền tảng cho hoạt động kinh tế và năng lực
cạnh tranh dài hạn. Thứ nhất yêu cầu tính minh bạch trong các
giao dịch, kế toán và kiểm toán, mua hàng, v.v. sẽ giúp giải quyết
vấn đề "cung" của tham nhũng. Tham nhũng làm bòn rút tài
nguyên của doanh nghiệp, xói mòn năng lực cạnh tranh và xua
đuổi nhà đầu tư. Những yêu cầu minh bạch trên có thể giảm thiểu

cơ hội cho tham nhũng phát sinh.

Thứ hai, quy trình QTCT cải thiện vấn đề quản lý của doanh
nghiệp bằng cách giúp các quản trị viên và HĐQT xây dựng
những chiến lược tốt và đảm bảo các giao dịch mua bán (cả mua
bán doanh nghiệp) được thực hiện dựa trên những lý do chính
đáng, hệ thống đãi ngộ phản ảnh đúng thành quả công việc, tạo
động lực làm việc.

Thứ ba, ngay cả ở những quốc gia mà hoạt động niêm yết và thị
trường chứng khoán chưa hoạt động mạnh như Việt Nam, QTCT
tốt giúp ngăn ngừa các khủng hoảng hệ thống ngân hàng bằng
cách tiếp nhận những chuẩn mực về minh bạch trong các quan
hệ với các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng. Các quy trình phá sản
doanh nghiệp cũng đảm bảo rằng có các phương pháp giải quyết
các thất bại của doanh nghiệp cũng công bằng cho những người
liên quan, bao gồm nhân viên, chủ doanh nghiệp và các chủ nợ.
Nếu không có các quy trình phá sản doanh nghiệp, đặc biệt là hệ
thống thực thi thì khó có thể ngăn cản người bên trong thu vén tài
sản còn lại cho riêng mình.

Thứ tư, những nghiên cứu mới đây cho thấy các quốc gia có cơ
chế QTCT tốt và bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ thì cũng có thị
trường tài chính lớn mạnh và rất thanh khoản. Ở các nước có hệ
thống luật yếu thì doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào một số nhà
đầu tư chứ không phân tán. Bởi vậy, nếu muốn thu hút các nhà
đầu tư nhỏ cho dù là trong nước hay nước ngoài thì vấn đề
QTCT là mối bận tâm nhiều nhất của họ. Những nhà đầu tư này
có nguồn vốn đa dạng và mong muốn đầu tư dài hạn. Hơn thế
nữa, QTCT tăng tường niềm tin của công chúng vào tính xác

thực của quá trình cổ phần hoá, giúp đảm bảo rằng quốc gia sẽ
nhận được những điều tốt nhất từ quá trình đầu tư này, từ đó tạo
ra việc làm và giúp kinh tế tăng trưởng.

QTCT rõ ràng có lợi cho doanh nghiệp và quốc gia, và quá trình
toàn cầu hoá hiện nay lại khiến vấn đề càng trở nên cấp bách. Để
làm được điều này cả doanh nghiệp và chính phủ cần có những
thay đổi căn bản. Doanh nghiệp cần thay đổi cách vận hành,
chính phủ cần phải thiết lập và duy trì khuôn khổ định chế phù
hợp. Nếu không có luật lệ và cấu trúc ràng buộc tự nhiên, xáo
trộn sẽ xảy ra. Nếu không có những ràng buộc này, các doanh
nghiệp trở thành các nhà tư bản trên sòng bài và đầu tư của họ
chỉ là những đánh cuộc cho rủi may. Hy vọng rằng người kia sẽ
giữ lời hứa, hi vọng rằng doanh nghiệp sẽ nói thật, hi vọng rằng
nhân viên sẽ được trả lương đầy đủ, hy vọng rằng chủ nợ sẽ
được hoàn trả đều là những ước mơ. Vì thế QTCT hướng đến
thiết lập các cấu trúc qua đó cho phép mọi người có thêm tự do
trong khuôn khổ của luật pháp. Những thay đổi bao gồm tiếp
nhận những chuẩn mực quốc tế về báo cáo tài chính minh bạch,
rõ ràng và chính xác thì các nhà đầu tư mới có thể so sánh các
cơ hội đầu tư. QTCT tốt giúp giảm rủi ro, giúp thành quả hoạt
động tốt hơn, tăng khả năng tiếp cận thị trường vốn, mở rộng tiếp
thị trường hàng hoá dịch vụ, cải thiện năng lực lãnh đạo, tính
minh bạch và trách nhiệm xã hội. Các thể chế này là cơ sở để
thiết lập một thành tố quan trong nhất trong kinh doanh đó là chữ
tín.

6. Khởi đầu của một hành trình dài

Cho dù là ở quốc gia nào thì các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội

từ các doanh nghiệp để có thể hưởng lợi trong tương lai. Họ
không có thời gian và khả năng để có thể tự mình vận hành
doanh nghiệp và đảm bảo mang lại lợi ích từ đầu tư của mình. Họ
thuê những chuyên gia quản lý điều hành doanh nghiệp và giải
quyết các vấn đề hằng ngày. Điểm hạn chế của mô hình này là
người quản lý thường không phải là chủ sở hữu và vì thế họ
không gánh chịu những rủi ro mất mát cơ hội đầu tư cũng như lợi
nhuận. Những người quản lý này có thể hành động gây thiệt hại
cho giá trị đầu tư của cổ đông. Họ không thận trọng trong việc
quản lý doanh nghiệp hoặc không mạnh dạn khi thấy mình an
toàn hoặc quá liều lĩnh khi có nguy nguy cơ với mình. Họ có thể
không làm những việc có lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp mà
ngược lại bảo vệ chính mình bằng cách đầu tư vào những ngành
vận hành dễ, tham gia vào các hoạt động làm thất thoát tài sản
doanh nghiệp và các hoạt động nội gián.

Nhu cầu QTCT ở Việt Nam mở rộng xa hơn không chỉ là vấn đề
tách rời sở hữu và quản lý nói trên. Chúng ta còn có vấn đề liên
quan đến thiếu các quyền sở hữu, lạm dụng quyền của cổ đông
lớn, vi phạm hợp đồng và giao dịch nội bộ. Càng tệ hơn là những
hành động này lại chưa được phát hiện và xử phạt đầy đủ. Điều
này là bởi vì thiếu các định chế xã hội và kinh tế cần thiết để đảm
bảo cho dân chủ và thị trường phát triển.

Trong nghiên cứu mới đây của Ngân Hàng Thế Giới về QTCT ở
Việt nam. Một câu hỏi lớn đó là cơ chế thực thi luật pháp. QTCT
phụ thuộc vào hệ thống các định chế (luật, quy định, hợp đồng và

×