Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận: Tình hình chung của giáo dục đại học, giáo dục đại học ngoài công lập. Hãy phân tích về: Chương trình – Giáo trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.78 KB, 32 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA GIÁO DỤC







BỘ MÔN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
 



ĐỀ TÀI: A. Tình hình chung của giáo dục đại học
B. Giáo dục đại học ngoài công lập
Hãy phân tích về: Chương trình – Giáo trình



GVHD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Thực hiện: Nhóm 09








TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 201


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
ĐẶT VẤN Đ Ề 2
CHƯƠNG 1: KHÁI Q UÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM. 3
CHƯƠNG 2: KHÁI Q UÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH. 4
1. Chương trình đào tạo. 4
1.1. Khái niệm về chương trình đào tạo. 4
1.2. Phân loại chương trình đào tạo. 4
1.3. Yêu cầu của chuong trình đào tạo 4
2. Giáo trình đào tạo. 5
2.1. Khái niệm về giáo trình đào tạo 5
2.2. Các loại giáo trình sử dụng trong các trường đại học. 5
2.3. Yêu cầu của giáo trình đào tạo. 5
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH ĐÀO
TẠO. 7
1. Thực trạng về chương trình đào tạo hiện nay. 7
2. Thực trạng về giáo trình đào tạo hiện nay. 16
3. Kết luận. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29












1

LỜI MỞ ĐẦU
Đổi mới giáo trình và chương trình giáo dục đại học nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học và của xã hội là một trong những vấn
đề cần được quan tâm không chỉ trong hệ thống giáo dục đào tạo của nước ta mà
còn là của thế giới. Vấn đề đặt ra đối với chương trình đào tạo của từng cơ sở đào
tạo là hướng đến nhu cầu của người học, của người tuyển dụng hay vì mục tiêu chủ
quan của từng cơ sở đào tạo? Vì không thể có mục tiêu chung chung là đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Giáo dục và đào tạo phải gắn liền với thực tiễn và phải đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Do đó mục tiêu, chương trình, giáo trình, giáo dục, đào tạo phải
được xác định rõ ràng và thiết thực, nếu không thì mọi vấn đề tranh cãi về đổi mới
chương trình phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đều không
có điểm kết thúc.
Trong bài tiểu luận này, theo quan điểm của nhóm thực hiện, thì mục tiêu
chương trình đào tạo phải hướng đến nhu cầu của người học, cụ thể là phải đáp ứng
những kiến thức căn bản nền tảng tối thiểu và những kiến thức, kỹ năng thực tế, phù
hợp với yêu cầu của nghề nghiệp chuyên môn mà người học đã lựa chọn. Ngoài ra,
chương trình đào tạo cao đẳng, đại học còn phải phân ranh giới rõ ràng giữa đào tạo
“thợ” hay “thầy”, nếu là “thầy” thì “thầy phải là thầy của thợ” hoặc “thầy có thể làm
thợ khi chưa có điều kiện chưa trở thành thầy”. Yêu cầu này thiết nghĩ mọi người
đều đã và đang nghĩ tới, và có lẽ đây cũng là một hướng đi phù hợp với tâm lý
người học và thực trạng kinh tế- xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Từ những lập luận trên, đòi hỏi một giải pháp, định hướng tương lai để nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo đại học cao đẳng, là phải hiện đại hóa chương trình
đào tạo ở các bậc học, ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, song song
đó là phải đẩy mạnh xúc tiến đổi mới biên soạn giáo trình giảng dạy hoặc tối thiểu
phải đẩy mạnh biên soạn “giáo trình thực tiễn” song song với “giáo trình hàn lâm”.
Đây là nội dung mà nhóm thực hiện xin phép đặt ra và đề xuất những bước đi cụ thể
trong giải quyết vấn đề đã nêu ra.

2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục Đại học Việt Nam đã được nhà nước quan tâm đặc biệt trong những
năm gần đây, ngân hàng thế giới đã đầu tư cho giáo dục Việt Nam qua nhiều dự án
lên đến hàng trăm triệu đô la nhưng tình hình Giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay
vẫn chưa có nhiều khởi sắc.
Tại nhiều Hội thảo với chủ đề nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam,
nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những thực trạng, hạn chế: phương pháp lạc hậu,
giảng viên còn thiếu và yếu, tình trạng dạy và học không đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn…Một trong những nguyên nhân của những thực trạng trên xuất phát từ
việc xây dựng và áp dụng chương trình đào tạo chưa hiệu quả, chưa phù hợp, giáo
trình vay mượn, chắp vá không phản ánh đúng mục tiêu đào tạo và không phù hợp
với đối tượng đào tạo của từng đơn vị cụ thể. Dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về
vấn đề này, nhưng với tư cách là những người giảng viên trẻ, mới bước chân vào sự
nghiệp trồng người, nhóm nghiên cứu có những trăn trở và mong muốn thể hiện suy
nghĩ của mình về chương trình, giáo trình đào tạo đại học; những bất cập, nguyên
nhân của bất cập và đề ra những kiến giải cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả trong việc
xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Với lý do nêu trên, nhóm nghiên cứu hi vọng đề tài sẽ mang đến cái nhìn mới
mẻ, hiện đại dưới con mắt của những người trẻ làm khoa học. Những đề xuất sẽ cụ
thể và phù hợp, mang tính khả thi nhằm hạn chế những bất cập xuất phát từ chương

trình, giáo trình đào tạo đại học, đồng thời nâng cao hơn nữa việc xây dựng và áp
dụng chương trình và giáo trình, góp phần đưa nền giáo dục đại Việt Nam ngày
càng tiến lại gần hơn với nền giáo dục các nước trên thế giới.


3

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay đã cung cấp nguồn nhân lực cần thiết
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp rất quan trọng vào thành tựu
của đất nước: vượt qua khủng hoảng kinh tế, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chủ
động hội nhập quốc tế ngày càng hiệu quả. Nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ
và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo
dục có nhiều tiến bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp
ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam vận hành trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của thế giới việc làm.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn
thấp. phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới.Các điều kiện bảo đảm
phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa
đồng bộ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất
rất thiếu và lạc hậu. Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa bảo đảm nhu cầu chi
thường xuyên, nhất là đối với các tỉnh khó khăn. Con em gia đình nghèo, gia đình
có thu nhập thấp (cận nghèo) và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao.M ột số hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết. Tư duy giáo dục chậm được đổi mới,
chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.Quản lý về giáo dục còn yếu kém
và bất cập.
Vì thế, Bộ giáo dục và đào tạo đã và đang thực hiện nhiều quyết sách và chiến
lược mang tính toàn diện theo Nghị quyết Trung ương XI với mục tiêu “Đổi mới

căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá và
hội nhập quốc tế”.

4

CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH
1. Chương trình đào tạo.
1.1. Khái niệm về chương trình đào tạo.
Theo từ điển Giáo dục học - NXB Từ điển bách khoa 2001. khái niệm
chương trình đào tạo được hiểu là : "Văn bản chính thức quy định mục đích, mục
tiêu,yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn , kế
hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết
và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất,
chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo "
Theo Wentling ( 1993 ): "Chương trình đào tạo ( Program of Training) là
một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo ( khoá đào tạo ) cho biết toàn
bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học sau khoá đào
tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp
đào tạo và cách thức kiểm tra ,đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được
sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ."
Theo Tyler ( 1949 ) cho rằng : Chương trình đào tạo về cấu trúc phải có 4
phần cơ bản :
1. Mục tiêu đào tạo.
2. Nội dung đào tạo.
3. Phương pháp hay quy trình đào tạo.
4. Cách đánh giá kết quả đào tạo.
1.2. Phân loại chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo bao gồm:
- Chương trình môn học.
- Chương trình Mô dun.

1.3. Yêu cầu của chương trình đào tạo.
- Các cách tiếp cận phát triển chương trình đào tạo, bao gồm:
+Tiếp cận nội dung ( Content Approach).
+ Tiếp cận mục tiêu ( Objective Approach).
+Cách tiếp cận phát triển: (Developmental Apporoach).

5

+Tiếp cận hệ thống.
- Quy trình phát triển chương trình đào tạo, bao gồm các bước:
+ Phân tích bối cảnh và nhu cầu đào tạo.
+ Thiết kế chương trình đào tạo.
+ Thử nghiệm và đánh giá chương trình đào tạo.
- Yêu cầu của chương trình đào tạo: mỗi cở sở đào tạo phải xây dựng chương
trình đào tạo riêng cho cở sở của mình. Chương trình đào tạo phải đảm bảo phù hợp
với sứ mệnh của cơ sở đào tạo, mục tiêu đào tạo, gắn với nhu cầu của xã hội, đảm
bảo năng lực của sinh viên khi ra trường đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.

2. Giáo trình đào tạo.
2.1. Khái niệm về giáo trình đào tạo.
Giáo trình cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng và thái độ quy
định trong chương trình đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo
của giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục đại học và kiểm
tra, đánh giá chất lượng đào tạo.
Giáo trình là tài liệu quan trọng phục vụ cho việc giảng dạy, chuẩn bị bài
giảng của giảng viên và là tài liệu học tập chính thức đối với môn học có trong
chương trình đào tạo.
2.2. Các loại giáo trình sử dụng trong các trường đại học.
- Giáo trình do cơ sở giáo dục đại học tổ chức biên soạn đối với trình độ cao
đẳng, đại học, thạc sĩ.

- Giáo trình do cơ sở giáo dục đại học tổ chức lựa chọn đối với trình độ cao
đẳng, đại học, thạc sĩ.
2.3. Đặc điểm, yêu cầu của giáo trình đào tạo.
- Ngôn ngữ dùng trong biên soạn giáo trình.
+ Ngôn ngữ dùng để biên soạn giáo trình là tiếng Việt.
+ Khuyến khích việc biên soạn giáo trình bằng tiếng nước ngoài đối với các cơ
sở giáo dục đại học thực hiện chương trình tiên tiến, chương trình đào tạo ngôn ngữ
và văn hóa nước ngoài, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài và một số

6

chương trình đào tạo khác giảng dạy bằng tiếng nước ngoài theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
- Yêu cầu đối với giáo trình.
+ Nội dung giáo trình phải phù hợp với mục tiêu đào tạo, chương trình đào
tạo và chuẩn đầu ra đã ban hành, đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng cơ bản và thái
độ của môn học, giúp cho người học có thể tự nghiên cứu theo hướng dẫn của giảng
viên, phải thường xuyên cập nhật nội dung giáo trình, đảm bảo nội dung giáo trình
không bị lạc hậu, phải kịp thời bổ sung nội thông tin mới, phục vụ tốt cho việc dạy
và học.
+ Nội dung kiến thức trong giáo trình được trình bày khoa học, đầy đủ, logic
chặt chẽ, đảm bảo cân đối giữa lý luận và thực hành, phù hợp với mục tiêu và đặc
thù của môn học.
+ Giáo trình được biên soạn theo hướng tinh giản, phù hợp với thực tiễn,
đảm bảo tính hiện đại, cập nhật những thành tựu mới nhất của khoa học - công
nghệ.
+ Những nội dung được trích dẫn trong tài liệu tham khảo dùng để biên soạn
giáo trình phải có nguồn gốc và chú thích rõ ràng.
+ Cuối mỗi chương phải có danh mục tài liệu tham khảo, câu hỏi hướng dẫn
ôn tập, định hướng thảo luận và bài tập thực hành theo yêu cầu của chương trình

môn học.
+ Hình thức và cấu trúc của giáo trình phải đảm bảo tính đồng bộ và tuân thủ
các quy định cụ thể của cơ sở giáo dục đại học.


7

CHƯƠ NG 3: THỰC TRẠNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ
GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO
1. Thực trạng về chương trình đào tạo hiện nay.
- Thực trạng 1: Chương trình học ở Việt Nam quá dài.
+ Ví dụ: Thời gian học 4 năm ở lớp tại Việt Nam là 2183 giờ so với 1380 giờ ở
Mỹ. Như vậy chương trình ở Việt Nam dài hơn gần 60%.
Hoặc một trong những đặc trưng nổi bật của phương pháp giáo dục Mỹ là tôn trọng
thực tế, hiệu quả và "không nhồi nhét". Một học kỳ, thay vì học học 7-10 môn học
như ở Việt Nam, ở M ỹ, sinh viên Mỹ chỉ học 4 đến 5 môn, hiếm có sinh viên nào
chọn học 6 môn một học kỳ. Một năm học ở Mỹ trên lý thuyết là học 9 tháng nhưng
thời gian học thực tế chỉ thường khoảng 7 tháng vì sinh viên ở đây có rất nhiều kỳ
nghỉ xuyên suốt một năm học như đã nói ở trên.(theo Vũ Quang Việt - So sánh
chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam)
Ngoài ra, M ột giảng viên đại học kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết là
số tiết của các môn Mác Lê Nin bậc đại học thuộc nhóm ngành kinh tế là 60 tiết ở 2
năm đại cương, 75 tiết khi vào năm 3 tức chuyên ngành, ở bậc cao học là 90 tiết,
nay chuẩn bị nâng lên 120 tiết. Ngoài ra còn có các môn Lịch sử đảng cộng sản Việt
Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với các sinh viên kinh tế, còn có một môn nữa là
Lịch sử các học thuyết kinh tế có 45 tiết học, nhưng trong đó có 30 tiết dành cho
kinh tế Mác Lê Nin. Và theo giảng viên ở Đại học kinh tế này thì số giờ dùng vào
các môn học này là quá nhiều.
+ Nguyên nhân: Điều này có thể là do thiếu sách vở nên thầy phải vào lớp đọc
cho trò chép hoặc là quán tính từ quá khứ để lại. Với thời gian ngồi lớp như vậy,

học sinh sẽ còn ít thì giờ để tự học, nghiên cứu.
+ Giải pháp:Rà soát lại chương trình đào tạo theo hướng tinh gọn để rút ngắn
thời gian đào tạo.
Xu hướng phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện nay
đã gây ra hiện tượng “bùng nổ” thông tin. Theo ước tính của các nhà khoa học, chỉ
cần 3-4 năm, khối lượng kiến thức của nhân loại sẽ tăng gấp đôi. Điều này cũng
đồng nghĩa với “chu kỳ bán rã thông tin” đã rút ngắn chỉ còn khoảng 3-4 năm, đặc

8

biệt đối với khối kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, tốc độ này còn lớn hơn
nữa.
Song song với việc điều chỉnh nội dung giảng dạy, các cơ sở đào tạo đại học
cũng cần nghiên cứu để rút ngắn thời gian đào tạo xuống càng ngắn càng tốt, xu
hướng chung là còn khoảng 2,5-3,5 năm. Điều này nhằm đảm bảo cho các kiến thức
trang bị cho sinh viên trong trường đại học vẫn còn có giá trị sử dụng trong thực tế
khi ra trường, nếu thời gian đào tạo kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng các kiến thức bị lỗi
thời, làm giảm hiệu quả đào tạo. Mặt khác, do đào tạo theo diện rộng, nên kiến thức
hướng vào kiến thức cơ bản do đó khi ra trường sinh viên cần được doanh nghiệp
tham gia vào bổ sung kiến thức thực tế tại doanh nghiệp, điều này là thực tế hơn
việc cho sinh viên đi thực tập khi còn ở trong môi trường đại học. Nên rút ngắn thời
gian đào tạo để chuyển phần trang bị kinh nghiệm làm việc thực tế về cho doanh
nghiệp thực hiện trong giai đoạn đầu khi sinh viên ra trường (đào tạo bổ sung) sẽ tốt
hơn (Đào Hữu Hòa - Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng).
- Thực trạng 2: Chương trình đào tạo ở Việt Nam không phải là dạy nghề
cũng không phải là đào tạo một người có kiến thức sâu, tính sáng tạo và không
trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản, toàn diện về khoa học tự nhiên,
nhân văn, văn chương và nghệ thuật, không có một lớp nào về phương pháp
nghiên cứu và viết luận văn.
+ Ví dụ: Chương trình học kinh tế đòi hỏi 1451 giờ học kinh tế so với ở Mỹ chỉ

đòi hỏi tối thiểu là 480 giờ (tức là 1/3 chương trình đại học), như vậy đòi hỏi học
các môn kinh tế gấp 3 lần số giờ ở đại học Mỹ. Nhìn chương trình giảng dậy ở Đại
học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh ta thấy, sinh viên trong 4 năm phải học gần như
tất cả mọi thứ trên đời về kinh tế mà nhà trường có thể nghĩ ra được, từ các môn cơ
bản như kinh tế vi mô và vĩ mô, đến các môn như kinh tế lao động, quản trị xí
nghiệp, kế toán, địa lý kinh tế, luật kinh tế, dân số họ, chính sách thương mại, kinh
tế tài nguyên và môi trường, phân tích dự án kinh tế, thị trường chứng khoán, v.v.
Đây là những môn ít khi dạy ở cấp đại học 4 năm và có dạy thì chỉ là những môn để
học sinh có thể chọn lựa, và đây cũng là những môn mà trường đại học có thầy đã
và đang nghiên cứu chuyên sâu. Đòi hỏi mỗi thứ một tí, học sinh không có khả năng

9

hoặc thì giờ đi sâu vào bất cứ vấn đề gì và chắc chắn là thầy cũng chỉ đọc sách nói
lại mà không hiểu thầy có hiểu không nữa. Theo các tài liệu giáo khoa của trường
thì nội dung rất là rất nặng lý thuyết mà nhiều phần học sinh ở M ỹ chỉ học trong
chương trình sau cử nhân. Như vậy trường chỉ nhằm nhồi sọ kiến thức lý thuyết
kinh tế nhưng sự phân chia chi li các lớp học thì lại có vẻ thực dụng như dạy nghề.
(theo Vũ Quang Việt - So sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt
Nam).
Ngoài ra, Theo số liệu dự báo của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến năm
2018, Việt Nam sẽ có 50-60 triệu người sử dụng Internet, có khoảng 40 triệu người
sử dụng smartphone, và trên 1 triệu smart tivi tích hợp Internet. Để đón đầu xu
hướng đó, trong vài năm trở lại đây, các doanh nghiệp CNTT cũng tăng cường nhu
cầu tuyển dụng nhân lực. Riêng năm 2012 nhu cầu này đã tăng hơn 66% so với năm
2011, đặc biệt nhu cầu tuyển dụng nhân sự trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học
chuyên ngành như lập trình viên, kỹ sư hệ thống mạng, kỹ sư phần cứng, tester,
nhân viên phát triển phần mềm, thiết kế lập trình web, lập trình mobile…
Đối lập với tương lai màu hồng đó, thị trường lao động năm 2012 cho thấy
nguồn cung nhân lực chỉ đáp ứng 70% nhu cầu tuyển dụng. Ngoài ra, nguồn cung

đa số lại là sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng còn hạn chế về kỹ năng, chưa phù
hợp yêu cầu chuyên ngành lẫn trình độ ngoại ngữ. Chia sẻ vấn đề này, đại diện công
ty Micro Game cho biết công ty không yêu cầu quá cao về mặt chuyên môn khi
tuyển dụng, nhưng phần lớn sinh viên mới ra trường quá thiếu kỹ năng làm việc và
chậm thích nghi với môi trường, văn hóa doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho
quá trình tuyển dụng nhân sự, cũng như làm cho công ty phải tiêu tốn khá nhiều chi
phí để đào tạo lại cho các ứng viên.
Giải thích cho nghịch lý thừa thầy - thiếu thợ trong ngành CNTT, ông Phí Anh
Tuấn - Phó chủ tịch Hội tin học TPHCM, cho rằng những khó khăn chính trong việc
đào tạo CNTT hiện nay là chương trình giảng dạy còn chú trọng lý thuyết trong khi
doanh nghiệp cần kỹ năng, các trường thiếu phương tiện thực hành cho sinh viên và
thiếu thông tin về nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, với sức hút của một ngành đang
phát triển mạnh mẽ và được đầu tư để trở thành ngành chủ lực thì các trường đại

10

học, cao đẳng, trung cấp đua nhau đưa CNTT vào đào tạo và mỗi năm thu hút hàng
nghìn thí sinh dự thi. Nhưng chất lượng đào tạo thì không phải đơn vị nào cũng đặt
lên hàng đầu. Tiếc rằng, dù được định hướng khá nhiều, cho đến nay, tâm lý có tấm
bằng đại học vẫn là mục tiêu duy nhất của các phụ huynh khi cho con mình chọn
trường, chọn nghề.
Hoặc khi so sánh với GDĐH ở Mỹ thì Giáo dục Mỹ chú trọng nhiều đến đào tạo
học sinh một cách toàn diện. Việc học và việc chơi được kết hợp hết sức nhuần
nhuyễn. Ngoài giờ lên lớp, sinh viên ở Mỹ còn tham gia vào rất nhiều các câu lạc
bộ, các tổ chức khác nhau, rồi chơi thể thao, hát, chơi nhạc Các hoạt động này vừa
giúp tăng cường thể chất đồng thời cũng có tác dụng phát triển tính năng động, sáng
tạo, và nhất là khả năng lãnh đạo (leadership skill). Đối với mỗi sinh viên, nếu chỉ
biết học mà không hoạt động sẽ là một thiệt hại lớn.
Đơn cử như chuyện xin học đại học của sinh viên M ỹ, không có những kỳ thi
đại học căng thẳng, những giờ học thêm tối ngày, việc bạn có vào được một trường

đại học tốt hay không được hoàn toàn quyết định bởi toàn bộ quá trình phấn đấu của
học sinh ở trường trung học. Ngoài chuyện điểm học, điểm thi các kỳ thi bắt buộc
thì chuyện bạn năng động, tích cực trong môi trường trường học cũng là một yếu tố
quan trọng có tính chất quyết định trong việc bạn có được nhận vào đại học hay
không.( theo Phương pháp giáo dục tại các trường ở Mỹ - vnuitp.edu.vn).
+ Nguyên nhân: Do định hướng về dạy trong đào tạo chưa chuẩn mực, quá
nghiêng về số lượng, hình thức, chưa chú trọng chất lượng. Trong chất lượng lại
chưa coi trọng giáo dục phẩm cách, giáo dục tính chân thiện mỹ cho sinh viên mà
thường chú trọng chuyên môn, nhưng có nghịch lý là chuyên môn cũng chưa đạt
yêu cầu. (theo TS Bùi Thị An - Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số 45 tháng 10/2013)
+ Giải pháp:Điểm mấu chốt của chương trình đào tạo nằm ở chỗ trong quá
trình đào tạo, các trường nghề đẩy mạnh công tác liên kết và hợp tác cùng các
doanh nghiệp để mang lại những cơ hội học tập tốt nhất cho sinh viên. Các bạn
thường xuyên được làm trên các dự án thật do doanh nghiệp cung cấp cũng như đến
thực tập trực tiếp tại công ty để có thể làm quen với môi trường công việc, rèn
luyện, nâng cao tay nghề và không bị bỡ ngỡ khi bắt tay vào công việc thực tế.

11

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo
dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển phẩm chất và
năng lực người học.
Nội dung chương trình phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp
theo mục tiêu đào tạo; giảm lý thuyết từng chương, tăng cường thực tế; đổi mới
mạnh mẽ từ nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường
đưa nhà trường thâm nhập vào cuộc sống.
- Thực trạng 3:Các trường xây dựng chương trình đào tạo phải tuân theo
chương trình khung của Bộ giáo dục một cách cứng nhắc. Ở đại học Việt Nam
tất cả các môn có tính bắt buộc, học sinh không có quyền tự chọn, Sinh viên
phải học tất cả mọi thứ mà nhà trường đã quyết định sẵn (Chỉ được chọn môn

tự chọn từ 1 đến 3 môn trong một học kì, hoặc năm cuối khi học theo tín chỉ).
+ Ví dụ: Trao đổi về vấn đề này, Thầy Ngô Đăng Thành, giảng viên Trường
ĐH Kinh tế TP. HCM đã có ý kiến: "Kiến thức chuyên ngành sinh viên được học
quá ít. Ví dụ, một chương trình cử nhân, bao gồm 125-130 tín chỉ tất cả các môn,
trong đó có khoảng 80-90 tín chỉ là môn chung. Các môn chung của ngành cũng
khoảng 20 tín chỉ. Cho nên những kiến thức sẽ học để sau này sinh viên đi làm thực
tế chỉ còn khoảng 20 tín chỉ nữa, tương đương với 4-5 môn." (Nguyễn Hoàng Hạnh,
2008)
GS-TSKH Đỗ Trần Cát, Tổng Thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước
cho rằng Bộ giáo dục đào tạo phải xem xét và phân bổ lại chương trình học. Ví dụ
đối với môn chung như triết học, kinh tế chính trị trong các trường đại học nên phân
bố số tiết ít hơn, để dành thời gian giảng dạy các môn chuyên ngành sẽ thiết thực
hơn. (H.L.Anh - D. Hằng, 2005)
Còn ThS. Đào Đức Tuyên, Phó Trưởng khoa Ngoại ngữ (Trường ĐH Nông
Lâm Tp.HCM) phát biểu: môn Giáo dục thể chất được quy định trong chương trình
khung của Bộ, nên chăng đổi lại thành môn tự chọn vì như vây sinh viên có thể
chọn những môn thể thao phù hợp với điều kiện sức khỏe và thể lực của mình. M ôn
Giáo dục quốc phòng cũng vậy, nên chuyển sang thành môn tự chọn vì một tháng

12

học ròng rã cả lý thuyết lẫn thực hành như hiện nay thực sự không cần thiết đối với
sinh viên, đặc biệt là sinh viên nữ (H.L.Anh - D. Hằng, 2005).
+ Nguyên nhân: Hiện nay, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn còn
kém hiệu quả. Nguyên nhân do Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung và
yêu cầu các trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc. Ngày xưa, để có thể đưa vào
một nội dung mới hay bỏ đi nội dung cũ rất khó khăn. Bởi thời lượng chỉ có từng
ấy, trong khi nội dung nào cũng quan trọng, không biết phải bớt cái gì; cái mới nào
cũng thấy cần, cũng muốn đưa vào.
Ngoài ra, Chưa nhận thức sâu sắc và chậm đổi mới tư duy về phát triển giáo

dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều cấp ủy Đảng, chính
quyền từ Trung ương đến địa phương còn lúng túng trong việc cụ thể hóa quan
điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xử lý các vấn đề của giáo dục trong thực
tiễn; chưa thể chế hóa kịp thời, phù hợp các chủ trương, chính sách của Đảng về
giáo dục. Chưa có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội
trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục. Việc xác định nhiều
mục tiêu phát triển giáo dục chưa tính toán đầy đủ đến các điều kiện thực hiện.
Thiếu quy hoạch phát triển nhân lực của đất nước, của ngành giáo dục. Không kịp
thời sơ kết, tổng kết, đánh giá các chính sách về giáo dục. Các chế độ, chính sách
đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa đáng.
+ Giải pháp: Bộ Giáo dục và Đào tạo không nên quy định các trường đại học
phải tuân theo chương trình khung một cách cứng nhắc mà hãy để các trường đại
học chủ động biên soạn chương trình. Chương trình khung của Bộ là chương trình
chuẩn để các trường dựa vào đó tự thiết kế chương trình cho mình, như thế mỗi
trường đại học sẽ có chương trình đặc thù mang thế mạnh riêng. Đối với những môn
chuyên ngành, trường sẽ giao cho khoa chủ động xây dựng chương trình. Như vậy
chương trình giảng dạy sẽ hữu dụng hơn vì dựa vào nhu cầu thực tế của xã hội và
trình độ của sinh viên, cơ sở đào tạo sẽ điều chỉnh và cải tiến chương trình học một
cách khoa học và kịp thời.



13

- Thực trạng 4:Không xây dựng tốt chuẩn đầu ra đối với chương trình đào
tạo.
+ Ví dụ: TS Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TP HCM , cảnh
báo tại hội thảo “Giải pháp phát triển nghề nghiệp hướng đến ASEAN 2015” do ĐH
Quốc gia TP HCM tổ chức ngày 16-11: “Nếu các trường ĐH Việt Nam không nâng
được chất lượng đào tạo, không xây dựng chuẩn đầu ra ngang tầm khu vực thì

không khéo các kỹ sư, cử nhân Việt Nam sẽ thất bại ngay chính trên sân nhà vì
không cạnh tranh được với đồng nghiệp đến từ các nước khác trong khu vực”.
Hoặc, Thạc sĩ Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân
lực và Thông tin thị trường lao động TP HCM, cho biết hằng năm, TP HCM có
55.000 sinh viên (SV) các trường ĐH, CĐ tốt nghiệp. Nếu tính cả học sinh trung
cấp, công nhân kỹ thuật, đào tạo ngắn hạn thì có khoảng 180.000 người. Trong đó
có khoảng 80% SV ra trường tìm được việc làm đúng trình độ đào tạo; số còn lại
tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm, phải làm công việc thấp hơn
trình độ được đào tạo.
+ Nguyên nhân: Do khi bắt đầu xây dựng hay cải tiến chương trình không
khảo sát ý kiến của doanh nghiệp, hỏi họ xem sinh viên của mình ra trường yếu,
mạnh ở điểm nào, phải bổ sung gì, thường doanh nghiệp phải đào tạo lại những gì.
Từ khảo sát đó sẽ điều chỉnh lại chuẩn đầu ra cho phù hợp với yêu cầu của doanh
nghiệp. Tiếp theo, tiến hành xây dựng chuẩn đầu ra, việc xây dựng chuẩn đầu ra
cũng cần lấy ý kiến doanh nghiệp. Bên cạnh đó do nhu cầu tuyển dụng giảm cũng là
một nguyên nhân nhưng cái chính là SV thiếu kỹ năng thực tế, không thuyết phục
được nhà tuyển dụng.
+ Giải pháp: Cần xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra.
Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu xã hội làm căn cứ,
chứ không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quyết định như nhiều cơ sở đào
tạo đại học đang làm. Chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng về
chủng loại và chất lượng.
Để thanh niên tự tin hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh các hoạt động
hỗ trợ từ nhà trường, từng cá nhân sinh viên phải không ngừng tự học, rèn luyện, tự

14

tu dưỡng, tự chịu trách nhiệm để trang bị cho mình kỹ năng, kỷ luật, có tác phong
của lao động chất lượng cao.
- Thực trạng 5:Nhiều chương trình liên kết của một số trường ĐH chưa

được kiểm định chất lượng nhưng vẫn được đưa vào hoạt động tại Việt Nam,
tư cách pháp nhân của nhiều đối tác nước ngoài không bảo đảm.
+ Ví dụ: Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã nêu ra một thực tế giật
mình về việc liên kết đào tạo với nước ngoài: Trong số 200 chương trình liên kết
đào tạo với nước ngoài có những chương trình đào tạo liên kết triển khai tại ĐH
Quốc gia Hà Nội và TP.HCM chất lượng không tốt, không hiệu quả do không thẩm
định hồ sơ chặt chẽ. Bên cạnh đó có tới 40 chương trình liên kết chui, đào tạo không
cấp phép hoặc sai lệch với nội dung cấp phép chương trình(vietbao.vn).
Hay, Có thể chỉ ra Công ty TNHH Đào tạo công nghệ thông tin và Quản trị
kinh doanh Singapore có chức năng đào tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo bồi
dưỡng ngoại ngữ trình độ A, B, C; tin học trình độ A, B, kỹ thuật viên; công ty
không được phép tổ chức hoạt động giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non,
phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ trên lãnh
thổ Việt Nam.Nhưng thực tế, qua thanh tra công ty này đã tuyển sinh chương trình
cao đẳng và cử nhân khoa học, vi phạm Nghị định 49/2005/NĐ-CP và phải chịu xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Thanh tra Bộ GD&ĐT cũng đã
kiểm tra, phát hiện Công ty Melior Việt Nam vì hoạt động quảng cáo, tuyển sinh,
đào tạo trái phép các ngành quản trị kinh doanh, quản trị du lịch và khách sạn trình
độ cao đẳng và đại học trên lãnh thổ Việt Nam.(Thu Phương – Thanh Phong –
cand.com.vn)
+ Nguyên nhân:Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi
đồng cho rằng, công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài trong
thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế. Tiến độ soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật về liên kết đào tạo với nước ngoài còn quá chậm; nhiều vấn đề mới phát sinh,
nhiều nội dung không phù hợp kéo dài nhưng vẫn chậm được sửa đổi, bổ sung dẫn
tới những bất cập trong liên kết đào tạo tại một số cơ sở đào tạo trong thời gian qua.
Công tác thanh tra, kiểm tra trong liên kết đào tạo với nước ngoài chưa đủ rộng

15


khắp và kịp thời dẫn tới tình trạng liên kết “chui” không xin phép của một số đơn
vị, đặc biệt là một số viện nghiên cứu tư nhân, trung tâm và một số cơ sở khác
không có chức năng đào tạo, không đáp ứng được các điều kiện về liên kết đào tạo
với nước ngoài.
Công tác thẩm định năng lực của đối tác liên kết còn chưa sâu sát dẫn đến có
trường hợp tư cách pháp nhân của đối tác nước ngoài không bảo đảm, nhiều chương
trình liên kết của một số trường ĐH chưa được kiểm định chất lượng nhưng vẫn
được đưa vào hoạt động tại Việt Nam (như Trường ĐH Frederick Taylor, Trường
ĐH Quốc tế Mỹ, Trường ĐH Preston, Trường ĐH Nam Thái Bình Dương, Trường
ĐH Irvine - Hoa Kỳ,…).
Hoặc, Ông Trần Văn Rũng - Viện trưởng IABM - cho biết sau khi Báo Tuổi Trẻ
phản ánh, Viện đã ngừng tuyển sinh chương trình thạc sĩ của ĐH quốc tế Adam. Với
chương trình tiến sĩ của IAU mà viện đang tổ chức, ông Rũng nói đó chỉ là những
khóa học chuyên đề, lồng ghép chương trình của các ĐH nước ngoài.
(kenhtuyensinh.vn)
Hay, Khảo sát của đồng tác giả PGS- Tiến sĩ Ngô Doãn Đãi và PGS- Tiến sĩ Lê
Đức Ngọc (ĐHQG Hà Nội) cũng đúc rút 4 tồn tại trong liên kết đào tạo ĐH xuyên
biên giới ở Việt Nam cần khắc phục.
Cụ thể: Quy mô liên kết còn nhỏ, do những hạn chế về cơ sở vật chất và trình
độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên của các trường ĐH Việt
Nam. Do vậy, liên kết đào tạo ĐH với nước ngoài chưa đáp ứng nhiều nhu cầu học
tập ĐH của sinh viên.
Vì sao nhiều gia đình Việt Nam dù điều kiện kinh tế còn hạn hẹp nhưng vẫn tìm
cách cho con đi du học là do chất lượng đào tạo trong các chương trình liên kết do
các trường ĐH Việt Nam tự tìm đối tác được đảm bảo chất lượng đến mức độ nào
chưa có câu trả lời.
+ Giải pháp: Thực hiện Nghị quyết 50/2010/QH12 của Quốc hội, cơ quan quản
lý nhà nước đã chú trọng hơn tới việc quản lý các chương trình liên kết đào tạo với
nước ngoài nhằm một mặt bảo đảm phát huy mặt mạnh của liên kết đào tạo, mặt
khác ngăn chặn, hạn chế những nguy cơ, rủi ro của hoạt đông liên kết đào tạo với


16

nước ngoài. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày
26/9/2012 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục (thay
thế và khắc phục một số bất cập về pháp lý cũng như nhiều nội dung không còn phù
hợp của các quy định liên quan đến hợp tác, liên kết đào tạo của Nghị định
06/2000/NĐ-CP Nghị định số 18/2001/NĐ-CP của Chính phủ). Đồng thời, Bộ GD-
ĐT thời gian qua đã có nhiều văn bản chỉ đạo, yêu cầu tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài cũng như tăng
cường đảm bảo thực hiện tốt công tác thẩm định và cấp phép các chương trình liên
kết đào tạo với nước ngoài như không cấp phép những chương trình liên kết đào tạo
với những đối tác nước ngoài nếu chưa được công nhận chất lượng đào tạo tại nước
sở tại.
Bộ GD-ĐT đã tiến hành kiểm tra hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài tại
27 cơ sở giáo dục ĐH và thanh tra 12 đơn vị khác đang tổ chức hoạt động đào tạo
có yếu tố nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, qua đó đã kịp thời phát hiện những bất
cập và chỉ đạo chấn chỉnh hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài của các cơ sở
như yêu cầu lập hồ sơ xin phép liên kết đào tạo theo đúng quy định; đình chỉ một số
chương trình liên kết đào tạo và xử phạt vi phạm hành chính 10/12 đơn vị, buộc
dừng hoạt động tuyển sinh và tổ chức đào tạo trái phép trên lãnh thổ Việt Nam, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người học.

2. Thực trạng về giáo trình đào tạo hiện nay.
- Thực trạng 1: Giáo trình thiếu tính cập nhật kiến thức quốc tế, thiếu tính
mới, thiếu tính ứng dụng thực tế, nhiều trường phải sử dụng giáo trình của
trường khác để giảng dạy, còn quá nặng về lý thuyết, dẫn đến tình trạng sinh
viên có thói quen học một cách thụ động.
+ Ví dụ: TS Nguyễn Văn Đệ cho rằng, mục tiêu đảm bảo các chương trình đào
tạo đều có đủ giáo trình không khó, khó ở chỗ các trường cần phải có một bộ giáo

trình phù hợp.
M à đa số các trường đều không đủ khả năng lực và điều kiện thực hiện, vì vậy
cần có sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong xây dựng chương trình đào tạo và biên

17

soạn giáo trình, bài giảng để có thể công nhận chương trình đào tạo của nhau và
phát huy thế mạnh về hoạt động trong biên soạn trong từng môn học, từng ngành
đào tạo mỗi trường.
Các trường “mạnh” có nhiều chuyên gia đầu ngành, đồng thời là các chuyên gia
viết giáo trình, họ cũng đồng thời có cả nhà xuất bản nên sẽ là nơi cung cấp giáo
trình cho các trường ĐH, CĐ khác trong toàn quốc. Tuy nhiên, các trường “mạnh”
thường có nguồn tuyển sinh chất lượng cao nên giáo trình được viết ra dành cho các
đối tượng này sẽ rất khó sử dụng trong các trường có nguồn tuyển sinh chất lượng
thấp hơn. Chưa kể hiện tượng vi phạm bản quyền, luật sở hữu trí tuệ (photo copy
giáo trình) cũng ảnh hưởng rất nhiều tới công tác biên soạn và xuất bản giáo trình.
Hay,Hiệu trưởng Trường ĐH Nguyễn Trãi – PGS. TS Nguyễn Văn Nhã, các
trường ĐH, CĐ nếu không phải là các trường đầu ngành thì không nên tổ chức biên
soạn giáo trình, mà lựa chọn giáo trình chuẩn, chất lượng để mua, trao đổi, phủ kín
các môn học của các ngành - đó là một trong các giải pháp tiết kiệm và khoa học.
Trường ĐH Nguyễn Trãi đã đi theo cách đó là chính. Với một số ít các môn học
mang đặc thù nghề nghiệp, trường đầu tư kinh phí thỏa đáng để các giảng viên giỏi
của trường biên soạn. Hiện thư viện của Trường ĐH Nguyễn Trãi có đầy đủ cả 3
loại giáo trình: Giáo trình bản cứng, giáo trình số hóa và các bài giảng điện tử.
100% môn học đều có giáo trình.
Hoặc, Bộ giáo trình viết cho các khóa đào tạo tin học trong khuôn khổ Đề án
112 sau khi thẩm định được đánh giá là “cuốn cao cấp thì quá cao cấp và cuốn thấp
cấp thì quá thấp cấp”.
M ột đơn vị được giao thẩm định bộ sách đồ sộ dùng cho các khóa đào tạo của
Đề án 112 phải mất 2 tháng trời để đọc. “Đọc xong tôi toát mồ hôi hột vì thấy có

sách dường như viết để cho các nhà chuyên môn về CNTT, có sách viết miên man
trên trời dưới bể và có sách lại viết về những gì mà ngoài thị trường bán đầy rẫy” -
Một chuyên gia tham gia thẩm định nhận xét.
Khách quan mà nói, vẫn theo chuyên gia này, có không ít cuốn viết đạt chất
lượng cao như Giáo trình Sử dụng, Quản trị & Lập trình UNIX/LINUX và Giáo
trình Nhập môn Ngôn ngữ XML Có những cuốn khá thiết thực cho địa phương và

18

cơ sở như Tài liệu hướng dẫn vận hành hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế xã hội
phục vụ điều hành trên địa bàn huyện.
Nhưng nhìn chung, phần lớn các cuốn đều nặng về lý thuyết, quá cao so với yêu
cầu đặt ra đối với học viên. Mỗi cuốn viết cho thời gian học chính thức 40 - 60 tiết.
“Tập huấn kéo dài như thế vừa không phù hợp về tâm sinh lý vừa không cần thiết
với học viên là công chức để thực thi hệ thống máy tính hiện hành”. Có những cuốn
viết về các phần mềm cơ bản như Word, Excel mà bất cứ ai nhập môn máy tính đều
có thể mua sách ngoài chợ và thậm chí tự học. “Viết những sách như thế là thừa,
lãng phí vô cùng - Chuyên gia nhận xét - Nếu thực sự cầu thị, Ban Điều hành 112
chỉ cần yêu cầu địa phương tự tổ chức đào tạo những vấn đề cơ bản đó và họ hoàn
toàn đủ sức mua sách ngoài chợ để có thể chọn những cuốn tốt nhất”.
Thậm chí có những cuốn như Quản lý Văn bản & Hồ sơ Công việc ấn hành vào
năm 2005 để hướng dẫn cho phần mềm dùng chung quản lý hồ sơ công việc mang
mã số 112.HS.002.P1.
Cuốn này được đánh giá là in ra mà không ai đọc, được dạy rất ít và nhất là,
không biết tác dụng của nó thế nào. Đơn giản là vì, đến thời điểm năm 2005, cả ba
phần mềm dùng chung đều bộc lộ sự kém hiệu quả, hầu như không dùng chung
được. “Vậy thì viết về cái thấy mười mươi không dùng được nữa để làm gì”. (Giáo
trinh đào tạo của Đề án 112 xa thực tiễn – www.tienphong.vn).
+ Nguyên nhân: Do sự thiếu sót trong việc gắn kết, đi sâu vào những nội
dung “gần gũi đối với thực tế” trong giáo trình, hầu hết các cơ sở đào tạo đều nhận

thấy nhưng chưa có giải pháp khắc phục tận gốc. Những giải pháp mà các cơ sở đào
tạo và đội ngũ giảng viên đang cố gắng thực hiện trong thời gian qua là tăng cường
các học phần thực hành, các buổi tham quan thực tế, giao lưu với người thành đạt
hoặc bổ sung thêm một số tình huống mang tính minh họa , nhưng lại thiếu sót tiền
đề căn bản để đảm bảo thống nhất nội dung cũng như nâng cao chất lượng là tài liệu
học tập được nghiên cứu đảm bảo tính khoa học, chính là các giáo trình mang nội
dung tình huống và xử lý tình huống.
Nguyên nhân tiếp theo mà đa số tất cả các trường đại học dù là công lập hay
ngoài công lập đều mắc phải là tình trạng vay mượn, chắp vá giáo trình. Thông

19

thường, những trường ra đời sau sẽ có sự tiếp thu, học hỏi cả chương trình và giáo
trình đào tạo từ những trường lâu năm, uy tín. Tuy nhiên chính sự tiếp thu không
chọn lọc, không hiểu rõ mục tiêu, sứ mạng, đối tượng sinh viên và điều kiện thực tế
của từng trường đã làm nên những giáo trình không phù hợp, nội dung chắp vá từ
nhiều nguồn khác nhau dẫn tới sự lệch pha so với thực tế.
M ột nguyên nhân nữa không thể không nhắc đến là chủ quan trong việc mời
viết sách, Chẳng hạn như là toàn bộ kế hoạch viết sách mang tính giáo dục và đào
tạo cho ngành giáo dục & đào tạo lại không được tham khảo ý kiến, một quan chức
ở Bộ Giáo dục & Đào tạo tiết lộ.Điều thất vọng nhất đối với những người viết sách
là họ hầu như không bám sát diễn tiến của chương trình để điều chỉnh nội dung viết
và, thậm chí, để không viết nữa. Dường như không có sự chỉ đạo và giám sát nào
trong quá trình các tác giả viết sách.Thậm chí, dường như các hợp đồng viết sách là
giữa Ban Điều hành với các cá nhân chứ không phải là với đơn vị của họ.
+ Giải pháp: Hiện nay giáo trình đào tạo còn quá nặng nề lý thuyết, chưa gắn
liền với thực tế công việc cụ thể, dẫn đến tình trạng SV có thói quen học một cách
thụ động. Vì vậy, việc giảng dạy lý thuyết cần đi kèm với những dẫn chứng và tình
huống cụ thể được áp dụng trên thực tế để SV dễ dàng nắm bắt, hiểu và biết cách áp
dụng những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, với chương trình đào tạo cần giảm bớt

thời lượng dành cho phần kiến thức đại cương và kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
để dành nhiều thời gian hơn cho kiến thức chuyên ngành, hướng tới việc kiến thức
chuyên ngành chiếm từ 50% thời gian đào tạo trở lên”.
Đặc biệt là nên biên soạn bổ sung “giáo trình thực tiễn” có thể được xem là lựa
chọn tốt nhất để khắc phục một số khiếm khuyết của thực trạng giáo trình hiện nay
như đã nêu ở phần trên. “giáo trình thực tiễn”có thể được xem là một tài liệu kiểm
nghiệm những kiến thức mà người học đang tiếp nhận từ “giáo trình hàn lâm”, là
kiểm nghiệm của người học với thực tế mà họ đang tiếp xúc, là những kinh nghiệm
mà người học có thể học ngay trên giảng đường, và có lẽ đó chính là sự kiểm định
rõ ràng nhất đối với khả năng “đứng lớp” của từng giảng viên đại học. Một số kiến
nghị tác giả xin được phép đề cập để xúc tiến đẩy mạnh biên soạn “giáo trình thực
tiễn”.

20

Ngoài ra, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương
trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển
phẩm chất và năng lực người học
Xác định mục tiêu giáo dục con người vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát
triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. Phát triển năng lực và phẩm chất người
học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ thay vì chỉ chú trọng trang bị kiến thức; kết hợp hài
hòa dạy người, dạy chữ và dạy nghề;
Chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục trên lớp học sang tổ chức đa
dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo dục, tăng cường các hoạt động xã
hội, nghiên cứu khoa học của người học. Coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục
nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học, tăng cường áp dụng hình thức giáo dục
từ xa có chất lượng.
Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh giản, cơ bản, hiện đại, giảm tính
hàn lâm, tăng tính thực hành và vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn. Thiết kế

nội dung theo hướng tích hợp cao các môn học ở các lớp học dưới và phân hóa dần
ở các lớp học trên, giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học, chủ đề và hoạt
động giáo dục dành cho học sinh tự chọn. Đa dạng hóa nội dung giáo dục nghề
nghiệp theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề
nghiệp cho người học.
Đổi mới nội dung giáo dục đại học theo hướng cơ bản, tích hợp các lĩnh vực
kiến thức, kỹ năng và hiểu biết xã hội, tiếp cận thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến trên thế giới. Đổi mới chương trình giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí M inh theo hướng tập trung vào
những giá trị cơ bản của đạo lý dân tộc, đạo đức xã hội, trách nhiệm cộng đồng,
những giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa M ác - Lênin; giảm tải phù hợp với
lứa tuổi, trình độ và ngành nghề đào tạo. Dạy học ngoại ngữ và tin học theo hướng
chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng thực tế của người học. Chú trọng
dạy tiếng nói và chữ viết của dân tộc thiểu số. Phát triển đa dạng nội dung, tài liệu
học tập đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.

21

Từng bước đổi mới nội dung giáo trình, loại bỏ những kiến thức không thiết
thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập
nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng
cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường các môn khoa
học xã hội và nhân văn , nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc Việt, địa lý và văn hoá
Việt Nam. Tổ chức cho sinh viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các
hoạt động văn nghệ, thể thao phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Tóm lại, việc biên soạn giáo trình có thể là một vấn đề không mới, nhưng theo
ý kiến chủ quan của tác giả, chưa thật sự được quan tâm và đánh giá đúng mức
trong thời gian qua. Giải pháp này theo tác giả thiết nghĩ không tốn kém quá nhiều
chi phí nhưng sẽ góp phần giải quyết căn bản việc nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo, nâng cao uy tín và khẳng định thương hiệu của cơ sở đào tạo và mục tiêu mấu

chốt chính là tăng khả năng thích ứng của người học với môi trường thực tế, đó
cũng là một giải pháp cụ thể hóa phương châm giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí
Minh: “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tế.
- Thực trạng 2: Ở Việt Nam chính sách tài chính về viết giáo trình và
NCKH chưa hợp lý. Vì vậy giảng viên không nhiệt tình với việc viết giáo trình
và NCKH.
+ Ví dụ: PGS.TS Nguyễn Văn Nhã – Nguyên Trưởng Ban đào tạo ĐHQG Hà
Nội, hiện là Hiệu trưởng Trường ĐH Nguyễn Trãi đưa ra 4 cái khó: M ột là, có
những thầy giỏi không muốn “cho người khác học, lộ bài”. Hai là, có thầy lại quan
niệm ĐH, CĐ không phải phổ thông cấp 4 nên không có giáo trình mà chỉ có một số
sách tham khảo. Ba là, kinh phí đầu tư cho viết giáo trình quá thấp, rất thấp nên
chưa khuyến khích và tạo động lực để các thầy viết giáo trình. Bốn là, không phải
thầy cô nào dạy ĐH, CĐ cũng viết được giáo trình.
Hay, Trong Chương trình “Dân hỏi-Bộ trưởng trả lời” vừa diễn ra, Bộ trưởng
Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) Nguyễn Quân cho biết một trong những
nguyên nhân gây chậm trễ trong cấp phát kinh phí nghiên cứu KHCN thời gian qua
là do hành chính hóa việc phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu KHCN như các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản.“Ví dụ kinh phí dành cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa

22

học công nghệ cấp nhà nước năm 2011 đến tháng 2/2012 mới được giao, kinh phí
nghiên cứu năm 2012 thì đến tháng 10/2012 mới được giao và kinh phí năm 2013
thì vừa mới có”, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết thêm.
Ngoài ra, PGS-TS Mai Hồng Quỳ cho biết:“Chúng tôi đang hối thúc tất cả các
khoa tiến hành làm giáo trình để sinh viên có tài liệu học tập, tuy nhiên, việc làm
giáo trình vô cùng khó khăn do các giảng viên bận đi giảng dạy hoặc đi học tại nước
ngoài”. Tuy nhiên, một lý do khiến cho giảng viên không tha thiết trong việc viết
giáo trình chính là thù lao quá thấp. Và Bà cho biết hiện mỗi giảng viên trình độ
thạc sĩ trở lên tham gia viết sách chỉ được trả thù lao 60.000 đồng/trang. Trong khi

đó, để viết được một trang giáo trình, giảng viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và
công sức.
Hoặc, PGS- TS Võ Văn Sen cũng nêu thực tế: “Hiện mỗi giảng viên tham gia
viết giáo trình được trả khoảng từ 7- 9 triệu đồng/cuốn, mà để viết xong một giáo
trình phải mất từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí 2 năm mới xong. Trong khi chỉ cần đi
dạy từ 45 - 90 tiết, giảng viên có thể có số thù lao cao hơn số tiền đó”.
Cũng đã từng tham gia viết giáo trình, PGS-TS Trịnh Sâm cho biết nhiều nhà
xuất bản trả cho giảng viên thù lao 8%-10% trên giá bìa. Có giáo trình chỉ xuất bản
200 – 500 cuốn, như vậy giảng viên chỉ được hưởng 2 - 5 triệu đồng/cuốn. “Thù lao
trả cho trí tuệ khoa học của giảng viên “quá bèo”. Giảng viên “âm thầm” đi dạy
thêm chắc chắn có thù lao cao hơn và ít chịu trách nhiệm hơn so với viết sách” - GS
Trịnh Sâm nhìn nhận. Thêm vào đó, kinh phí dành cho việc làm giáo trình tại các
trường hiện rất hạn chế, đặc biệt là các trường dân lập. “Có cuốn sách tôi viết từ
năm 1995, chưa đến nỗi lạc hậu nhưng nếu có kinh phí chắc chắn tôi sẽ phải viết
thêm để cập nhật kiến thức mới, tuy nhiên, hiện trường chưa cấp kinh phí để làm” -
GS Bùi Khánh Thế nói. PGS-TS Trịnh Sâm cũng cho biết đã chuyển sang đào tạo
tín chỉ, nhưng chưa thấy nhà trường đề cập đến việc cấp kinh phí để các khoa làm
lại giáo trình.
Hoặc, GS Bùi Khánh Thế cho rằng để khuyến khích giảng viên đầu tư vào việc
viết giáo trình, trước hết phải trả công xứng đáng với trí tuệ và công sức của họ.
PGS - TS M ai Hồng Quỳ cho rằng để giảng viên viết sách thì phải giảm giờ lên lớp

23

cho họ, tuy nhiên, nếu giảm giờ lên lớp thì trường phải tuyển thêm giảng viên trong
khi quỹ lương cứng rất eo hẹp. Đây chính là bài toán khó mà các trường đang đối
mặt
+ Nguyên nhân: Cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ giảng viên hiện nay không
phát huy hết tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự
phấn đấu trong chuyên môn, không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những

người yếu kém. Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào
khối lượng giảng dạy và thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả
năng nghiên cứu của cá nhân, chưa bảo đảm cho giảng viên có cuộc sống đủ để có
thể toàn tâm, toàn ý cho việc bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và NCKH.
Nguyên nhân gây chậm trễ trong cấp phát kinh phí nghiên cứu thời gian qua là
do hành chính hóa việc phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu Khoa học và Công
nghệ.
M ột nguyên nhân nữa là xuất phát từ những quy định thiếu hợp lý từ Bộ giáo
dục: “Trường nào có sai phạm về việc biên soạn giáo trình thì trường đó phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật vì nước ta đã có Luật”.Gọi chung là Bộ lại “trói”
trường: Đó là ý kiến của nhiều giảng viên về dự thảo thông tư quy định việc biên
soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục đại học của Bộ GD-
ĐT.
+ Giải pháp: Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu
và viết giáo trình trong đội ngũ giảng viên: Chính sách này cần thực hiện đồng bộ ở
tất cả các cấp, từ việc tăng thêm ngân sách hàng năm của N hà nước đến việc tăng tỉ
lệ ngân sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học ở từng trường, tăng kinh phí
cho các đề tài nghiên cứu và đầu tư thêm cho các phòng thí nghiệm phục vụ nghiên
cứu. Tất nhiên, không phải tăng kinh phí một cách “bình quân chủ nghĩa” mà nên
đầu tư “có trọng điểm” đối với các đề tài thực sự cần thiết và chắc chắn mang lại
hiệu quả nếu được thực hiện tốt. Có như vậy mới khuyến khích được người đảm
nhiệm đề tài, nhưng bên cạnh đó, chủ nhiệm đề tài cũng phải là những người có
“tâm” và đủ “tầm”.

×